Tài liệu Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập: 107
Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ...
TÓM TẮT
Kích thích tinh thần khởi nghiệp, hình
thành đội ngũ doanh nhân mạnh là con
đường để Việt Nam có thể phát triển nhanh
và bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng. Bài viết phân tích tinh thần doanh
nhân khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay dựa
trên các yếu tố về: Nắm bắt cơ hội kinh
TINH THẦN DOANH NHÂN KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
Lê Thế Phiệt *
* TS. GV. Khoa Kinh tế, Trường Đại học Tây Nguyên
doanh; (ii) Dám chấp nhận rủi ro, (iii) Sáng
tạo - đổi mới, (iv) Thành quả bền vững. Từ đó
đề xuất một số gợi ý nhằm xây dựng tinh thần
doanh nhân khởi nghiệp tại Việt Nam trong
điều kiện hội nhập hiện nay.
Từ khoá: Doanh nhân, Hội nhập, Khởi
nghiệp, Tinh thần doanh nhân.
BUSINESS ENVIRONMENT IN VIETNAM IN
CONGESTION CONDITIONS
ABSTRACT
Stimulate entrepreneurship, formed a
strong team of entrepreneurs is the way
to Vietnam can be rapid and sustainable
development in the context o...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
107
Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ...
TÓM TẮT
Kích thích tinh thần khởi nghiệp, hình
thành đội ngũ doanh nhân mạnh là con
đường để Việt Nam có thể phát triển nhanh
và bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng. Bài viết phân tích tinh thần doanh
nhân khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay dựa
trên các yếu tố về: Nắm bắt cơ hội kinh
TINH THẦN DOANH NHÂN KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
Lê Thế Phiệt *
* TS. GV. Khoa Kinh tế, Trường Đại học Tây Nguyên
doanh; (ii) Dám chấp nhận rủi ro, (iii) Sáng
tạo - đổi mới, (iv) Thành quả bền vững. Từ đó
đề xuất một số gợi ý nhằm xây dựng tinh thần
doanh nhân khởi nghiệp tại Việt Nam trong
điều kiện hội nhập hiện nay.
Từ khoá: Doanh nhân, Hội nhập, Khởi
nghiệp, Tinh thần doanh nhân.
BUSINESS ENVIRONMENT IN VIETNAM IN
CONGESTION CONDITIONS
ABSTRACT
Stimulate entrepreneurship, formed a
strong team of entrepreneurs is the way
to Vietnam can be rapid and sustainable
development in the context of intensive
international integration. This study
analyzes the entrepreneurship in Vietnamese
by focusing on following components: (i)
Capturing business opportunities; (ii) level
of risk adverse, (iii) Creativity - Innovation,
(iv) Sustainable development. Base on that,
we propose a number of solutions in order
to improve and develop the entrepreneurship
in Vietnamese to adapt incoming challenges
from international integration.
Keywords: Entrepreneur, Integration,
Startup, Entrepreneurship.
1. GIỚI THIỆU
Doanh nhân có vai trò ngày càng quan
trọng trong việc phát triển kinh tế trong nước
và đưa đất nước hội nhập với quốc tế. Họ là
người có định hướng rõ ràng cùng với sự nhiệt
tình sáng tạo để có thể nhìn thấy các cơ hội
còn tiềm ẩn và nắm bắt tận dụng chúng một
cách triệt để. Ở Việt Nam, vai trò của doanh
nhân ngày càng được coi trọng, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 (khóa 12) đã xác định phát
triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Để hội nhập và cạnh tranh trong một nền
108
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
kinh tế toàn cầu, Việt Nam phải trở thành
một quốc gia khởi nghiệp. Hiện tại, Việt Nam
hiện có khoảng 1.800 doanh nghiệp khởi
nghiệp, số lượng doanh nghiệp khởi không
ngừng tĕng nhanh so với các nĕm trước đây.
