Tài liệu Tính nhục thể: Phương thức sáng tạo nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam mang dấu ấn hậu hiện đại từ sau năm 1986 đến nay: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017
131
Tính nhục thể: Phương thức sáng tạo nhân vật
trong tiểu thuyết Việt Nam mang dấu ấn hậu hiện đại
từ sau năm 1986 đến nay
Corporeality: The method of creating characters that bears the stamo of postmodern
in Vietnamese novels from after 1986 to now
ThS. Nguyễn Thị Lan Anh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM
Nguyen Thi Lan Anh, M.A.
University of Social Sciences and Humanities – National University HCMC
Tóm tắt
Tính nhục thể là một trong những thủ pháp, quan niệm về việc sử dụng các yếu tố tính dục trong văn
chương hậu hiện đại, nhằm miêu tả con người với phần bản năng của mình. Phương thức này khá phổ
biến trong văn chương hậu hiện đại trên thế giới cũng như được biểu hiện khá rõ nét trong các tiểu
thuyết mang dấu ấn hậu hiện đại của Việt Nam. Qua vấn đề tính dục, nhà văn soi chiếu vào tâm hồn mỗi
con người, mở ra những tri nhận về mối quan hệ đồng nhất giữa thế gi...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính nhục thể: Phương thức sáng tạo nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam mang dấu ấn hậu hiện đại từ sau năm 1986 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 27 (52) - Thaùng 4/2017
131
Tính nhục thể: Phương thức sáng tạo nhân vật
trong tiểu thuyết Việt Nam mang dấu ấn hậu hiện đại
từ sau năm 1986 đến nay
Corporeality: The method of creating characters that bears the stamo of postmodern
in Vietnamese novels from after 1986 to now
ThS. Nguyễn Thị Lan Anh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM
Nguyen Thi Lan Anh, M.A.
University of Social Sciences and Humanities – National University HCMC
Tóm tắt
Tính nhục thể là một trong những thủ pháp, quan niệm về việc sử dụng các yếu tố tính dục trong văn
chương hậu hiện đại, nhằm miêu tả con người với phần bản năng của mình. Phương thức này khá phổ
biến trong văn chương hậu hiện đại trên thế giới cũng như được biểu hiện khá rõ nét trong các tiểu
thuyết mang dấu ấn hậu hiện đại của Việt Nam. Qua vấn đề tính dục, nhà văn soi chiếu vào tâm hồn mỗi
con người, mở ra những tri nhận về mối quan hệ đồng nhất giữa thế giới bản năng và thế giới tinh thần
của nhân vật; đồng thời cho thấy một thế giới hỗn loạn, phần mảnh nơi mà con người trở nên lạc lõng,
cô đơn trước thời cuộc - tâm thế đặc trưng của con người hậu hiện đại.
Từ khóa: tính nhục thể, nhân vật, tiểu thuyết Việt Nam, hậu hiện đại.
Abstract
Corporeality is one of the methods using sexual elements in postmodern literature to describe human
with their instincts. This method is popular in the postmodern literature in the world, it is also quite
prominent in Vietnamese’s novels that bear the stamp of postmodern. Through sexuality, the writers
explore the soul of the characters, open up the perceptions of the identity between the character's
physical body and spiritual. Besides it also shows a chaotic, fragmented world where human always feel
lost and lonely - the typical mind of postmodern human.
Keywords: corporeality, characters, Vietnamese novels, postmodern.
Tiểu thuyết Việt Nam mỗi thời kỳ xác
định được cho mình những thủ pháp khác
nhau trong việc xây dựng nhân vật. Với các
giai đoạn trước, có một mô típ quen thuộc
trong việc xây dựng nhân vật: hoặc chính
diện, hoặc phản diện. Nhưng hiện thực đời
sống mới khiến nhà văn có những nhận thức
mới. Sự chuyển mình của nền kinh tế cơ chế
thị trường kéo theo những sụp đổ của hệ
thống các giá trị, những đổi thay lớn lao của
toàn xã hội phá vỡ niềm tin của con người.
Những chuyển biến đổi thay ấy đã dẫn tới
những đổi thay trong quan niệm sáng tác.
Việc phá vỡ các nguyên tắc, giới hạn
trong sáng tác là một điều rất quan trọng,
bởi đó là tiêu chí để nhận biết những đổi
TÍNH NHỤC THỂ: PHƯƠNG THỨC SÁNG TẠO NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT VI T NAM MANG DẤU ẤN
132
mới về mặt thủ pháp, nhận diện những dấu
ấn hậu hiện đại trong các sáng tác của họ.
Thông qua việc đổi mới phương thức thể
hiện, nhà văn bộc lộ quan điểm của mình
đối với đời sống hiện đại. Tinh thần hậu
hiện đại được thể hiện ở việc các nhà văn
đã nỗ lực tái hiện lại một cuộc sống hỗn
độn, với thái độ hoài nghi trước thực tại,
đặc biệt là đối với các “đại tự sự”. Tâm thế
ấy được thể hiện rõ ràng trong các thủ pháp
xây dựng nhân vật.
