Tài liệu Tình hình lấy sỏi thận và niệu quản qua da cho 398 bệnh nhân: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
35 TÌNH HÌNH LẤY SỎI THẬN VÀ NIỆU QUẢN QUA DA
CHO 398 BỆNH NHÂN
Vũ Văn Ty*, Nguyễn Văn Hiệp*, Vũ Lê Chuyên*, Đào Quang Oánh*, Nguyễn Tuấn Vinh*,
Vĩnh Tuấn*, Lê Sỹ Hùng*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Nguyễn Đạo Thuấn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Lấy sỏi thận qua da ngày càng trở thành một trong những phương pháp điều trị sỏi thường qui.
Nghiên cứu nhằm mục tiêu 1. Đánh giá tỷ lệ thành công trong thời gian qua so sánh với bước đầu thực hiện.
(2) Đánh giá biến chứng đã xảy ra để chọn ra phương pháp phòng ngừa.
Phương pháp: Trong thời gian từ tháng 6 năm 2000 đến tháng 6 năm 2003, chúng tôi đã thực hiện được
337 trường hợp lấy sỏi thận và 61 trường hợp lấy sỏi niệu quản lưng qua da tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện
Bình Dân TP. Hồ Chí Minh.
Kết quả: Trong số 398 bệnh nhân có 225 nam và ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình lấy sỏi thận và niệu quản qua da cho 398 bệnh nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
35 TÌNH HÌNH LẤY SỎI THẬN VÀ NIỆU QUẢN QUA DA
CHO 398 BỆNH NHÂN
Vũ Văn Ty*, Nguyễn Văn Hiệp*, Vũ Lê Chuyên*, Đào Quang Oánh*, Nguyễn Tuấn Vinh*,
Vĩnh Tuấn*, Lê Sỹ Hùng*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*, Nguyễn Đạo Thuấn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Lấy sỏi thận qua da ngày càng trở thành một trong những phương pháp điều trị sỏi thường qui.
Nghiên cứu nhằm mục tiêu 1. Đánh giá tỷ lệ thành công trong thời gian qua so sánh với bước đầu thực hiện.
(2) Đánh giá biến chứng đã xảy ra để chọn ra phương pháp phòng ngừa.
Phương pháp: Trong thời gian từ tháng 6 năm 2000 đến tháng 6 năm 2003, chúng tôi đã thực hiện được
337 trường hợp lấy sỏi thận và 61 trường hợp lấy sỏi niệu quản lưng qua da tại 2 khoa Niệu A và B bệnh viện
Bình Dân TP. Hồ Chí Minh.
Kết quả: Trong số 398 bệnh nhân có 225 nam và 173 nữ. Tuổi trung bình 41,65 tuổi (thay đổi từ 18 đến
78 tuổi). Ngày nằm viện trung bình là 6,2 ngày. Sỏi thận: Thành công 287 trường hợp đạt tỷ lệ 85,16%.
Chuyển mổ hở 50 trường hợp, tỷ lệ 14,84%. Chảy máu khi đặt Amplatz hoặc tán sỏi 27 trường hợp, tỷ lệ 8,01%.
Chọc dò thất bại 13 trường hợp, tỷ lệ 3,86%. Không đặt được ống thông niệu quản 5 trường hợp, tỷ lệ 1,48%. 1
trường hợp thận chướng nước nhiễm trùng phải mở thận ra da. Sỏi niệu quản: Thành công 47 trường hợp, đạt
tỷ lệ 77,05%. Chuyển mổ hở 14 trường hợp, tỷ lệ 22,95%. Biến chứng sau lấy sỏi thận qua da:
Chảy máu thứ phát 4 trường hợp. Mổ lại để may cầm máu 2 trường hợp. 1 trường hợp cắt bán phần thận
do chảy máu không cầm lại được. 1 trường hợp điều trị bảo tồn.
Tràn máu màng phổi trái 1 trường hợp, phải dẫn lưu màng phổi.
Tổn thương đại tràng phải 1 trường hợp, được điều trị bảo tồn.
