Tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa

Tài liệu Tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 177 TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI TẦN SUẤT SỬ DỤNG SỮA VÀ CÁC CHẾ PHẨM TỪ SỮA Đinh Quỳnh Ngọc*, Trương Thị Thùy Dung*, Trần Quốc Cường** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng sử dụng sữa có thể giúp kiểm soát cân nặng và giảm lượng mỡ, tần suất sử dụng sữa cao làm giảm lượng chất béo trong cơ thể. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại đưa ra mối liên quan nghịch giữa lượng sữa với BMI, tình trạng dinh dưỡng và phần trăm mỡ cơ thể ở trẻ em gái. Điều này cho thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa vẫn còn nhiều tranh cãi. Mục tiêu: Xác định tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa của học sinh trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 404 học sinh trường TH...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 450 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 177 TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI TẦN SUẤT SỬ DỤNG SỮA VÀ CÁC CHẾ PHẨM TỪ SỮA Đinh Quỳnh Ngọc*, Trương Thị Thùy Dung*, Trần Quốc Cường** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng sử dụng sữa có thể giúp kiểm soát cân nặng và giảm lượng mỡ, tần suất sử dụng sữa cao làm giảm lượng chất béo trong cơ thể. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại đưa ra mối liên quan nghịch giữa lượng sữa với BMI, tình trạng dinh dưỡng và phần trăm mỡ cơ thể ở trẻ em gái. Điều này cho thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa vẫn còn nhiều tranh cãi. Mục tiêu: Xác định tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa của học sinh trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 404 học sinh trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền sau khi đồng ý tham gia nghiên cứu. Tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa được đánh giá bằng bộ câu hỏi FFQ 9 câu về tần suất sử dụng sữa và thức ăn nhanh. Tình trạng dinh dưỡng được xác định bằng cách tiến hành cân đo tại chỗ và tính tình trạng dinh dưỡng theo quy ước của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). PR được dùng để lượng giá mối liên quan, với ngưỡng có ý nghĩa thống kê p<0,05. Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy thừa cân và béo phì chiếm tỉ lệ 30,4%, tỉ lệ suy dinh dưỡng chiếm 3,3%. Tần suất tiêu thụ sữa và các chế phẩm từ sữa của học sinh chiếm 52%. Tỉ lệ học sinh sử dụng các chế phẩm từ sữa theo theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng chiếm 0,3%. Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa. Kết luận: Tỉ lệ học sinh sử dụng các chế phẩm từ sữa theo theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng thấp (0,3%). Vì vậy khuyến khích học sinh sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa theo đúng khuyến nghị của Viện dinh dưỡng: uống ít nhất 200ml sữa, ăn 200g sữa chua và 30g phô mai mỗi ngày. Từ khóa: tình trạng dinh dưỡng, sữa, các chế phẩm từ sữa, FFQ ABSTRACT CONDITION OF NUTRITION AND ASSOCIATED WITH THE FREQUENCY OF USING MILK AND MILK PRODUCTS Dinh Quynh Ngoc, Truong Thi Thuy Dung, Tran Quoc Cuong * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 177-183 Background: Using milk can help control weight and reduce fat, the frequency of using high milk reduces the amount of fat in the body. However, some studies have found an inverse relationship between milk intake and BMI and percentage of body fat in girls. This suggests a link between nutritional status and the frequency of controversial use of milk and milk products. Objective: Determination of nutritional status and the relationship between nutritional status and frequency of use of milk and dairy products from secondary school students in Ho Chi Minh City, Vietnam. * Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh **Trung tâm dinh dưỡng TP.Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Đinh Quỳnh Ngọc ĐT: 0355511683 Email: ngocquynh0996@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 178 Methods: Descriptive cross-sectional study was conducted on 398 secondary school students in Ho Chi Minh City. Students answer the self-filled questionnaire after agreeing to participate in the study. The frequency of use of milk and dairy products was assessed by the FFQ questionnaire consisting of 80 to more than 120 types of foods and beverages. Nutritional status was determined by conducting on-site measurement and nutritional status according to the World Health Organization (WHO). PR was used to evaluate the relationship, with a statistically significant threshold p <0.05. Results: Research results showed that overweight and obesity account for 30.4%, the rate of malnutrition accounted for 3.3%. The frequency of milk consumption and milk products of students accounted for 52%. The percentage of students using dairy products as recommended by the Nutrition Institute was 0.3%. The study had not found an association between nutritional status and the frequency of use of milk and dairy products. Conclusion: Percentage of students using milk products as recommended by the Institute of Nutrition was low (0.3%). Therefore encourage students to use milk and milk products in accordance with Nutrition Institute recommendations: drink at least 200ml of milk, eat 200g of yogurt and 30g of cheese per day. Keywords: nutritional status, milk, dairy products, FFQ ĐẶT VẤN ĐỀ Theo báo cáo của Tổ chức y tế Thế giới (WHO) năm 2018 suy dinh dưỡng đang trở thành một vấn nạn của toàn cầu, có đến 1/3 trẻ em trên thế giới tử vong do dinh dưỡng kém(17). Thống kê của UNICEF (2006) có 27% trẻ em ở các nước đang phát triển bị suy dinh dưỡng, riêng khu vực Đông Á và Thái Bình Dương có tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng trung bình là 15%(18). Tại Việt Nam, kết quả điều tra của Viện Dinh Dưỡng năm 2015 có 14,1% trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân; 24,6% trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi(19). Như vậy, suy dinh dưỡng thấp còi vẫn còn ở mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, ảnh hưởng đến tầm vóc thể lực người Việt Nam khi trưởng thành. Bên cạnh đó tỉ lệ trẻ bị thừa cân béo phì hiện cũng đang tăng lên nhanh chóng, trong năm 2016 có đến 41 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thừa cân béo phì và ở độ tuổi từ 5 – 19 tuổi là 364 triệu(16). Một nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ về thừa cân và béo phì ở thanh thiếu niên đang tăng lên nhanh chóng từ 5,0% và 0,6% (2002) lên 11,7% và 2,0% (2004)(6). Béo phì là một trong những nguyên nhân dẫn tới các bệnh không lây như: tăng huyết áp, đái tháo đường tuýp 2, các bệnh lý về tim mạch: xơ vữa và tắc mạch vành, nhồi máu cơ tim, đột quỵ(3). Hiện nay các chương trình can thiệp dinh dưỡng ở Việt Nam mới chỉ tập trung ưu tiên hai đối tượng là bà mẹ và trẻ em mà chưa chú trọng nhiều đến lứa tuổi vị thành niên (4). Chế độ can thiệp dinh dưỡng trong giai đoạn trẻ vị thành niên hết sức quan trọng, vì lứa tuổi này phát triển với tốc độ rất nhanh cả về chiều cao và cân nặng, các biến đổi về tâm, sinh lý, nội tiết, sinh dục. Đây cũng là độ tuổi cần được quan tâm đến chế độ ăn uống và bổ sung chất dinh dưỡng từ sữa để có thể phát triển thể chất toàn diện(2). Hiện nay, các nghiên cứu về mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng và tần suất sử dụng sữa đang có sự mâu thuẫn với nhau(1,7,12,13,14). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng sử dụng sữa có thể giúp kiểm soát cân nặng và giảm lượng mỡ trong cơ thể, tần suất sử dụng sữa cao làm giảm lượng chất béo trong cơ thể. Tuy nhiên, vẫn có một số nghiên cứu đưa ra kết quả ngược lại. Hiện nay các trường THCS vẫn chưa quan tâm nhiều đến tình trạng dinh dưỡng và thói quen sử dụng sữa của học sinh. PHƯƠNG PHÁP Thiết kế và đối tượng nghiên cứu Chúng tôi tiến hành một nghiên cứu cắt ngang trong thời gian tháng 01 đến tháng 06 năm 2018 trên 404 học sinh (lớp 6 – 9) được chọn ngẫu nhiên tại trường THCS Hồ Văn Long tại thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi chọn mẫu dựa vào phương pháp ngẫu nhiên phân tầng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 179 theo khối lớp và lớp, đầu tiên tính cỡ mẫu của từng khối, sau đó tính tỉ lệ học sinh mỗi lớp theo khối, từ đó tính được số học sinh cần lấy mẫu của mỗi lớp. Lập danh sách từng lớp và bốc thăm đủ số mẫu cần lấy. Phương pháp thu thập số liệu Sau khi được cung cấp thông tin về nghiên cứu và đồng ý tham gia thì học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền theo hướng dẫn của nghiên cứu viên. Sau khi hoàn thành nộp lại cho nghiên cứu viên kiểm tra và tiến hành đo chiều cao và cân nặng tại chỗ. Có 398 đối tượng thỏa tiêu chí được đưa vào phân tích. Công cụ thu thập số liệu Bộ câu hỏi tần suất thực phẩm (FFQ) là một bảng câu hỏi sử dụng để đo lường tần suất, mức độ về tiêu thụ thực phẩm và đồ uống trong một khoảng thời gian nhất định, thường là tháng hoặc năm. Bảng câu hỏi tần số thực phẩm (FFQ) đã được đánh giá tin cậy, giá trị tại Việt Nam và các khu vực trên thế giới(11,15). Ngoài ra, bộ câu hỏi FFQ đã được dùng để đánh giá tần suất thực phẩm của trẻ em Lebanon(11). Và đã được dùng để đánh giá lượng canxi trong một nhóm thanh thiếu niên ở Hồng Kông(7). Bộ câu hỏi FFQ được sử dụng trong nghiên cứu này lấy từ nghiên cứu của Trần Văn Định, đã được đánh giá tin cậy và giá trị(15). Tuy nhiên, nhóm tác giả chỉ lấy phần tần suất tiêu thụ sữa và thức ăn nhanh bao gồm 9 câu (thức ăn nhanh, nước ngọt, ăn sáng, sữa bò tươi có đường, sữa bò tươi không đường, sữa đậu nành, sữa bột, sữa chua và phô mai) đơn vị tính theo tháng. FFQs là bảng câu hỏi dành cho cá nhân (nghĩa là mỗi bảng FFQ được trả lời bởi 1 cá nhân, đo lường tần suất tiêu thụ thực phẩm của cá nhân). Chỉ số Z – score Đánh giá < 3SD Suy dinh dưỡng nặng < 2SD Suy dinh dưỡng vừa 2SD Z – score 1SD Bình thường 1SD Thừa cân 2SD Béo phì Thông tin về tình trạng dinh dưỡng được tính theo chỉ số khối cơ thể (BMI) thông qua chiều cao và cân nặng được đo bởi cân sức khỏe có thước đo chiều cao UC-CZ160. Kết quả được so sánh với quần thể tham chiếu của WHO năm 2007. Phân tích số liệu Sử dụng tần số và phần trăm để miêu tả các biến số định tính như tình trạng dinh dưỡng, giới, tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa. Dùng trung bình và độ lệch chuẩn, trung vị và khoảng tứ phân vị mô tả các biến số định lượng. Sử dụng phép kiểm chi bình phương (hoặc phép kiểm chính xác Fisher nếu trên 20% giá trị vọng trị <5 hoặc có 