Như chúng ta đã biết, có nhiều thủ
pháp khác nhau trong việc nghiên cứu và
sáng tác các tác phẩm hậu hiện đại trên thế
giới, như liên văn bản, ngụy tạo, giễu nhại,
cực hạn, huyền ảo, giải thiêng, siêu hư cấu,
mảnh vỡ, mặt nạ tác giả, tính nhục thể...
Trong đó, tính nhục thể (corporeality) là
một trong những thủ pháp, quan niệm về
việc sử dụng các yếu tố tính dục trong văn
chương hậu hiện đại, nhằm miêu tả con
người với phần bản năng của mình. Theo
các nhà hậu hiện đại, tính nhục thể “là một
trong những diễn ngôn quan trọng trong
việc xác lập những giá trị và chi phối hành
vi, nhận thức của con người” [2; tr.17]. Có
thể hiểu, tính nhục thể là một phương thức
nhà văn dùng để đề cập tới các yếu tố tính
dục. Phương thức này khá phổ biến trong
văn chương hậu hiện đại trên thế giới cũng
như được biểu hiện khá rõ nét trong các
tiểu thuyết mang dấu ấn hậu hiện đại của
Việt Nam.
Theo Freud, con người bộc lộ bản chất
của mình trong đời sống tình dục. Bản năng
là một vấn đề có tính nguyên thủy. Trong xã
hội hiện đại, nó vẫn là một vấn đề mang
tính cơ bản.
Có những khác biệt trong vấn đề tính
dục ở văn học hiện đại và văn học hậu hiện
đại. Nếu như ở văn học hiện đại, tính dục
thường là biểu trưng của riêng thể xác,
được tách biệt với thế giới tinh thần thì ở
văn học hậu hiện đại, thể xác được gắn liền
với tinh thần của thực thể, thậm chí đôi khi
đồng nhất với các cơ chế tinh thần.
Một đặc điểm khác biệt nữa, khi đề cập
đến tính nhục thể, các sáng tác hiện đại coi
đó là thủ pháp nhằm miêu tả, ca ngợi sự giải
phóng con người về mặt bản năng, ca ngợi
sự tự do tình dục, thì trong các sáng tác hậu
hiện đại và có dấu ấn hậu hiện đại, mục đích
của việc sử dụng tính nhục thể trong tác
phẩm lại để nhấn mạnh một điều: khi xã hội
đã bước ra khỏi những định kiến, quy định
gắt gao, khi con người được tự do, giải
phóng bản năng thì cũng là lúc con người
chạy từ thái cực này sang thái cực khác, trở
nên khủng hoảng, đánh mất niềm tin và
đánh mất bản thân. Như vậy, dục tính trở
thành một một biểu tượng ẩn dụ để phản
ánh thời đại, phản ánh một thế giới những
con người hỗn loạn, mất niềm tin.
Trên cơ sở tìm hiểu tính nhục thể trong
các tiểu thuyết mang dấu ấn hậu hiện đại
giai đoạn từ sau 1986 đến nay, chúng tôi
tạm chia ra hai thủ pháp chính. Thủ pháp
thứ nhất, các tác giả đề cao tính thân xác,
xu hướng thứ hai, là hình thức “giải trung
tâm” tính nhục thể của đàn ông.
1. Xu hướng đề cao tính thân xác
Đề cao tính thân xác là thủ pháp mà
nhà văn sử dụng để xóa bỏ ranh giới giữa
đời sống bên trong và bên ngoài của thế
giới tâm lý, xóa bỏ khoảng cách ranh giới
giữa nhận thức lý tính và nhận thức cảm
tính. Theo các nhà hậu hiện đại, lý tính và
cảm tính đều xuất phát từ cùng một cơ thể
sống, vì vậy, không có cái đơn thuần nhận
thức lý tính, cũng như không có cái duy
nhất nhận thức cảm tính ở một cá thể. Từ
nhận thức này, họ đề cao tính dục, tính
thân xác của ý thức, coi nó như một diễn
ngôn quan trọng trong việc xác lập hệ
NGUYỄN THỊ LAN ANH
133
thống những hành vi, ý thức, giá trị của
con người.
Đã từng có thời kỳ văn chương coi tình
dục và những vấn đề liên quan đến dục tính
là lãnh địa cấm. Sau này với những cuộc
cách mạng trong nhận thức và sáng tác,
cùng với ý thức giải phóng con người cá
nhân, văn chương bắt đầu khai thác đề tài
này. Đề cập đến những vấn đề thuộc tính
dục của con người là cách hiệu quả nhất, sở
dĩ như vậy là bởi nó là phần bản năng
nguyên thủy và có ảnh hưởng trực tiếp tới
sự tồn vong của loài người. Loài người trở
nên “phì đại”, có mặt trên khắp thế giới như
ngày nay là do bản năng tính dục có từ thời
sơ khai. Nó là yếu tố quan trọng để con
người nói riêng và các loại động vật nói
chung duy trì nói giống. Tuy nhiên khi đề
cập đến tính nhục thể, các nhà văn không
đơn thuần muốn nói về công cuộc giải
phóng cá nhân hay ca ngợi sự tự do mà
điều họ muốn diễn giải, đó là ý thức về cõi
cô đơn bất tận mà con người cá nhân phải
đối mặt giữa hiện thực thậm phồn, giữa
những phì đại của kỹ trị và khoa học. Họ
rơi vào trạng thái bất khả của nhận thức.