Xét theo mật độ, các công ty khởi nghiệp trên
đầu người ở Việt Nam nhiều hơn cả các quốc
gia như Trung Quốc, Ấn Độ (hiện có 2.100
công ty khởi nghiệp tại Indonesia, 2.300 tại
Trung Quốc và 7.500 tại Ấn Độ) [3]. Nĕm
2016 là nĕm của tinh thần khởi nghiệp, cũng
như tinh thần khởi nghiệp đã được khơi dậy
từ Nghị quyết Đại hội lần thứ 12 của Đảng,
cũng như Nghị quyết 35 về phát triển doanh
nghiệp và từ động thái rất tích cực của Chính
phủ. Tuy nhiên, việc khởi nghiệp hiện nay
còn gặp nhiều khó khĕn. Đó là, đa số doanh
nghiệp khởi nghiệp thường non trẻ, nguồn tài
chính không có nhiều, đội ngũ nhân sự chỉ là
những người làm chuyên môn. Do đó, những
kiến thức về thủ tục hành chính, pháp lý
đang khiến những doanh nghiệp khởi nghiệp
còn gặp nhiều lúng túng. Do đó, việc nghiên
cứu tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
2. DOANH NHÂN VÀ TINH THẦN
DOANH NHÂN
2.1. Doanh nhân
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về
doanh nhân, tùy thuộc góc độ tiếp cận, lĩnh
vực nghiên cứu. Doanh nhân là nhà đầu tư, là
nhà quản lý, là người chèo lái thuyền doanh
nghiệp mà điểm khác biệt của doanh nhân với
những người khác là ở chỗ họ là người dám
chấp nhận mạo hiểm, rủi ro khi dấn thân vào
con đường kinh doanh. Nói một cách chặt
chẽ, doanh nhân là những người chủ doanh
nghiệp trực tiếp kinh doanh doanh nghiệp
của mình, những người được cử hoặc được
thuê để quản lý doanh nghiệp, thực hiện
nhiệm vụ kinh doanh; trách nhiệm và lợi ích
của họ gắn liền với kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp, phải có đủ điều kiện để sáng
tạo, không ngừng phát triển doanh nghiệp.
Doanh nhân là người làm kinh doanh, là chủ
thể lãnh đạo, chịu trách nhiệm trước xã hội
và pháp luật. Doanh nhân có thể là chủ một
doanh nghiệp, là người sở hữu và điều hành,
Chủ tịch công ty, Giám đốc công ty hoặc cả
hai [1].
Các định nghĩa như trên cho chúng ta
thấy một quan điểm toàn diện hơn về doanh
nhân. Tuy nhiên, những định nghĩa này vẫn
bỏ qua một nhóm đối tượng gồm hàng triệu
người hiện đang theo đuổi nghề nghiệp kinh
doanh ở nước ta là những người kinh doanh
cá thể (doanh nhân cá nhân) và những hộ
kinh doanh không lập doanh nghiệp; mà
chính sự đóng góp của họ với tư cách là các
chủ thể kinh doanh đông đảo nhất đã tạo
nên nét đặc sắc của vĕn hóa doanh nhân và
vĕn hóa kinh doanh Việt Nam. Bởi thế, theo
VCCI: “doanh nhân là những người chủ sở
hữu hoặc đại diện chủ sở hữu trực tiếp quản
lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và các loại hình tổ
chức sản xuất kinh doanh khác; sáng tạo,
dám chấp nhận mạo hiểm, có trách nhiệm
xã hội; là lực lượng chủ yếu tạo lập và phát
triển một mô hình tổ chức kinh doanh mới,
đại biểu cho lực lượng sản xuất mới, đáp
ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường hiện đại”.
2.2. Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp
Tinh thần khởi nghiệp (entrepreneurship)
còn được gọi là tinh thần doanh nhân khởi
nghiệp, là một thuật ngữ xuất hiện khá lâu
trên thế giới và cũng đã xuất hiện nhiều trong
các bài viết ở Việt Nam những nĕm gần đây.