1 giá trị <1). Để lượng giá các mối liên quan bằng tỉ số tỉ lệ hiện mắc PR (Prevalence Ratio) với khoảng tin cậy 95%, ngưỡng ý nghĩa thống kê với p<0,05. KẾT QUẢ Trong tổng số 398 học sinh đưa vào phân tích, độ tuổi trung bình là 14 tuổi, tỉ lệ giữa nam và nữ tương đương nhau (46,5% và 53,5%). Chiều cao và cân nặng trung bình tương ứng là 154cm và 48,5kg. Phần lớn đối tượng nghiên cứu thỉnh thoảng chơi thể thao với tỉ lệ 62,8%. Chỉ có 11,8% học sinh thường xuyên ăn cơm sau 20 giờ. Có đến 27,9% học sinh mắc hội chứng bất dung nạp lactose. Tất cả học sinh đều sử dụng nước ngọt. Tỉ lệ học sinh sử dụng thức ăn nhanh khá cao với 46,7%. Học sinh đi ngủ trước 10 giờ cao hơn so với học sinh đi ngủ sau 10 giờ tối (67,1% so với 32,9%). Có đến 41,2% học sinh sử dụng các thiết bị điện tử trên 2 giờ mỗi ngày. Bảng 1: Đặc điểm dân số xã hội của đối tượng nghiên cứu (n=398) Đặc tính Tần số (n) Tỉ lệ (%) Giới Nữ 185 46,5 Nam 213 53,5 Tuổi* 14 (12 – 14) Chiều cao** 153,6 7,6 Cân nặng** 48,5 10,3 Tần suất chơi thể thao Thường xuyên (>3 lần/tuần) 119 29,9 Thỉnh thoảng (1-3 lần/tuần) 250 62,8 Không bao giờ 29 7,3 Tần suất ăn cơm sau 20 giờ Thường xuyên (>3 lần/tuần) 47 11,8 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 180 Đặc tính Tần số (n) Tỉ lệ (%) Thỉnh thoảng (1-3 lần/tuần) 215 54,0 Không bao giờ 136 34,2 Tần suất đau bụng khi uống sữa Thường xuyên (>3 lần/tuần) 6 1,5 Thỉnh thoảng (1-3 lần/tuần) 105 26,4 Không bao giờ 287 72,1 Thói quen sử dụng nước ngọt (lon 350ml) < 1 lon 289 72,6 1 – 3 lon 109 27,4 Thói quen sử dụng thức ăn nhanh (lần/ tuần) < 1 lần 82 20,6 1 – 2 lần 130 32,7 > 3 lần 186 46,7 Thời gian đi ngủ 10 giờ 267 67,1 10 giờ 131 32,9 Thời gian giải trí với thiết bị điện tử 2 giờ 234 58,8 > 2 giờ 164 41,2 *Trung vị (tứ phân vị) ** Trung bình ± Độ lệch chuẩn Bảng 2: Tình trạng dinh dưỡng của mẫu nghiên cứu (n=398) Tình trạng dinh dưỡng Tần số (n) Tỉ lệ (%) Béo phì 40 10,1 Thừa cân 81 20,3 Bình thường 264 66,3 Suy dinh dưỡng 13 3,3 Bảng 2 cho thấy thừa cân và béo phì chiếm tỉ lệ 30,4%; trong đó béo phì chiếm 10,1%. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp nhất chiếm 3,3%. Bảng 3: Tình trạng dinh dưỡng của mẫu nghiên cứu theo giới (n=398) Tình trạng dinh dưỡng Giới Nữ (n, %) Nam (n, %) Béo phì 12 (5,6) 28 (15,1) Thừa cân 41 (19,3) 40 (21,6) Bình thường 154 (72,3) 110 (59,5) Suy dinh dưỡng 6 (2,8) 7 (3,8 ) Tỉ lệ thừa cân ở nam cao hơn nữ (21,6% và 19,3%). Học sinh nam có tỉ lệ béo phì cao gấp 2,7 lần so với học sinh nữ. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nam và nữ tương đương nhau (3,8% và 2,8%) (Bảng 3). Số học sinh béo phì ở khối 6 chiếm tỉ lệ cao nhất với 18,2%, thấp nhất là khối 9 với 6,6% (Bảng 4). Bảng 4: Tình trạng dinh dưỡng của mẫu theo khối lớp (n=398) Tình trạng dinh dưỡng Khối lớp Khối 6 (n, %) Khối 7 (n, %) Khối 8 (n, %) Khối 9 (n, %) Béo phì 20 (18,2) 8 (9,1) 7 (5,7) 5 (6,6) Thừa cân 25 (22,7) 27 (30,7) 17 (13,7) 12 (15,8) Bình thường 59 (53,6) 52 (59,1) 97 (78,2) 56 (73,7) SDD 6 (5,5) 1 (1,1) 3 (2,4) 3 (4,0) Bảng 5: Tần suất tiêu thụ sữa và các chế phẩm từ sữa (n=398) Thực phẩm Tần số (n) Tỷ lệ (%) Sữa bò tươi có đường (1 ly=200ml) < 200ml/ ngày 246 61,8 200ml/ ngày 152 38,2 Sữa bò tươi không đường (1 ly=200ml) < 200ml/ ngày 379 95,2 200ml/ ngày 19 4,8 Sữa đậu nành (1 ly=200ml) < 200ml/ ngày 369 92,9 200ml/ ngày 28 7,1 Sữa bột (1 ly=200ml) < 200ml/ ngày 395 99,3 200ml/ ngày 3 0,8 Sữa chua (1 hộp=100ml) <200ml/ ngày 371 93,2 200ml/ ngày 27 6,8 Phô mai (1 miếng=15g) < 30g/ ngày 392 98,5 30g/ ngày 6 1,5 Phần lớn học sinh lựa chọn sữa bò tươi có đường để sử dụng, tỉ lệ học sinh sử dụng sữa bò có đường trên 200ml mỗi ngày là 38,2%. Tỉ lệ học sinh sử dụng sữa bò không đường, sữa đậu nành và sữa bột trên 200ml mỗi ngày là khá thấp với tỉ lệ là 4,8%, 7,1% và 0,8%. Số học sinh sử dụng trên 200ml sữa chua mỗi ngày là 6,8%. Học sinh sử dụng trên 30g phô mai mỗi ngày là 1,5% (Bảng 5). Số học sinh uống trên 200ml sữa mỗi ngày khá cao chiếm 48%, trong đó tỉ lệ ở nam thấp hơn nữ 19,4% (40,3% và 59,7%) (Bảng 6). Chỉ có 1,5% học sinh sử dụng trên 30g phô mai mỗi ngày, số học sinh nữ sử dụng nhiều gấp 2 lần Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 181 học sinh nam (66,7% so với 33,3%). Bảng 6: Tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa theo giới (n=398) Thực phẩm Giới Nam (n=185) Nữ (n=213) Sữa (1ly=200ml) (n,%) (n,%) < 200ml 108 (52,2) 99 (47,8) 200ml 77 (40,3) 114 (59,7) Sữa chua (1 hộp=100ml) < 200ml 177 (47,7) 194 (52,3) 200ml 8 (29,6) 19 (70,4) Phô mai (1 miếng=15g) < 30g 183 (46,7) 209 (53,3) 30g 2 (33,3) 4 (66,7) Tỉ lệ học sinh sử dụng các chế phẩm từ sữa theo theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng là rất thấp, chỉ có 0,3% (Bảng 7). Bảng 7: Tỉ lệ học sinh sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng (n=398) Khuyến cáo của Viện dinh dưỡng Tần số (n) Tỉ lệ (%) Tuân thủ 1 0,3 Không tuân thủ 397 99,7 Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa (p>0,05) (Bảng 8). Bảng 8: Mối liên quan giữa béo phì với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa (n=398) Thực phẩm Béo phì p Thừa cân p SDD p Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Sữa (1 ly=200ml) < 200ml 23 (11,1) 184 (88,9) 50 (24,2) 157 (75,8) 4 (1,9) 203 (98,1) 200ml 17 (8,9) 174 (91,1) 0,466 31 (16,2) 160 (83,8) 0,053 9 (4,7) 182 (95,3) 0,133 Sữa chua (1 hộp=100ml) < 200ml 36 (9,7) 335 (90,3) 78 (21,0) 293 (79,0) 12 (3,2) 359 (96,8) 200ml 4 (14,8) 23 (85,2) 0,386 3 (11,1) 24 (88,9) 0,25 1 (3,7) 26 (96,3) 0,895 Phô mai (1 miếng=15g) < 30g 40 (10,2) 352 (89,8) 80 (20,4) 312 (79,6) 13 (3,3) 379 (96,7) 30g 0 6 - 1 (16,7) 5 (83,3) 0,826 0 6 - BÀN LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ thừa cân béo phì chiếm 30,4% trong đó béo phì chiếm 10,1% và thừa cân chiếm 20,3% (bảng 2). Kết quả nghiên cứu chúng tôi cao hơn kết quả của tác giả Đào Thị Ngọc Trâm năm 2018(5) với tỉ lệ thừa cân béo phì là 3,8% và nghiên cứu của tác giả Lê Nguyên Hạ Duy năm 2017(8) với tỉ lệ thừa cân béo phì là 6,8%. Sự khác biệt này là do tỉ lệ thừa cân béo phì tăng lên qua từng năm nên tỉ lệ thừa cân béo phì trong nghiên cứu này cũng cao hơn so với các nghiên cứu khác(6). Bên cạnh đó, đa số đối tượng nghiên cứu là gia đình thuộc hộ khá giả (27,9%) vì vậy việc tiếp cận và sử dụng sử dụng thức ăn nhanh cao hơn so với những hộ gia đình nghèo và cận nghèo. Trong nghiên cứu của tác giả cho thấy, tỷ lệ thừa cân béo phì ở nam cao gấp 2,69 lần so với nữ. Kết quả nghiên cứu cao hơn so với báo cáo của Abreu và cộng sự năm 2012 tại Bồ Đào Nha(1), nghiên cứu của Abreu cho thấy tỉ lệ thừa cân béo phì ở nam cao hơn nữ 2,12 lần. Khác biệt này có thể là do tỉ lệ thừa cân béo phì ở mỗi quốc gia là khác nhau và do nghiên cứu của Abreu thực hiện tại Bồ Đào Nha với cỡ mẫu lớn hơn (n=1001), trong khi nghiên cứu của chúng tôi làm trên cỡ mẫu nhỏ hơn (n=398). Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nam và nữ chênh nhau không cao 2,8% và 3,8% (Bảng 3), kết quả này giống với kết quả nghiên cứu cắt ngang của tác giả Lê Nguyên Hạ Duy (năm 2017)(8), nhưng lại khác với kết quả của tác giả Đào Thị Ngọc Trâm (năm 2018) báo cáo tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nam là 13,2% và nữ là 20,2%(5). Có thể lí giải điều này là do nghiên cứu của Đào Thị Ngọc Trâm được thực hiện tại Đăk Nông, một tỉnh thuộc Tây Nguyên, nơi đây điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên tỉ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với thành phố, ngoài ra nghiên cứu này có cỡ mẫu nhỏ hơn so với của chúng tôi. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 182 Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sử dụng sữa có thể giúp kiểm soát cân nặng và giảm lượng mỡ trong cơ thể, tần suất sử dụng sữa cao làm giảm lượng chất béo nhưng rất ít nghiên cứu khảo sát vấn đề này tại Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng thang đo FFQ và cho thấy tần suất tiêu thụ sữa và các chế phẩm từ sữa của học sinh khá thấp, có đến 52% học sinh uống dưới 1 ly sữa mỗi ngày (bảng 6). Có nghĩa là 52% học sinh uống dưới 200ml sữa mỗi ngày, trong khi theo khuyến nghị của Viện dinh dưỡng, trẻ 10 – 19 tuổi nên uống ít nhất 200ml sữa, 200ml sữa chua và 30g phô mai mỗi ngày. Đa phần các học sinh lựa chọn sử dụng sữa có đường nhiều hơn sữa không đường trong khi theo khuyến cáo nên sử dụng sữa không đường và tách béo nhằm giảm lượng đường nạp vào cơ thể và giảm nguy cơ gây thừa cân béo phì(10). Chỉ có 6,8% học sinh sử dụng trên 200ml sữa chua mỗi ngày và 1,5% sử dụng trên 30g phô mai mỗi ngày. Đặc biệt có rất ít học sinh sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa theo đúng khuyến nghị của Viện dinh dưỡng (0,3%). Điều này cho thấy các chương trình truyền thông về sữa học đường vẫn chưa được nâng cao, vẫn chưa chú trọng vào các chế phẩm từ sữa như sữa chua và phô mai. Nghiên cứu này chưa tìm thấy bất kì mối liên quan nào giữa tình trạng dinh dưỡng với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa (p>0,05). Tương tự như những phát hiện của chúng tôi, nghiên cứu trên 196 bé gái từ 8 – 12 tuổi của Phillips SM với bộ câu hỏi tần suất sử dụng thực phẩm FFQ không tìm thấy mối liên quan giữa lượng tiêu thụ sữa và BMI hoặc tỉ lệ mỡ trong cơ thể(13). Nghiên cứu cắt ngang của Manijech Nezami và các cộng sự trên 601 thanh thiếu niên từ 12 – 18 tuổi tại California và Michigan đã tìm thấy mối liên qua giữa tần suất sử dụng sữa với chiều cao theo tuổi (HZA) và cân nặng theo tuổi (WAZ), riêng ở trẻ em trai đã phát hiện mối liên quan đáng kể giữa tổng lượng sữa và tỷ lệ eo-hông (WHtR), tuy nhiên nghiên cứu này không tìm thấy mối liên quan giữa sử dụng sữa và BMI. Hạn chế của nghiên cứu là bộ câu hỏi FFQ do người tham gia nghiên cứu tự báo cáo lại nên có thể xảy ra sai xót do sự khác biệt về dung tích của sữa và thực phẩm(9). Nghiên cứu này có một số hạn chế là nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi FFQ đã được đánh giá tin cậy và giá trị trên những người trưởng thành Việt Nam. Tuy nhiên, chưa đánh giá tin cậy và giá trị trên đối tượng thanh thiếu niên Việt Nam. Ngoài ra, việc sử dụng bộ câu hỏi này có thể xảy ra một số sai lệch hồi tưởng trong quá trình nhớ lại của đối tượng nghiên cứu. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy thừa cân và béo phì chiếm tỉ lệ 30,4% trong đó béo phì chiếm 10,1%. Tỉ lệ suy dinh dưỡng khá thấp chiếm 3,3%, thấp hơn so với các nghiên cứu trước. Tần suất tiêu thụ sữa và các chế phẩm từ sữa của học sinh chưa cao chiếm 52%. Tỉ lệ học sinh sử dụng các chế phẩm từ sữa theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng là rất thấp, chỉ chiếm 0,3%. Khuyến khích học sinh sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa theo đúng khuyến nghị của Viện dinh dưỡng: uống ít nhất 200ml sữa, ăn 200g sữa chua và 30g phô mai mỗi ngày. Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với tần suất sử dụng sữa và các chế phẩm từ sữa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abreu S, Moreira C, Santos PC, Vale S, Soares-Miranda L, Mota J, Moreira P, (2012) Milk intake is inversely related to body mass index and body fat in girls. Eur J Pediatr, 171(10): tr. 1467-1474. 2. Bộ Y Tế (2015). Những điều cần biết về dinh dưỡng cho lứa tuổi vị thành niên,tr.15 3. Bộ Y Tế (2015). Việt Nam tỷ lệ người trưởng thành bị thừa cân, béo phì chiếm khoảng 25% dân số, tr.1 4. Cục Y Tế Dự Phòng (2015). Dinh dưỡng cho lứa tuổi vị thành niên, tr.2 5. Đào Thị Ngọc Trâm, Đỗ Thị Hoài Thương, Đỗ Thị Ngọc Diệp (2018). Khẩu phần ăn của học sinh trường THCS nguyễn chí thanh tại thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh. 22(1): tr. 253 - 259. 6. Hong TK, Dibley MJ, Sibbritt D, Binh PN, Trang NH, Hanh TT, (2007). Overweight and obesity are rapidly emerging among adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam, 2002-2004. Int J Pediatr Obes, 2(4): tr. 194-201. 7. Lee WTK et al (2005). Generalized Low Bone Mass of Girls with Adolescent Idiopathic Scoliosis is related to Inadequate Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 183 Calcium Intake and Weight Bearing Physical Activity in Peripubertal Period. Osteoporos Int, 16: 1024–35. 8. Lê Nguyên Hạ Duy (2017). Tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan của học sinh khối 6, 7, 8 trường Trung học Cơ sở Cát Thành, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, năm 2017, in Khoa y tế công cộng, Đại học y dược Tp.HCM, tr. 115. 9. Nezami M, et al. (2016). Associations between Consumption of Dairy Foods and Anthropometric Indicators of Health in Adolescents. Nutrients. 8(7). 10. Nguyễn Thị Thu Hậu (2013). Cho bé dùng sữa tươi: Đúng mới có lợi, tr.7 11. Moghames P et al. (2016). Validity and reliability of a food frequency questionnaire to estimate dietary intake among Lebanese children. Nutr J. 15. 12. Moore LL et al (2008). Dairy intake and anthropometric measures of body fat among children and adolescents in NHANES. J Am Coll Nutr. 27(6): tr. 702-710. 13. Phillips SM et al (2003). Dairy food consumption and body weight and fatness studied longitudinally over the adolescent period. Int J Obes Relat Metab Disord. 27(9): pp. 1106-1113. 14. Shahar D, et al (2003). Development of a semi-quantitative Food Frequency Questionnaire (FFQ) to assess dietary intake of multiethnic populations. European Journal of Epidemiology. 18(9): pp. 855-861. 15. Tran Van Dinh, Hoang Van Dong, Nguyen Thanh Chung, Lee AH (2013). Validity and reliability of a food frequency questionnaire to assess habitual dietary intake in Northern Vietnam, Journal of Public Health, 1 (1):pp.57 16. Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) (2017). Obesity and overweight, tr.1 17. Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) (2018). Dinh Dưỡng, tr.1 18. UNICEF (2006). Việt Nam trên đà đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) trong lĩnh vực giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tr.1 19. Viện Dinh Dưỡng (2015). Số liệu thống kê về tình trạng dinh dưỡng trẻ em qua các năm, tr.1 Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf177_5425_2164314.pdf