Con người cá nhân bị giam cầm trong chính
cái mà họ tưởng là tự do, rơi vào cái gọi là
“bi kịch tinh thần”, bởi khi giải phóng bản
thân mình trong tình dục, coi đó là phương
thức của sự giải thoát thì cũng đồng thời là
lúc con người trở nên phụ thuộc, thảm bại
trong lối sống phóng khoáng nhưng vô
nghĩa của mình. Bội thực với tự do tình dục
cũng là lúc con người chết đói trong sự
thiếu vắng của tình yêu nói riêng và tình
người nói chung. Đây chính là tâm thức của
con người hậu hiện đại.
Trong Thoạt kỳ thủy (Nguyễn Bình
Phương), nhân vật Hiền gánh nỗi khổ
truyền kiếp của người phụ nữ, nỗi khổ
phận đàn bà sinh-ra-để-khổ. Đã cố gắng từ
thụ động đến chủ động gợi ý, Hiền vẫn
không được thỏa mãn trong đời sống vợ
chồng vì Tính là người điên, không có ý
niệm gì về thân xác. Nhân vật Hiền không
được hiện lên qua chiều kích của tính cách
hay hình dáng, cũng không bởi những suy
nghĩ, trăn trở của cuộc sống thường nhật. Ở
tiểu thuyết này, các cơ chế tinh thần của
nhân vật Hiền đã được đồng hóa giữa ý
niệm về dục tính. Hay nói cách khác, ý
niệm về dục tính đã choán toàn bộ thế giới
tinh thần của nhân vật. Khi đề cập đến sự
thiếu vắng của đời sống vợ chồng, Nguyễn
Bình Phương muốn nói đến sự thiếu vắng
của các mối liên hệ giữa con người và con
người trong cuộc sống.
Tương tự trong Người đi vắng, tính
thân xác được xem là trạng thái sống có ý
nghĩa nhất đối với các nhân vật như Hoàn
và Cương. Điều này cũng xảy ra tương tự
đối với một số nhân vật trong các tiểu
thuyết của Hồ Anh Thái.
Đó là những miêu tả về cuộc truy hoan
tay ba giữa nhân vật Giáo sư, nàng Chủ
nhà và chàng tình nhân trong Dấu về gió
xóa. Một cuộc truy hoan xảy ra tình cờ và
vô nghĩa, bởi giữa họ từ trước tới nay
không có mối liên hệ nào với nhau, ngoài
trừ việc anh Giáo sư là người đang thuê
nhà của nàng Chủ nhà. Hồ Anh Thái muốn
nhấn mạnh đến sự hư vô của con người hậu
hiện đại: khi tình dục được giải phóng quá
đà, nó dẫn đến sự vô nghĩa.
Tính dục trong Người đàn bà trên đảo
của Hồ Anh Thái là biểu tượng của những
gì lộn xộn, phức tạp nhất của nhân cách.
Những người phụ nữ trở về sau cuộc chiến
tranh đã đi theo tiếng gọi của dục tính, dù
họ biết rằng họ không thể tìm được một
người đàn ông cho riêng mình ở một nơi
gần như “hoang đảo”, lại chỉ toàn phụ nữ.
Những ham muốn của họ không thể đơn
TÍNH NHỤC THỂ: PHƯƠNG THỨC SÁNG TẠO NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT VI T NAM MANG DẤU ẤN
134
giản định nghĩa. Tính thân xác của ý thức ở
đây không chỉ đơn thuần là sự chiều theo
bản năng xác thịt, mà còn được đồng hóa
với mong muốn được làm mẹ. Như vậy, ở
đây vấn đề được Hồ Anh Thái đề cập là:
bản năng làm mẹ và vấn đề tồn vong của
loài người.
Nỗi ám ảnh, thiếu thốn thân xác cũng
được nhà văn tái hiện lại dưới một “ngụ
ngôn thời hiện đại”, khi kể về truyền thuyết
nghĩa quân Tần Đắc. Tần Đắc là thủ lĩnh
của một nhóm nghĩa quân chống Pháp.
Ông đã nổi giận và ra lệnh chém đầu quân
lính của mình khi biết họ làm nhục một cô
gái địa phương, bởi “họ chỉ được quyền
nhớ một điều: đó là báo thù giặc. Mọi khao
khát, ham muốn, dục vọng đều phải tuyệt
diệt” [13; tr.6]. Cũng bởi nỗi ám ảnh của sự
cấm đoán mà họ nhất quyết cho rằng món
quà của một ông già (gồm hai quả mít và
một cây măng) là biểu tượng của dương vật,
cho rằng ông già muốn làm nhụt chí họ, cố
làm sa ngã họ, nên họ đã giết ông già.