Theo các nhà nghiên cứu thì những doanh
nhân có tinh thần khởi nghiệp thật sự phải là
109
Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ...
những con người mà bản thân họ có hoài bão
vượt lên số phận, chấp nhận rủi ro với tinh
thần đổi mới và sáng tạo; đồng thời dũng cảm
gánh chịu những tai họa nghiêm trọng về vật
chất và tinh thần khi làm ĕn thua lỗ.
Nhà kinh tế học Mỹ Peter F. Drucker
cho rằng “tinh thần doanh nhân khởi nghiệp
được hiểu là hành động của doanh nhân khởi
nghiệp - người tiến hành việc biến những cảm
nhận nhạy bén về kinh doanh, tài chính và
sự đổi mới thành những sản phẩm hàng hóa
mang tính kinh tế. Kết quả của những hành
động này là tạo nên những tổ chức mới hoặc
góp phần tái tạo những tổ chức đã “già cỗi”.
Hình thức rõ ràng nhất của tinh thần doanh
nhân khởi nghiệp là bắt đầu xây dựng những
doanh nghiệp mới” [2].
Do vậy, doanh nhân được nhận diện và
phân biệt với những người làm nghề kinh
doanh khác như nhà quản trị, thương gia...
bởi các yếu tố cốt lõi của tinh thần kinh doanh
là: Khả nĕng nắm bắt cơ hội kinh doanh, sự
khởi nghiệp (new venture startup); thái độ
chấp nhận rủi ro (taking risk); tính sáng tạo
- đổi mới (creative - innovation); đạt những
thành quả có tính bền vững (reward). Các yếu
tố cốt lõi đó của tinh thần kinh doanh có mối
quan hệ biện chứng và chu kỳ: “Nắm bắt cơ
hội kinh doanh” sẽ dẫn đến “Dám chấp nhận
rủi ro” để triển khai cơ hội kinh doanh đó
một cách “sáng tạo - đổi mới” từ đó mang
lại “thành quả bền vững”, và một chu kỳ mới
lại bắt đầu với việc “nắm bắt cơ hội kinh
doanh” mới... Đồng thời, các yếu tố này lại
có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau. Sáng tạo - đổi mới là nền tảng cho
phát hiện, tạo ra cơ hội kinh doanh mới; tính
dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận rủi ro,
thực hiện các kế hoạch kinh doanh khi thông
tin chưa rõ ràng, nguồn lực chưa đầy đủ sẽ
là định hướng tư duy cho khám phá cơ hội
kinh doanh. Đi trước đối thủ nhờ nắm bắt cơ
hội, chấp nhận rủi ro và sáng tạo - đổi mới
sẽ mang lại thành quả tốt cho doanh nhân và
nhờ có thành quả tốt đó doanh nhân lại sử
dụng nó làm nền tảng cho tái đầu tư một chu
kỳ kinh doanh mới [3].
3. THỰC TRẠNG TINH THẦN DOANH
NHÂN KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng nắm bắt cơ hội kinh doanh
Doanh nhân trước hết phải là người có
định hướng cơ hội. Người có định hướng cơ
hội là người có tư duy hướng ra bên ngoài
thay vì hướng vào bên trong; luôn cố gắng
thực hiện những điều còn mơ hồ, chưa ai biết
cách thực hiện, xây dựng những phương án
thực hiện dựa trên nguồn lực và nĕng lực mà
bản thân chưa đủ, chưa có; làm hết sức để
đạt được mục tiêu thay vì tìm cách sử dụng
những gì đang có. Nhận thức về cơ hội khởi
nghiệp ở Việt Nam được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1: Nhận thức về cơ hội khởi nghiệp ở Việt Nam (Đơn vị tính %)
2013 2014 2015
Việt Nam
Philippin
Indonexia
Thai lan
Malaixia
36,8
48
47
45
41
39,4
45,9
45,5
47,3
43,4
56,8
53,8
49,9
41,0
28,2
110
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 1 cho thấy, tỷ lệ người trưởng thành
nhận thấy có cơ hội để bắt đầu một việc kinh
doanh mới ở Việt Nam trong nĕm 2013 chỉ
đạt 36,8%, nhưng tĕng lên 56,8% nĕm 2015
cao hơn so với mức bình quân 53,8% của
các nước đang ở trong giai đoạn phát triển
tương tự như Việt Nam khi mà tĕng trưởng
kinh tế dựa trên các yếu tố đầu vào.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vấn
đề này, tuy nhiên nguyên nhân chính đó là
những người trưởng thành của Việt Nam đã
nhận thấy có đủ kiến thức, kỹ nĕng và kinh
nghiệm cần thiết để bắt đầu kinh doanh. Bảng
2, thể hiện nhận thức khả nĕng kinh doanh ở
Việt Nam.