Nhiễm trùng huyết 2 trường hợp được điều trị nội khoa.
Kết luận : Tuy cũng còn nhiều biến chứng, ngày nằm viện chưa ngắn hơn mổ hở nhưng tỷ lệ thành công
của phương pháp lấy sỏi thận qua da chứng tỏ đây là một phương pháp hiệu quả có thể áp dụng được để điều trị
sỏi thận và sỏi niệu quản lưng. Ngoài ra còn có những lợi ích cho bệnh nhân so sánh với mổ hở như vấn đề thẩm
mỹ vết mổ, hậu phẫu ít đau hơn, không bị tê vết mổ kéo dài đã khiến chúng ta nên phát triển rộng rãi phương
pháp lấy sỏi thận qua da như là một trong những phương pháp chính để điều trị sỏi thận và sỏi niệu quản lưng.
SUMMARY
PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY: REMOVAL OF RENAL AND URETERAL
STONES IN 398 PATIENTS
Vu Van Ty, Nguyen Van Hiep, Vu Le Chuyen, Đao Quang Oanh, Nguyen Tuan Vinh, Vinh Tuan, Le
Sy Hung, Nguyen Phuc Cam Hoang, Nguyen Đao Thuan* Y Hoc TP. Ho Chi Minh Vol. 8 *
Supplement of No 1 * 2004: 244 – 249
Objectives
Percutaneous nephrolithotomy (PNL) has recently been applied as the treatment for large renal and upper
ureteral calculi. Our objective was two fold:
To evaluate the success rate in compare to the past time.
*
**
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 244
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
To devise a strategy for prevention of the complications.
Methods
Between June 2000 and June 2003, 398 percutaneous renal procedures have been performed at the
Department of Urology A and B, Binh Dan hospital, Ho Chi Minh city.
Results
There have been 225 males and 173 females (average age 41,65 years). Mean hospitalized time: 6,2 days.
Renal stone: Percutaneous surgery for renal stone was successful in 287 patients (85,16%). Open
nephrolithotomy in 50 patients (14,84%). Of these patients, 27 had hemorrhages. Failure of renal puncture in
13 patients. Failure to place the ureteral stent in 5 patients. 1 patient was placed the nephrostomy tube
because of the infectious hydronephrosis.
Ureteral stone: PNL for ureteral stone was successful in 47 patients (77,05%). Open ureterolithotomy in 14
patients (22,95%).
The complications of PNL:
4 patients involving hemorrhages: 2 were required surgical exploration. 1 was performed nephrectomy
because of profuse bleeding. 1 was successfully managed conservatively.
Left hemothorax in 1 patient was placed a chest tube for drainage.
Right colon injury in 1 patient was successfully managed conservatively.
septicemia in 2 patients were received the medical treatment.
Conclusions
Although there are still some complications, the hospitalized time is not shorter than open surgery but the
outcome of PNL has proved that it’s an effective procedure to manage the renal and upper ureteral stones.
Besides, there are many advantages in compare to open surgery such as the incision scarring, post-operative
pain, long-lasting numbness of the incision. Those advantages encourage us to develop the percutaneous renal
surgery as the main procedure for management of the renal and upper ureteral stones.
MỤC TIÊU
Thời gian gần đây, với những tiến bộvề dụng cụ
nội soi đã làm thay đổi phương pháp điều trị trong
niệu khoa, trong số đó lấy sỏi thận và niệu quản đoạn
trên qua da đã ngày càng trở thành phổ biến, thay thế
cho mổ hở lấy sỏi vẫn áp dụng từ trước đến nay.
Năm 1941 Rupel và Brown đã lấy sỏi thận nhỏ
bằng một máy soi bàng quang qua lỗ mở thận ra da.
Năm 1955 Goodwin và cộng sự đã mô tả kỹ thuật mở
thận ra da trực tiếp. Năm 1976 Fernstrošm kết hợp cả
2 phương pháp trên để lấy sỏi thận ra mà không phải
mổ hở.