Những ẩn ức tâm lý của dục tính bị kìm nén
đã lấn áp và trở nên mạnh hơn lý trí. Qua đó
có thể thấy được sự đề cao tính thân xác:
khi thể xác không được giải phóng, tất yếu
dẫn tới sự cùng quẫn của lý trí.
Ngay cả nàng Savitri - một công chúa
cũng hoàn toàn bị cuốn theo sự ham muốn
của thân xác, dù rằng nàng là một con
người quả cảm với cá tính mạnh mẽ. Có
kiến thức từ Dục lạc kinh, nàng hiện thực
hóa nó trong cuộc sống của mình. Cả cuộc
đời nàng là một cuộc truy đuổi xác thịt với
mong muốn tột bậc, có phần “điên rồ”, là
chiếm đoạt được thân xác của Đức Phật.
Tính thân xác được đẩy đến độ phi
nhân tính, là khi con người ta bỏ qua
những quá trị đạo đức và nhân tính. Đó là
nhân vật bà mẹ trong Mười lẻ một đêm của
Hồ Anh Thái. Bỏ qua mọi giá trị đạo đức
và tinh thần, bỏ qua cả cảm xúc của đứa
con gái nhỏ, bà mẹ ấy chạy theo dục vọng
thấp hèn, đến mức không còn một chút
phẩm hạnh nào.
Đó cũng là Trần Bình (Cơ hội của
Chúa - Nguyễn Việt Hà) đã không chỉ
chung đụng bồ nhí với chính bố đẻ, mà còn
dùng đủ các mánh khóe đê tiện nhất để
giành giật người yêu từ anh trai bạn, chiếm
đoạt em gái bạn. Trần Bình đã mất đi hẳn
nhân tính, chỉ còn lại thú tính, dường như
cuộc sống của hắn hoàn toàn bị chi phối
bởi bản năng.
Hay như nhân vật người cha của chị
em Mai và hồn ma Chi (Mưa ở kiếp sau -
Đoàn Minh Phượng), hắn ngoại tình với
mẹ của Mai khi bà mới 17 tuổi. Và trong
một đêm nằm giữa mẹ của Mai và dì Lan,
hắn đã chiếm đoạt luôn cả dì Lan - khi ấy
mới chỉ là một cô bé gần 15 tuổi. Để lại
hậu quả là cả hai chị em đều sinh hạ hai
đứa con gái mà hắn đã nhẫn tâm bỏ rơi,
độc ác hơn, đưa cho tên lái xe giết chết Chi
- đứa con gái mới 2 tháng tuổi. Ông ta
cũng thường xuyên hưởng thụ thú vui thân
xác với những cô gái trẻ đáng tuổi con gái
mình.
Tương tự, tiểu thuyết 3.3.3.9. Những
mảnh hồn trần của Đặng Thân dày đặc các
yếu tố tính dục, đi sâu vào tính thân xác. Ở
tiểu thuyết này, cuộc sống của các nhân vật
cũng hoàn toàn bị chi phối bởi dục tính.
Đó là những mối quan hệ đơn thuần bởi
thân xác giữa nhân vật Mộng Hường và
Nguyên “sân”, Mộng Hường và Dương Đại
Nghiệp - một ông trùm buôn bán quần áo ở
Thâm Quyến, Mộng Hường và Judah -
Schditt. Ý thức đạo đức đã hoàn toàn bị dẫn
dắt bởi ham muốn của thân xác. Mục đích
cuộc sống của họ chỉ xoay quanh thế giới
nhục cảm, ý nghĩa duy nhất trong cuộc sống
của họ là làm sao để thỏa mãn bản năng.
NGUYỄN THỊ LAN ANH
135
Ngay đến cả sư nữ Thích Tâm Chân
cũng bỏ chùa đi lấy chồng, nhưng điều bi
kịch là ở chỗ đời sống vợ chồng của họ
không mấy vui vẻ. Tâm Chân đã bán hết
tài sản để đưa chồng vào viện khôi phục lại
khả năng đàn ông. Nhưng tất cả ngoài mọi
mong đợi của họ. Đến mức sau cuộc phẫu
thuật, Tâm Chân phải “đành nghĩ cách đi
tìm gái điếm cho Sơn” [15; tr.174]. Bi kịch
nhất của sự không được giải thoát bản năng
chính là sự bất lực. Mà theo như Lê Huy
Bắc thì “bi đát nhất của con người mang
tính người nhất chính là bất lực giới” [2;
tr.243].
Hoặc như nhân vật Hằng và Hiếu
(Mình và họ - Nguyễn Bình Phương) quan
hệ với nhau khi họ vốn là chị dâu em
chồng. Đó là sự loạn luân, nhưng không
thấy nhân vật băn khoăn, day dứt hay cảm
thấy tội lỗi.