Bảng 2: Nhận thức khả nĕng kinh doanh ở Việt Nam (Đơn vị tính %)
2013 2014 2015
Việt Nam
Philippin
Indonexia
Thai lan
Malaixia
Các nước dựa trên nguồn lực
Các nước dựa trên hiệu quả
Các nước dựa trên đổi mới
48,7
68
62
44
28
69
52
41
58,2
66,1
60,2
50,1
38,4
64,7
54,9
42,0
56,8
69,0
65,3
46,2
27,8
65,8
53,0
41,9
Nguồn: Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt nam
Bảng 2, cho thấy tỷ lệ người Việt Nam tự
tin về khả nĕng kinh doanh nĕm 2014 và 2015
tĕng nhanh so với 2013. Tuy nhiên, so với
các nước ASEAN Việt nam cao hơn Malaixia
(thứ 57), Thai lan (thứ 36) nhưng lại thấp hơn
Indonexia (thứ 10) và Philippin (thứ 8). Điều
này cho thấy, nhận thức về kinh doanh của
người Việt Nam, là một trong những trở ngại.
Do đó, cần quan tâm đến vai trò quan trọng
của giáo dục đào tạo trong việc phát triển
nhận thức về kinh doanh, tạo kiến thức và
kỹ nĕng khởi nghiệp và vận hành hoạt động
kinh doanh.
3.2. Thực trạng dám chấp nhận rủi ro
Lo sợ thất bại mặc dù đã nhận biết được
cơ hội kinh doanh là một trong những yếu
tố tâm lý quan trọng cản trở sự tham gia vào
kinh doanh của các doanh nhân.
Các nước dựa trên nguồn lực
Các nước dựa trên hiệu quả
Các nước dựa trên đổi mới
61
42
33
54,6
42,4
38,8
53,8
41,1
39,6
Nguồn: Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt nam
111
Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ...
Bảng 3: Lo sợ thất bại kinh doanh ở Việt Nam (Đơn vị tính %)
2013 2014 2015
Việt Nam
Philippin
Indonexia
Thai lan
Malaixia
Các nước dựa trên nguồn lực
Các nước dựa trên hiệu quả
Các nước dựa trên đổi mới
56,7
36
35
49
33
31
34
38
50,1
37,7
38,1
42,4
26,8
31,4
31,6
37,8
45,6
36,5
39,5
46,6
27,1
35,1
33,3
38,7
Nguồn: Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt nam
Thông thường, các nước đang phát triển
ở giai đoạn đầu có tỷ lệ lo sợ thất bại trong
kinh doanh nhỏ hơn tỷ số này của Việt Nam,
và những quốc gia càng phát triển, người
dân càng cẩn thận hơn khi tham gia vào
hoạt động kinh doanh. Nĕm 2013 chỉ số lo
sợ thất bại của Việt Nam rất cao là 56,7%.