Sự phát triển từng bước góp phần hoàn thiện lấy
sỏi với Gušnther và Barbaric (1979) sáng chế ra bộ
mở thận ra da; Pedersen (1976), Stables và Johnson
(1979) dùng siêu âm hướng dẫn chọc dò vào thận;
Kurth (1977) dùng máy tán sỏi siêu âm và thủy động
lực; Marberger (1981) dùng máy soi thận với 2 dòng
chảy và Alken (1981) sáng chế ra bộ nong đường vào
thận; Wickham và Miller (1983) đã phát triển lấy sỏi
qua da 1 thì(10).
Sự phát triển về dụng cụ nội soi đã giúp các bác sĩ
phẫu thuật có thể nhìn thấy trực tiếp sỏi và gắp ra
xuyên qua một đường ống từ bể thận ra ngoài da. Vấn
đề đặt ra với những sỏi kích thước lớn, tuy nhiên với sự
phát minh ra nhiều loại dụng cụ tán sỏi đã giúp giải
quyết tán vỡ những viên sỏi lớn thành những mảnh
nhỏ để có thể gắp ra ngoài xuyên qua ống Amplatzvới
kích thước cỡ 28-30F (khoảng 1cm đường kính).
Với kết quả thành công cao của các tác giả,
khoảng 90% sỏi thận và 70% đối với sỏi niệu quản
đoạn trên(8), hầu hết sỏi thận đều có thể lấy qua da
được với thời gian nằm viện ngắn hơn, thời gian phục
hồi sau mổ cũng ngắn đi so với mổ hở, phương pháp
lấy sỏi qua da ngày nay đã trở thành phương pháp
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 245
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
điều trị hàng đầu để điều trị sỏi thận và sỏi niệu quản
đoạn trên(3).
Chúng tôi xin trình bày kinh nghiệm qua 398 bệnh
nhân đã được điều trị lấy sỏi qua da tại 2 khoa Niệu A và
Niệu B bệnh viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh.
PHƯƠNG PHÁP
Trong thời gian từ tháng 6 năm 2000 đến tháng
6 năm 2003 chúng tôi đã thực hiện được 337 trường
hợp lấy sỏi thận và 61 trường hợp lấy sỏi niệu quản
đoạn trên qua da.
Dụng cụ
Máy soi thận hiệu Karl Stortz 26F.
Máy X quang với màn hình tăng sáng.
Bộ nong Amplatz hoặc Alkens.
Dây dẫn.
Máy tán sỏi Swiss-Lithoclast.
Kẹp gắp sỏi
Kỹ thuật
Gồm 2 giai đoạn: giai đoạn chọc dò thận và giai
đoạn nong đường vào thận.
Chọc dò đài thận
Để giảm thiểu nguy hiểm chọc trúng mạch máu
liên thùy, chúng tôi chọc dò đáy của đài thận xuyên
qua chủ mô thận.
Vấn đề chọn đài thận tùy thuộc vào vị trí của sỏi,
tuy nhiên chúng tôi thường chọn đài thận dưới để
tránh tổn thương màng phổi thường gặp khi chọc dò
đài thận trên, mặc dù khi chọn vào đài thận trên,
người ta có thể gắp được sỏi đài thận trên, bể thận,
đài thận dưới và niệu quản.
Trong loạt nghiên cứu này, chúng tôi đã chọc dò
đài thận dưới 95% trường hợp. 5% chúng tôi chọc dò
đài thận trên mục đích để gắp được sỏi rải rác ở đài
thận trên, đài thận dưới và niệu quản.
Trước tiên bệnh nhân được nằm thế sản phụ, soi
bàng quang đặt ống thông niệu quản lên thận có sỏi.
Sau đó bệnh nhân được đặt nằm sấp, vùng thận được
độn bằng gối hơi cao lên. Chúng tôi bơm thuốc cản
quang qua ống thông niệu quản để chọn lựa đài thận
thích hợp cho chọc dò. Dùng máy X quang có màn
hình tăng sáng để hướng dẫn chọc dò, dùng kim số
14G hoặc 18G đâm xuyên qua một điểm ở đường
nách sau hướng về đài thận. Sau khi kim đã chọc vào
trong đài thận, kiểm tra có nước tiểu chảy ra, chúng
tôi đặt dây dẫn vào trong đài và bể thận.