Những chấn thương hoặc ám ảnh từ
khía cạnh tinh thần đôi khi khiến nhân vật
tự chối bỏ bản năng, tính nhục thể của
mình. Tính trong Thoạt kỳ thủy (Nguyễn
Bình Phương) do bị chấn thương tự nhiên
về mặt tinh thần, bị tâm thần từ khi mới
sinh, đã không có khả năng của một người
đàn ông. Nhân vật “ông” trong Những đứa
trẻ chết già khi còn thanh niên đã tạm thời
mất đi khả năng đàn ông trong hoàn cảnh
được Xoan – cô gái mà ông thầm ngưỡng
mộ dâng hiến. Sự bất lực ấy có nguyên
nhân bởi những ám ảnh của tâm thức, từ
giấc mơ đầy nhục cảm của ông. Đó là nỗi
ám ảnh về một thế giới điên loạn của ma
quỷ. Giấc mơ trở thành nỗi ám ảnh, đến
mức sau này đã đẩy ông vào tình trạng bất
lực thực sự dù trải qua hai đời vợ.
Mai Trừng trong Cõi người rung
chuông tận thế của Hồ Anh Thái không thể
yêu vì cơ chế phản ứng đặc biệt của cơ thể:
bất kỳ ai muốn đụng tới cô, xâm hại cô –
dù sự xâm hại ấy có thể xuất phát từ tình
yêu thực sự. Cơ chế phản ứng của Mai
Trừng từ đâu mà có? Hồ Anh Thái không
lý giải nguyên nhân, nhưng chúng ta ngầm
hiểu rằng, nó là ẩn dụ về một cơ chế phản
xạ tự nhiên bởi chấn thương của nhân vật
khi đứng trước hiện thực cuộc sống đầy rẫy
nhục dục. Nhưng kèm theo nó là sự trả giá,
nó cho cô quyền trừng phạt những kẻ xâm
hại, nhưng cũng đồng thời tước đi ở cô
niềm hạnh phúc được cảm nhận những
khoảnh khắc giao cảm thể xác đối với
người cô yêu. Nó ngầm ẩn dụ cho sự ám
ảnh, chấn thương tâm lý dẫn tới sự chối bỏ
bản năng của nhân vật Mai Trừng.
Có thể thấy, những ám ảnh và những
chấn thương tinh thần về mặt dục tính đã
phá vỡ toàn bộ cuộc sống của con người,
khiến họ mất mát vô cùng tận, trở nên lệch
lạc thiếu khuyết. Sự khiếm khuyết dục tính
vừa là biểu tượng của những mất mát cá
nhân, vừa là dự báo cho những đổ vỡ nhân
sinh đang xảy ra trong đời sống hiện đại.
Đề cập đến sự khiếm khuyết dục tính,
bất lực giới chính là cách nhà văn đề cao
vai trò của tính thân xác, cho tính thân xác
một chỗ đứng quan trọng bên cạnh lý tính.
Tính dục không tách rời với cơ chế tinh
thần nữa, thậm chí nó còn là nền tảng cho
toàn bộ hành động của nhân vật.
Xu hướng đề cao tính thân xác được
thể hiện khá nhiều trong các sáng tác thời
kỳ sau 1986 đến nay. Có thể tìm thấy yếu
tố tính dục đậm đặc trong các tiểu thuyết
như Cõi người rung chuông tận thế và
Người đàn bà trên đảo hoang (Hồ Anh
Thái), Thoạt kỳ thủy và Người đi vắng
(Nguyễn Bình Phương), Pari 11 tháng 8,
Vân Vy, T mất tích (Thuận) hay Thiên thần
sám hối (Tạ Duy Anh)... Qua vấn đề tính
dục, nhà văn soi chiếu vào tâm hồn mỗi
con người, mở ra những tri nhận về mối
TÍNH NHỤC THỂ: PHƯƠNG THỨC SÁNG TẠO NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT VI T NAM MANG DẤU ẤN
136
quan hệ đồng nhất giữa tính nhục thể và
thế giới tinh thần của nhân vật.
2. “Giải trung tâm” tính nhục thể
của đàn ông
Nếu như có đại tự sự thì sẽ có giải tự
sự. Thế giới đa cực, phi trung tâm là những
biểu hiện rõ nét của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Nó gắn liền với “cái chết của đại tự sự”
hay “cái chết của chủ thể”. Giải trung tâm
hóa (hay phi trung tâm hóa - la
décentraliation) là thuật ngữ được Lyortad
đưa ra nhằm tạo ra các đa trung tâm,
“nghĩa là các trung tâm tồn tại đồng thời,
không loại trừ nhau” [19; tr.16]. Với xu
hướng phi trung tâm, “người đọc sẽ rơi vào
trạng thái bất định mà nguyên lý bất định
đã được Heisenberg đưa ra. Trạng thái bất
định đó cũng là hiện thực của cuộc sống
đương diễn ra” [19; tr.18].