Tuy nhiên, đến nĕm nĕm 2014 và 2015 nhờ
những nỗ lực cải thiện môi trường kinh
doanh của chính phủ, chỉ số lo sợ thất bại
trong kinh doanh của người Việt Nam đã
giảm xuống còn 50,1% nĕm 2014 và 45,6%
nĕm 2015. Tuy chỉ số này đã giảm nhưng
vẫn còn ở mức cao, xếp thứ 8/60 nước trong
nĕm 2015, vẫn còn ở mức cao so với các
quốc gia cùng trình độ phát triển và cao hơn
mức trung bình của các nước phát triển ở
giai đọan III.
3.3. Thực trạng hoạt động sáng tạo -
đổi mới
Tính sáng tạo của doanh nhân thể hiện ở
khả nĕng kết hợp đa dạng các yếu tố nguồn
lực sản xuất ở các phương án khác nhau nhằm
tạo nên sức cạnh tranh mới, sản phẩm mới.
Điều này giúp người tiêu dùng có thêm sự
lựa chọn về sản phẩm mới thay thế sản phẩm
cũ tương tự. Như vậy sự sáng tạo của doanh
nhân giúp đáp ứng nhu cầu của thị trường
hiện tại và phát triển nhu cầu trong tương lại.
Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt nam
nĕm 2015 cho thấy, có 16,5% hoạt động kinh
doanh ở giai đoạn khởi nghiệp Việt Nam
được coi là có tính sáng tạo, xếp 50/60 nền
kinh tế, thấp hơn mặt bằng chung các nước
cùng trình độ phát triển. So với các nước
trong khu vực ASEAN, tính sáng tạo trong
hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam thấp
hơn Philippin (16/60), Thái lan (42/60) và
Indonexia (46/60).
Bên cạnh đó, Doanh nhân Việt Nam được
đánh giá là có sự linh hoạt - mềm dẻo, là yếu
tố rất thuận lợi trong đàm phán, thương lượng
và là nền tảng cho sự tiếp thu cái mới, nền
vĕn hóa, vĕn minh mới của nhân loại. Tuy
nhiên, sự mềm dẻo, linh hoạt theo tính cách
của người Việt Nam lại rất dễ dẫn đến tư duy
không nhất quán, thiếu nguyên tắc hay thói
quen tùy tiện. Tính linh hoạt của người Việt
Nam là linh hoạt trong đối phó, ứng xử - đó
là linh hoạt bị động. Còn linh hoạt chủ động
là dựa trên kế hoạch chi tiết, cẩn trọng, dựa
trên nền tảng học vấn vững chắc.
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 4: Định hướng đổi mới trong các hoạt động kinh doanh ở Việt Nam
Đơn vị tính: %
Giai đoạn
kinh doanh
Không mới Hơi mới Mới
Sản
phẩm
Thị
trường
Công
nghệ
Sản
phẩm
Thị
trường
Công
nghệ
Sản
phẩm
Thị
trường
Công
nghệ
Giai đoạn
khởi nghiệp
55 63,4 68,1 40,3 34,4 27,5 4,8 2,2 4,4
Giai đoạn đã
ổn định
57,7 57,5 88 39,6 40,9 11,5 2,8 1,5 0,5
Nguồn: Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt nam
Nhìn vào Bảng 4 ta thấy các hoạt động
kinh doanh ở Việt Nam đa phần không mang
tính đổi mới, ở cả giai đoạn khởi nghiệp và
giai đoạn đã ổn định. Trong nĕm 2015, đối
với giai đoạn khởi nghiệp, chỉ có 4,8% hoạt
động kinh doanh các sản phẩm mới, 2,2%
hoạt động kinh doanh mới đối với thị trường
và 4,4% hoạt động kinh doanh sử dụng công
nghệ mới. Ở giai đoạn đã ổn định, tỷ lệ hoạt
động kinh doanh mới lần lượt là: 2,8% về sản
phẩm, 1,5% về thị trường và 0,5% về công
nghệ. Số liệu Bảng 1 cũng cho thấy có sự
khác biệt giữa các hoạt động kinh doanh ở
giai đoạn đầu và đã phát triển. Các hoạt động
kinh doanh ở giai đoạn đầu đã có định hướng
đổi mới về sản phẩm và công nghệ nhiều
hơn so với các hoạt động kinh doanh đã phát
triển, nhất là về công nghệ.