Nong đường vào thận
Chúng tôi dùng bộ nong kim loại Alkens luồn vào
dây dẫn với kích thước tăng dần đến số 30F dưới sự
hướng dẫn của X quang đến khi đầu ống nong nằm
trong đài hoặc bể thận. Cuối cùng thay bộ nong bằng
ống thao tác Amplatz số 28 hoặc 30F đủ để cho máy
soi thận số 26F vào. Chúng tôi cũng đặt thêm một
dây dẫn an toàn vì sợ máy soi và ống Amplatz tuột ra
khỏi thận.
Soi thận và gắp sỏi
Dùng máy soi thận quan sát đài và bể thận dưới
sự ròng rửa của nước muối 0,9%,áp lực nước được
điều chỉnh vừa phải và quan sát nước ra. Chúng tôi
đánh giá kích thước của sỏi để có thể gắp ngay ra
được. Nếu kích thước sỏi lớn, chúng tôi dùng máy tán
sỏi cơ học Swiss-Lithoclast tán vỡ sỏi và gắp ra từng
mảnh vụn (chúng tôi không có máy tán sỏi siêu âm
hoặc thuỷ động lực nên không có kinh nghiệm về
khả năng tán sỏi của các loại máy này). Sau khi gắp
hết sỏi, kiểm tra lại bằng X quang, bệnh nhân được
đặt 1 ống thông mở thận ra da xuyên qua ống
Amplatz. Ống thông thận ra da giúp tránh thấm nước
tiểu ra quanh thận tạo nên khối máu tụ lẫn nước tiểu
dễ gây nhiễm trùng. Mặt khác ống thông giúp tạo
đường hầm thận ra da để nếu cần, bệnh nhân có thể
được soi lại sau 3, 4 ngày để gắp sỏi còn sót lại. Thông
thường nếu tình trạng bệnh nhân ổn, hết chảy máu,
có thể rút thông thận ra da từ ngày thứ 3 trở đi và
bệnh nhân có thể xuất viện từ ngày thứ 4 trở đi. Một
vài trường hợp do sỏi vụn gây tắc nghẽn niệu quản
làm nước tiểu dò qua đường thận ra da, chúng tôi cho
bệnh nhân đặt thông JJ lên niệu quản-bể thận, bệnh
nhân xuất viện và trở lại 1 tháng sau để rút thông JJ.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 246
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
KẾT QUẢ
Trong số 337 trường hợp sỏi thận, 287 trường
hợp đã được lấy hết sỏi đạt tỷ lệ 85,16%. Tuy nhiên
trong số đó có 12 bệnh nhân chúng tôi phải soi thận
lần thứ 2 sau 1 tuần để gắp sỏi còn sót.
Chuyển mổ hở 50 trường hợp tỷ lệ 14,84% vì
nhiều lý do.
- Chảy máu khi đặt Amplatz hoặc tán sỏi: 27
trường hợp chiếm tỷ lệ 8,01%. Máy tán sỏi cơ học
Swiss-Lithoclast làm vỡ vụn sỏi, mảnh vụn sỏi chấn
động vào thành sau bể thận gây chảy máu. Chúng tôi
không dùng các loại tán sỏi khác như siêu âm, thuỷ
động lực...
- Chọc dò thất bại trong 14 trường hợp, tỷ lệ
3,86%. Với điều kiện chỉ có 1 máy X quang điều chỉnh
cho 2 mặt cắt thẳng và nghiêng nên nhiều khi chúng
tôi gặp khó khăn trong vấn đề định vị đài thận cho
chính xác.
- Không đặt được ống thông lên niệu quản trong 5
trường hợp, tỷ lệ 1,48%. Những trường hợp miệng
niệu quản xoay ngang hoặc do vị trí miệng niệu quản
không thích hợp khi đặt ống thông.
- 1 trường hợp thận chướng nước nhiễm trùng,
chúng tôi chỉ mở thận ra da.