Xu thế giải trung tâm cũng không loại
trừ khả năng giải trung tâm cả tính nhục
thể, mà cụ thể ở đây là giải trung tâm tính
nhục thể của đàn ông. Như chúng ta đã
biết, trên thế giới, chế độ nam quyền là một
thực tế hiện hữu trong cuộc sống. Việc
“trung tâm hóa” đàn ông tồn tại từ hàng
ngàn năm nay. Đàn ông luôn là người có
quyền lực tối thượng, có vị trí cao hơn phụ
nữ, đặc biệt trong tình dục, đàn ông dường
như có tất cả mọi đặc quyền của một “con
đực truyền giống”, thời xa xưa họ có quyền
năm thê bảy thiếp, thời hiện tại họ cũng vẫn
đóng trai trò chủ động trong các mối quan hệ
nam nữ. Những chuẩn mực quy tắc hay
những rào cản trong tính dục thực chất chỉ để
áp dụng với phụ nữ. “Đến Chúa khi khai sinh
con người cũng nặn gã đàn ông Adam trước
rồi sau mới đến Eva...” [2; tr.245]. Thậm chí
về sau này, trong những tác phẩm đề cao
“tính nữ quyền”, tính dục vẫn là một khái
niệm không được nhắc đến. “Do vậy khi hậu
hiện đại đề xuất phi trung tâm hóa, thì đồng
nghĩa với việc “giải trung tâm đàn ông trước
tiên trong tác phẩm văn chương” [2; tr.245].
Vậy, văn học hậu hiện đại với đặc
trưng “giải trung tâm” đã giải trung tâm vai
trò của đàn ông, đặc biệt trong tính nhục
thể. Giải trung tâm tính nhục thể thể hiện ở
việc phi trung tâm hóa quyền lực và tính
dục độc giới của “con đực truyền giống”.
Song song với việc giải trung tâm tính
nhục thể của đàn ông là việc giải phóng
tính dục cho phụ nữ. Tuy nhiên, một đặc
điểm quan trọng là khi giải phóng tính dục
cho phụ nữ, văn học hậu hiện đại phải cố
gắng ngăn chặn lại cuộc “trung tâm hóa”
phụ nữ. Bởi nếu không cũng chỉ là sự
chuyển biến từ trung tâm này sang trung
tâm khác, từ đại tự sự này sang đại tự sự
kia. Bởi vậy mà quá trình giải trung tâm
vai trò của đàn ông trong tình dục luôn
song song với quá trình ngăn chặn sự hình
thành vị trí trung tâm của phụ nữ.
Như đã nói, Việt Nam chưa thực sự có
một nền văn học hậu hiện đại do chưa có
đủ các tiền đề nền móng về kinh tế xã hội,
nhưng những dấu ấn của hậu hiện đại đã
xuất hiện trong đời sống sáng tác, dù đôi
chỗ có những đứt gãy với độ đậm nhạt
khác nhau. Các nhà văn thời kỳ này cũng
đã có ý thức hơn trong việc tìm ra những
thủ pháp hậu hiện đại trong xây dựng nhân
vật. Trong đó, phần nhiều ở họ đều bắt đầu
chú trọng đến tính nhục thể như là một thủ
pháp để xây dựng nên thế giới nhân vật cho
mình.
Quay trở lại với giải trung tâm tính
nhục thể, có thể dễ dàng nhận ra khi khai
thác con người trong bản năng dục tính,
các nhà văn không đặt quyền tối thượng
cho đàn ông nữa. Tình dục hay dục tính -
đó không phải là đặc quyền của chỉ riêng
phái mạnh. Các nhà văn đặt các nhân vật
nam và nữ bình đẳng ngang nhau trong vấn
NGUYỄN THỊ LAN ANH
137
đề tình dục. Song song với giải trung tâm
tính nhục thể của đàn ông, họ cũng không
quá chú trọng vào việc mô tả sự giải phóng
tính dục, “trung tâm hóa” tính nhục thể đối
với phụ nữ. Theo quan niệm của họ, những
ham muốn bản năng là điều hiển nhiên có
sẵn ở cả hai giới. Không có gì đáng ngạc
nhiên nếu một người đàn ông sống theo
bản năng, nhưng cũng không có gì là lạ
trước những hiện tượng ngoại tình, sống
buông thả ở phụ nữ. Những thiệt thòi hay
khuyết thiếu cũng được nhìn nhận từ
nguyên nhân ở cả nam và nữ. Ở đây, chúng
tôi không quy phạm vào lối sống hay đạo
đức xã hội. Đó là một vấn đề khác sẽ được
bàn luận trong một “diễn đàn” khác. Ở đây,
chúng tôi chỉ quan tâm đến những biểu
hiện của hiện tượng giải trung tâm tính
nhục thể.
Có những người phụ nữ thiệt thòi
trong đời sống vợ chồng (Hiền, bà Liên
trong Thoạt kỳ thủy) thì cũng có những
người đàn ông bất lực, không được quyền
làm cha (nhân vật “ông” trong Những đứa
trẻ chết già hay Tính, nhà văn Phùng trong
Thoạt kỳ thủy). Những thiệt thòi và nguyên
nhân của sự khuyết thiếu dục tính này được
chia đều cho cả hai giới, không có chuyện
cứ không sinh được con là lỗi từ người phụ
nữ - một quan niệm mang tính “trung tâm
hóa” nữ giới về sự vô sinh rất cổ hủ của
thời phong kiến.