3.4. Thành quả bền vững
Doanh nhân Việt Nam đã bắt đầu nhận
thức được việc kinh doanh có đạo đức và
thực hiện trách nhiệm xã hội là rất quan
trọng. Tuy nhiên, với hệ thống thể chế còn
chưa hoàn thiện, tính nghiêm minh của pháp
luật chưa cao, nên việc kinh doanh có đạo
đức và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội đặc
biệt là áp dụng các tiêu chuẩn của thế giới
được nhìn nhận là chưa mang lại hiệu quả
tức thì, phát sinh nhiều chi phí, không thiết
thực và thậm chí có nhiều doanh nhân còn
cho rằng nó làm giảm sức cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường khi tổ chức tuân thủ
đúng đạo đức và thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội của mình. Thậm chí chữ -tín trong kinh
doanh chưa được đáng giá cao trong cộng
đồng các doanh nhân, mặt khác trách nhiệm
xã hội của doanh nhân đang được hiểu một
cách rất phiến diện. Rất nhiều doanh nhân
đang hiểu và thực hiện trách nhiệm xã hội
chủ yếu qua các khía cạnh bề nổi, hình thức,
với mục đích góp phần đánh bóng tên tuổi
mà thiếu các hoạt động mang tính chiều sâu,
tạo khả nĕng phát triển bền vững cho tổ chức
và cho xã hội.
113
Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ...
Bảng 5: Hoạt động xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam
Đơn vị tính: %
Giai đoạn
kinh doanh
Việt
Nam
Philippin Indonexia Malaixia Trung
quốc
Hàn
quốc
Trung bình
thế giới
Giai đoạn
khởi nghiệp
1,1 7,12 1,56 0,72 5,52 0,25 3,2
Kinh doanh
đã ổn định
0,65 7,47 2,34 1,35 2,91 1,25 3,7
Nguồn: Báo cáo chỉ số khởi nghiệp Việt nam
Bảng 5 cho thấy, các hoạt động xã hội
ở Việt nam chưa thật sự phát triển, nhất là
so với các nước trong khu vực châu á như
Philippin, Indonesia, Trung quốc. Nĕm 2015,
các hoạt động xã hội ở Việt Nam ở giai đoạn
khởi nghiệp chỉ là 1,1% trong khi đó mức
trung bình thế giới là 3,2% và giai đoạn kinh
doanh ổn định là 0,65% so với mức trung
bình thế giới là 3,7%.
4. XÂY DỰNG TINH THẦN DOANH NHÂN
KHỞI NGHIỆP TẠI VIỆT NAM TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
Một là, tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh thông qua gỡ bỏ các rào cản. Cần
tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, xây
dựng lại lòng tin cho người làm kinh doanh,
thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp. Nhà nước cần
kiên định với các chính sách ổn định kinh tế
vĩ mô. Đồng thời, cần cải thiện hệ sinh thái
khởi nghiệp để thúc đẩy phong trào khởi
nghiệp và phát triển kinh doanh ở Việt Nam.
Hoàn thiện mạng lưới các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh thông qua phát triển các nhà cung cấp
dịch vụ tư nhân, các hiệp hội doanh nghiệp.
Đồng thời, Chính phủ cần khuyến khích các
doanh nghiệp lớn khởi nghiệp các hoạt động
kinh doanh xã hội để làm bệ đỡ cho hoạt động
khởi nghiệp của các doanh nghiệp nhỏ, trẻ.
Hai là, Cần có các chính sách hỗ trợ
nhất quán và đồng bộ từ chính phủ và các
cấp chính quyền cho hoạt động khởi nghiệp.
Hiện nay, các chính sách, mô hình hỗ trợ
khởi nghiệp tại Việt Nam vẫn còn quá thiếu
và yếu kém.