Trong số 61 trường hợp sỏi niệu quản trên,
chúng tôi đã lấy được sỏi cho 47 bệnh nhân đạt tỷ lệ
77,05%.
Chuyển mổ hở 14 trường hợp tỷ lệ 22,95%. Đa số
trường hợp thất bại của sỏi niệu quản là không đẩy sỏi
vào bể thận được hoặc không đặt dây dẫn qua sỏi
được do sỏi kẹt lâu ngày tại chỗ sinh ra nhiều polype
bám quanh sỏi.
Vấn đề sót sỏi trong lấy sỏi qua da dễ gặp hơn
trong mổ hở vì khi tán sỏi các mảnh vụn sỏi văng ra
và có thể di chuyển vào một đài thận mà góc độ tạo
nên với máy soi thận không cho phép gắp được sỏi.
Trong những trường hợp này chúng tôi chờ sau 1 tuần
cho đường hầm thận ra da được tạo nên và chúng tôi
soi thận lại lần 2 để gắp sỏi. Nếu lần 2 vẫn không lấy
được sỏi, một thời gian sau chúng tôi chuyển bệnh
nhân sang tán sỏi ngoài cơ thể. Vấn đề sẽ trở nên dễ
dàng hơn khi chúng ta có máy soi thận mềm.
Biến chứng sau lấy sỏi thận qua da
- Chảy máu thứ phát 4 trường hợp, sau khi rút ống
thông thận ra da. Chúng tôi đã mổ lại 3 trường hợp: 2
trường hợp may cầm máu vết lấy sỏi, 1 trường hợp
cắt bán phần thận và 1 trường hợp được điều trị bảo
tồn, vết mổ tự cầm máu được.
- Tràn máu màng phổi trái 1 trường hợp, bệnh
nhân được đặt dẫn lưu màng phổi và tình trạng khó
thở cải thiện. Một tuần sau bệnh nhân được rút ống
dẫn lưu màng phổi.
- Tổn thương đại tràng phải 1 trường hợp. Bệnh
nhân được đặt ống thông dẫn lưu trực tiếp ra da, thay
ống thông nhỏ dần và cuối cùng rút hẳn, vết thương
tự lành mà không cần can thiệp phẫu thuật. Bệnh
nhân được nuôi ăn bằng đường tĩnh mạch và dùng
kháng sinh phổ rộng. Sau 12 ngày điều trị bệnh nhân
được bình phục.
- 2 bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết được điều trị
tại khoa hồi sức trong 5 ngày. Bệnh nhân được điều
trị bằng dịch truyền, kháng sinh đặc hiệu. Sau 5 ngày
bệnh nhân hết sốt được chuyển về khoa.
BÀN LUẬN
Phương pháp lấy sỏi thận và niệu quản trên qua
da ngày nay đã trở thành phương pháp hàng đầu để
điều trị sỏi thận lớn mà không thể tán sỏi ngoài cơ
thể được(3). Kết hợp với tán sỏi bằng siêu âm, thuỷ
động lực hay cơ học giúp tán vỡ sỏi ra thành từng
mảnh nhỏ để có thể gắp được qua ống Amplatz có
đường kính 1cm, phương pháp lấy sỏi qua da đã
chứng minh được hiệu quả qua tỷ lệ thành công cao
của các tác giả từ 85-95% đến gần 100%(6) với tỷ lệ
tổn thương dưới 10%(8).
Lợi điểm của phương pháp này là giảm đau đớn
trong thời gian hậu phẫu, nhờ vậy bệnh nhân có thể
trở lại làm việc sớm hơn, bệnh nhân không chịu vết
mổ hở mà sau này sẽ gây cảm giác tê rần khó chịu
kéo dài và còn vấn đề thẩm mỹ vết mổ. Mặt khác
phương pháp lấy sỏi qua da còn tỏ ra trội hẳn so với
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 247
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
mổ hở trong trường hợp sỏi thận tái phát, vì đối với
lấy sỏi qua da sỏi mổ lần đầu hay tái phát không khác
nhau như mổ hở, sỏi tái phát sẽ khó khăn hơn nhiều.