Đàn ông cũng không còn là “độc
quyền” của những sa ngã bản năng với lối
sống phóng khoáng, buông thả nữa. Nàng
Savitri trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi
của Hồ Anh Thái khá tiêu biểu cho sự
“vùng lên” của phái nữ trong vấn đề này.
Cả cuộc đời nàng ngoài lý tưởng chống lại
giáo phái Bà La Môn, thì cao nhất vẫn là
sự theo đuổi dục vọng. Tương tự, cô
trưởng công an huyện trong SBC là săn bắt
chuột cũng tượng trưng cho sự nam tính hóa
của phái nữ, khi họ biết chủ động tìm kiếm
và tận hưởng thú vui xác thịt. Điều này cũng
xảy ra với nhân vật bà mẹ trong Mười lẻ
một đêm, có thể nói cuộc đời của bà là
những ham muốn nhục dục nối tiếp, vô độ,
hoàn toàn lệch chuẩn đạo đức cũng như
hình ảnh người phụ nữ truyền thống.
Những nhân vật như Cốc (Cõi người
rung chuông tận thế), Trần Bình (Cơ hội
của Chúa), Hiếu (Mình và họ)... được “giải
trung tâm” bởi Xoan (Những đứa trẻ chết
già), Hiền (Thoạt kỳ thủy), chị Hằng,
Trang, Vân Ly (Mình và họ), Mộng Hường
(3.3.3.9[Những mảnh hồn trần]), những
Người đàn bà trên đảo, nàng Savitri, cô
trưởng công an huyện, nhân vật bà mẹ...
Những người phụ nữ cũng có những khao
khát của riêng mình, dám thể hiện sự khát
khao ấy, phô bày thân thể, chủ động kéo
đối phương “vào cuộc” và thậm chí, đôi lúc
cũng hoàn toàn bị dục tính chi phối đến
mức mất nhân tính, vô đạo đức như đàn
ông. Đây chính là một sự “giải thiêng”,
một mặt nhằm phi trung tâm hóa đàn ông
về mặt tính dục, mặt khác, “giải thiêng”
đối với cả chính người phụ nữ. Họ không
chỉ là hình ảnh của sự hi sinh, nhẫn nại,
cam chịu, họ - cũng như đàn ông - đôi khi
xấu xa, độc ác, bản năng trong lối sống. Sự
“đối lập” này tạo nên một thế giới nhân vật
tiểu thuyết đa diện, đa thanh nhiều màu sắc
nhưng hoàn toàn bình đẳng giữa hai giới.
Giải phóng phụ nữ trong tính nhục thể,
các nhà văn vẫn chú ý ngăn chặn sự “trung
tâm hóa” ở họ. Bởi nếu như tuyệt đối hóa
quyền tự do trong tình dục của người phụ
nữ, cũng chính là lúc các nhà văn đang tạo
nên một “đại tự sự” cho hình ảnh của
người phụ nữ - điều mà văn học hậu hiện
đại tuyệt đối tránh né. Bởi vậy, có thể nhận
thấy trong các tiểu thuyết giai đoạn này,
TÍNH NHỤC THỂ: PHƯƠNG THỨC SÁNG TẠO NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT VI T NAM MANG DẤU ẤN
138
người phụ nữ không hoàn toàn được trở
thành đối tượng hưởng toàn bộ những đặc
quyền đặc lợi trong cuộc giải phóng ý thức,
giải phóng bản năng. Cũng vẫn đôi khi còn
đó những nhân vật nữ bị kìm nén, hoặc
hoàn toàn mất đi khả năng tình dục. Khi các
nhà văn cho người phụ nữ được quyền
buông thả trong bản năng thì cũng vẫn còn
đó những cô bé mãi mãi bị tước mất quyền
được trở thành phụ nữ. Đó là nhân vật cô bé
Hoài trong Thiên sứ: “Lễ rửa tội năm tiếng
đồng hồ của tôi, trút kinh nguyệt một lần
cho mãi mãi, vắt bỏ, cạn kiệt, tẩy sạch mọi
khả năng thành một người đàn bà như tất cả
những người đàn bà, một kẻ trưởng thành
như tất cả những kẻ trưởng thành trên thế
gian” [8; c.4].
Cũng như, vẫn còn đó những người
phụ nữ trở nên “vô tri”, “vô giác” trong đời
sống tình dục. Loan (Những đứa trẻ chết
già) làm gái điếm vì khinh thường và muốn
trả thù đàn ông sau khi bị lừa tình. Liên
trong Paris 11 tháng 8 là hiện thân của
khối mâu thuẫn khác thường: chưa từng
yêu mà lại chán yêu. Bởi mất năng lực hóa
giải nỗi cô độc, bản năng tình dục của Liên
hoàn toàn bị tiêu diệt từ lúc nào không
hay... Xây dựng những nhân vật nữ vô tri
vô giác hoặc những nhân vật bị tước đoạt
quyền trở thành phụ nữ, các nhà văn đã
thành công trong việc giải phóng tình dục
cho phụ nữ, nhưng cũng đồng thời ngăn
chặn được việc “trung tâm hóa” sự giải
phóng ấy.