Ba là, Ban hành đầy đủ các chính sách
thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trong nước
tĕng trưởng. Nhà nước phải thực sự xem kinh
tế tư nhân là động lực phát triển xã hội. Cùng
với đó, cần nhanh chóng và kiên quyết cải
cách thể chế theo hướng giảm mạnh thủ tục
hành chính, triệt bỏ tệ nạn sách nhiễu doanh
nghiệp từ các cơ quan công quyền, tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình khởi
nghiệp, quá trình sản xuất kinh doanh của
cộng đồng doanh nghiệp được thông suốt và
hiệu quả.
Bốn là, Cần phải hình thành tinh thần
khởi nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường. Cải cách hệ thống giáo
dục từ phổ thông đến đại học theo hướng
gắn giáo dục - đào tạo với hoạt động thực
tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy vĕn
hóa khởi nghiệp là điều kiện tiên quyết để
bản thân mỗi người hình thành ý chí tự thân
lập nghiệp. Đồng thời, cần xây dựng chương
trình, lộ trình cụ thể để nâng cao nhận thức,
khơi dậy tinh thần khởi nghiệp cho người
dân nói chung trong tất cả các định chế
xã hội.
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Nĕm là, Thúc đẩy đam mê, tinh thần
khởi nghiệp trong thanh niên. Khởi nghiệp
ở đâu, trong bất kỳ lĩnh vực nào luôn cần sự
đam mê, độ kiên trì bền bỉ. Khởi nghiệp là
chặng đường nhiều chông gai gian khó, cần
có đam mê để sẵn sàng dấn thân, kiên nhẫn
đi trên một chặng đường dài. Nếu không có
niềm đam mê khởi nghiệp, không toàn tâm
toàn ý thì rất khó đi tới đích; nên đam mê
trong khởi nghiệp là yếu tố, có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng.
Sáu là, Thúc đẩy tinh thần chủ động
khởi nghiệp. Chúng ta cần xây dựng và nuôi
dưỡng tinh thần khởi nghiệp chủ động, vì
môi trường xã hội luôn là yếu tố quan trọng
nhất tạo nên phương thức sinh tồn của con
người. Nhà nước hay các tổ chức xã hội xây
dựng các loại vườn ươm khởi nghiệp, tạo
điều kiện hỗ trợ cho những ý tưởng sáng tạo
sớm được áp dụng. Hằng nĕm nên có những
cuộc thi sáng tạo. Những sáng tạo có giá trị
sẽ được giải thưởng xứng đáng. Những sáng
tạo có thể tạo được giá trị kinh tế cũng có
thể đem ra áp dụng tại các vườn ươm, hay
bán quyền sở hữu trí tuệ lại cho các doanh
nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Minh Cương (2009), “Bàn về khái
niệm doanh nhân Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học Đại học quốc gia Hà nội, Kinh tế và Kinh
doanh 25(2009).
[2] Peter F. Drucker, Tinh thần doanh nhân
khởi nghiệp và sự đổi mới, NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2001.
[3] Nguyễn Viết Lộc (2011), “Tinh thần kinh
doanh - Cơ sở xây dựng hệ giá trị vĕn hóa
doanh nhân Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
Đại học quốc gia Hà nội, Kinh tế và Kinh
doanh 27 (2011).
[4] Huyền Trang (2017), Khởi nghiệp công
nghệ: cơ hội cho giới trẻ Việt thực hiện ước
mơ thay đổi thế giới,
cong-nghe-co-hoi-chogioi-tre-viet-thuc-hien-
uoc-mothay-doi-the-gioi-d309092.html
[5] VCCI (2016), Báo cáo chỉ số khởi nghiệp
Việt nam 2013,2014,2015, NXB giao thông
vận tải, Hà Nội.
[6] VCCI (2017), Báo cáo thường niên doanh
nghiệp Việt nam 2016, NXB Thông tin và
truyền thông.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 38_9927_2136172.pdf