Tuy nhiên ngày nằm viện của bệnh nhân trong loạt
nghiên cứu này chưa ngắn hơn mổ hở (trung bình 6
ngày so với của các tác giả khác trung bình 4 ngày) có
thể do kinh nghiệm tích lũy chưa nhiều bằng các tác
giả, sỏi niệu ở Việt Nam tỏ ra cứng hơn so với bệnh
nhân các nơi trên thế giới, phương tiện phẫu thuật
cũng không đầy đủ và nhất là ngày nằm viện của các
trường hợp biến chứng đã đưa tỷ lệ ngày nằm viện
kéo dài ra.
Những sỏi nằm ở đài giữa và đài trên gây khó khăn
cho PNL và đòi hỏi nhiều phương tiện dụng cụ hơn như
máy soi thận mềm. Sỏi niệu quản lưng đòi hỏi phải có
máy soi thận mềm để có thể gắp được sỏi ra.
Việc áp dụng PNL cho những sỏi san hô làm gia
tăng tỷ lệ sỏi sót, tuy nhiên nếu kết hợp với tán sỏi
ngoài cơ thể sẽ đưa tỷ lệ thành công lên hơn 90%(11).
Chống chỉ định duy nhất của lấy sỏi thận qua da
là bệnh lý rối loạn đông máu. Bệnh nhân dùng
những loại thuốc làm thay đổi sự đông máu phải
ngưng thuốc trong một thời gian trước, như vậy mới
có thể tránh được biến chứng chảy máu do lấy sỏi
thận qua da.
Nguy cơ chảy máu có thể xảy đến trong lúc chọc
dò thận, trong quá trình tán sỏi. Trong trường hợp
trước, chọc dò làm tổn thương mạch máu lớn của
cuống thận do định vị hướng chọc dò không chính
xác. Còn chảy máu trong khi tán sỏi thường do sỏi
cứng, chấn động của mảnh sỏi vụn làm rách chủ mô
thận và chảy máu. Trong trường hợp chảy máu do
tổn thương mạch máu liên thùy hay mạch máu gần
cuống thận trong lúc nong đường vào thận thường
gây chảy máu ồ ạt, nếu có thể chụp động mạch thận
làm thuyên tắc nhánh mạch máu tổn thương, còn
khi chuyển mổ hở may cầm máu hoặc đôi khi phải
cắt bán phần hoặc toàn phần thận. Vì thế chúng tôi
thường chọn điểm chọc dò ở bờ ngoài thận nơi mạch
máu đã chia nhỏ, ít nguy cơ chảy máu hơn(1). Mặt
khác chọn đường vào từ cực dưới cũng ít mạch máu
hơn so với cực trên. Theo F. J. B. Sampaio, tỷ lệ tổn
thương mạch máu khi chọc dò đài thận trên là 26%,
đối với đài thận giữa là 23% và đài thận dưới là 13%(5).
Tổn thương màng phổi thường gặp phải khi điểm
chọc dò trên xương sườn 12 để đi vào đài thận trên(4),
Young và cộng sự đã thực hiện 115 trường hợp lấy sỏi
thận qua da qua đường trên xương sườn 12 và ghi
nhận biến chứng 8,7% tràn dịch màng phổi(4). Để
tránh tổn thương màng phổi, chúng tôi chọc dò dưới
xương sườn 12 với sự trợ giúp của bác sĩ gây mê bóp
bóng cho thận xuống thấp để có thể đi vào đài thận
trên được, hoặc chúng tôi dùng kỹ thuật chọc dò trực
tiếp đài trên với tia X thẳng trục với kim chọc dò(8). Xử
trí tổn thương này cũng với dẫn lưu màng phổi.