Như vật, kỹ thuật giải trung tâm - một
trong những lý thuyết hậu hiện đại đã được
phản ánh trong tiểu thuyết Việt Nam giai
đoạn này. Có lẽ nó sâu xa có nguồn gốc từ
tâm thế hậu hiện đại của người sáng tác -
dù vô thức hay ý thức. Đó là cái tâm thức
vỡ vụn niềm tin vào những đại tự sự, chính
là sự mất mát, thiếu vắng đi những giá trị
cũ trước hiện thực đời sống mới.
3. Kết luận
Với tinh thần “giải cấu trúc” và “giải
trung tâm” - những đặc trưng nổi bật của
chủ nghĩa hậu hiện đại, tiểu thuyết Việt
Nam từ sau 1986 đến nay cũng chú ý hơn
trong việc đề cập đến những vấn đề có tính
chất “ngoại biên”. Trên nền triết học hậu
hiện đại, con người không còn là trung tâm
của vũ trụ, họ chỉ là những sinh thể nhỏ bé,
những “tiểu tự sự” bình đẳng với mọi sự
vật, hiện tượng tự nhiên khác. Do vậy, khi
xây dựng hệ thống nhân vật, các nhà văn
không còn gắn họ với những sự kiện, biến
cố lớn lao của lịch sử, chỉ đơn thuần là con
người bình thường với những mảnh vỡ của
hình dạng, tâm lý và tính cách.
Đề cập đến vấn đề tính nhục thể như
một phương thức biểu hiện cho các cơ chế
thể xác và tinh thần của nhân vật mang dấu
ấn hậu hiện đại trong các tiểu thuyết giai
đoạn này, các tác giả coi nó là một trong
những thủ pháp quan trọng trong việc tạo
hình, xây dựng nên thế giới nhân vật của
mình. Cùng với những phương thức xây
dựng nhân vật khác, xây dựng nhân vật
trong các chiều kích tính nhục thể góp
phần cho chúng ta nhận diện rõ hơn những
dấu ấn hậu hiện đại trong các tiểu thuyết
Việt Nam giai đoạn từ sau 1986 đến nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bắc (chủ biên) (2003), Phê bình văn
học hậu hiện đại Việt Nam, Nxb Tri thức, Hà
Nội.
2. Lê Huy Bắc (2012), Văn học hậu hiện đại lí thuyết
và tiếp nhận, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Nguyễn Việt Hà (1999), Cơ hội của Chúa,
Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Việt Hà (2013), Khải huyền muộn,
Nxb Trẻ, TP.HCM.
5. Nguyễn Việt Hà (2014), Ba ngôi của người,
Nxb Trẻ, TP.HCM.
NGUYỄN THỊ LAN ANH
139
6. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, ebook
download-truyen/gian-thieu/download-truyen-
gian-thieu-chuong-1.pdf.
7. Phạm Thị Hoài (1989), Thiên sứ, ebook
ham_thi_hoai&chapter=0004.
8. Hồ Anh Thái (2006), Mười lẻ một đêm, Nxb
Trẻ, TP.HCM.
9. Hồ Anh Thái (2012), Dấu về gió xóa, Nxb
Trẻ, TP.HCM.
10. Hồ Anh Thái (2011), SBC là săn bắt chuột,
Nxb Trẻ, TP.HCM.
11. Hồ Anh Thái (2013), Cõi người rung chuông
tận thế, Nxb Trẻ, TP.HCM.
12. Hồ Anh Thái (2015), Người đàn bà trên đảo,
Nxb Trẻ, TP.HCM.
13. Hồ Anh Thái (2015), Đức Phật, nàng Savitri
và tôi, Nxb Trẻ, TP.HCM.
14. Đặng Thân (2011), 3.3.3.9 [Những mảnh hồn
trần], Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
15. Thuận (2004), Chinatown, Nxb Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
16. Thuận (2006), Paris 11 tháng 8, Nxb
Đà Nẵng, Đà Nẵng.
17. Thuận (2007), T mất tích, Nxb Văn học,
Hà Nội.
18. Thuận (2008), VânVy, Nxb Hội Nhà Văn,
Hà Nội.
19. Liviu Petrescu (2013), Thi pháp chủ nghĩa
hậu hiện đại, (Lê Nguyên Cẩn dịch và giới
thiệu), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
20. Nguyễn Bình Phương (1999), Người đi vắng,
Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Nguyễn Bình Phương (2013), Những đứa trẻ
chết già, Nxb Trẻ, TP.HCM.
22. Nguyễn Bình Phương (2014), Thoạt kỳ thủy,
Nxb Trẻ, TP.HCM.
23. Nguyễn Bình Phương (2014), Mình và họ,
Nxb Trẻ, TP.HCM.
24. Đoàn Minh Phượng (2007), Và khi tro bụi,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
25. Đoàn Minh Phượng (2007), Mưa ở kiếp sau,
Nxb Văn học, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 19/02/2017 Biên tập xong: 15/4/2017 Duyệt đăng: 20/4/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 87_8213_2215139.pdf