Tổn thương đại tràng dễ gặp phải khi điểm chọc
dò bên ngoài đường nách sau. Tuy nhiên với tổn
thương này, thường là tổn thương đại tràng sau phúc
mạc, chúng tôi điều trị bảo tồn, dẫn lưu tổn thương,
nuôi ăn bằng dịch truyền. Sau 5-7 ngày vết thương
đại tràng sẽ lành mà không cần phải mổ hở(7). Theo
Leduc(9) tổn thương đại tràng có thể tránh được khi
điều khiển trục dò tìm đài thận cạnh đại tràng. Có
thể dùng siêu âm khảo sát xem có đại tràng nằm
chen vào trên đường chọc dò.
KẾT LUẬN
Ngày nay, với sự phát triển của các kỹ thuật nội
soi, lấy sỏi qua da trở thành phương pháp hàng đầu
trong việc điều trị sỏi thận và sỏi niệu quản lưng(3)
nhất là khi kết hợp với tán sỏi ngoài cơ thể giúp cho
tỷ lệ hết sỏi lên tới 100%(6). Theo E. M. Mc Dougall tất
cả các bác sĩ niệu khoa đều phải nắm vững kỹ thuật
này(4). Như vậy, sau này với thêm những dụng cụ mới
như máy soi thận mềm, chúng ta hy vọng công việc
điều trị cho bệnh nhân sỏi niệu sẽ dùng những
phương pháp nội soi ít xấm lấn và giảm thiểu phương
pháp mổ hở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Atony T. Young. Percutaneous Nephrostomy: Puncture
Techniques. In: Atlas of Endourology Eds. Kurt
Amplatz-Paul H. Lange. Year Book Medical Publishers,
Inc. Ch. 6, p.55, 1986.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 248
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
7. Jill M. Gerspach, Gary C. Bellman, Marshall L. Stoller
and Peter Fugelso. Conservative management of colon
injury following percutaneous renal surgery. In:
Urology 49, 831-836, 1997.
2. Brian S. Niles, Arthurn D. Smith. Technique of
Antegrade Nephrostomy. In: Atlas of Uro. Clin. North
Am. vol 4, No 1, 1996.
3. E. James Seidmon. Percutaneous Nephrostolithotomy
and the application of ultrasonic Lithotripsy and
electro hydraulic Lithotripsy. In Current Urologic
Therapy 3. Ed. E. J. Seidmon. p.178, W. B. Saunders
3rd ed. 1994.
8. Keith N. Van Arsdalen and Jay B. Levy. Urolithiasis.
In: Clinical Manual of Urology. Eds. Philip M. Hanno
and Alan J. Wein. Ch. 9, p. 229- 245 Mc Graw Hill Inc.
2nd ed. 1994.
4. Elspeth M. Mc Dougall, Evangelos N. Liatsikos, Caner
Z. Dinlenc and Arthur D. Smith: Percutaneous
approaches to the upper urinary tract. In Campbell’s
Urology. Eds. Walsh, Retik, Vaughan and Wein. Ch.98,
p.3320-3357. Saunders 8th ed. 2002.
9. Leduc (A.), Carion (G.), Cortesse (A.), Teillac (P.). La
chirurgie rénale percutanée. Analyse de cent cas de
néphrolithotomies percutanées. Ann. Urol., 18, 381-
383, 1984.
10. M. Marberger. Percutaneous stone manipulation. In:
Stone Surgery Eds. M. Marberger, J. M. Fitzpatrick, A.
D. Jenkins anf C. Y. C. Pak. ch. 5, p.51. Churchill
Livingstone, 1990
5. Francisco J. B. Sampaio. Renal anatomy. Endourologic
Considerations. In: Urol. Clin. North Am. vol 27, No 4,
2000.
6. J. Patrict Spirnak and Martin I. Resnick. Stone
treatment. Ch.16, p. 695-741. In Aldult and Pediatric
Urology. Eds. J. Y. Gillenwater, J. T. Grayhach, S. S.
Howard J. W. Duckett. Mosby 3rd ed. 1996
11. Ph. Ballanger. Résultats de l’extraction percutanée des
calculs du rein et de l’uretère. A propos de 124 cas. J.
d’Urologie. No 1, P. 11-16, 92,1986.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 249
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_hinh_lay_soi_than_va_nieu_quan_qua_da_cho_398_benh_nhan.pdf