Tài liệu Tình hình hạn hán trong những năm gần đây và nhận định tình hình hạn hán mùa khô năm 2014 - Bùi Đức Long: TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
Số tháng 04 - 2014 1
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
TÌNH HÌNH HẠN HÁN TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ
NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH HẠN HÁN MÙA KHÔ NĂM 2014
Bùi Đức Long - Trung tâm Dự báo KTTV Trung ương
T rong những năm qua, tình hình hạn hán, úng ngập diễn ra gay gắt, phức tạp và có chiều hướngmở rộng. Hạn đặc biệt gay gắt trong những năm 1997-1998, 2002, 2004 – 2005 và 2012-2013.Trong năm 2014, tình hình hạn hán sẽ còn khá gay gắt.
1. Sơ bộ những năm xảy ra hạn hán điển hình
a. Hạn hán năm 1997-1998
Hạn hán mùa khô 1997-1998 xảy ra rất nghiêm
trọng, hầu như bao trùm cả nước (hình 1). Theo số
liệu thống kê, lúa đông xuân, hè thu, lúa mùa bị hạn
trên 750.000ha (mất trắng trên 120.000ha); cây
công nghiệp và cây ăn quả bị hạn trên 236.000ha
(bị chết gần 51.000ha); 3,1 triệu người thiếu nước
sinh hoạt.
Những dấu hiệu thời tiết báo trước hạn hán
nghiêm trọng xảy ra vào mùa khô năm 1997-2003
đã được Trung tâm Khí tượng Thủy văn (KTTV) và
Bộ Nông nghiệp & Phát triể...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình hạn hán trong những năm gần đây và nhận định tình hình hạn hán mùa khô năm 2014 - Bùi Đức Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
Số tháng 04 - 2014 1
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
TÌNH HÌNH HẠN HÁN TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ
NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH HẠN HÁN MÙA KHÔ NĂM 2014
Bùi Đức Long - Trung tâm Dự báo KTTV Trung ương
T rong những năm qua, tình hình hạn hán, úng ngập diễn ra gay gắt, phức tạp và có chiều hướngmở rộng. Hạn đặc biệt gay gắt trong những năm 1997-1998, 2002, 2004 – 2005 và 2012-2013.Trong năm 2014, tình hình hạn hán sẽ còn khá gay gắt.
1. Sơ bộ những năm xảy ra hạn hán điển hình
a. Hạn hán năm 1997-1998
Hạn hán mùa khô 1997-1998 xảy ra rất nghiêm
trọng, hầu như bao trùm cả nước (hình 1). Theo số
liệu thống kê, lúa đông xuân, hè thu, lúa mùa bị hạn
trên 750.000ha (mất trắng trên 120.000ha); cây
công nghiệp và cây ăn quả bị hạn trên 236.000ha
(bị chết gần 51.000ha); 3,1 triệu người thiếu nước
sinh hoạt.
Những dấu hiệu thời tiết báo trước hạn hán
nghiêm trọng xảy ra vào mùa khô năm 1997-2003
đã được Trung tâm Khí tượng Thủy văn (KTTV) và
Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn dự báo
sớm tình hình. Các tỉnh và cơ quan chức năng các
địa phương đều có kế hoạch và thực hiện nhiều
biện pháp chuẩn bị cần thiết để đối phó và giảm
nhẹ thiên tai. Nhưng với cơ sở hạ tầng thuỷ lợi còn
yếu nên hiệu quả chống hạn còn bị hạn chế. Thiệt
hại về vật chất do hạn hán trong mùa khô này là
trên 5.000tỷ đồng.
Chính phủ đã phải trợ giúp hàng chục tỷ đồng
để cung cấp nước sinh hoạt cho 18 tỉnh. Những
thiệt hại khác chưa thống kê và tính toán hết được
như vấn đề kinh tế, môi trường, xói mòn, sa mạc
hoá, thiếu ăn, suy dinh dưỡng, bệnh tật, khủng
hoảng tinh thần và giảm sút sức khoẻ của hàng
triệu người.
Giếng đã bị cạn nước. Một số nơi giá nước sinh
hoạt có lúc đã lên tới 20.000-30.000 đ/m3
* Tổng thiệt hại do hạn hán gây ra trong hai đợt
ước tính gần 3.000 tỷ đồng (năm 1998, thiệt hại của
đợt hạn thứ nhất là trên 5.200 tỷ đồng; đợt thứ hai
là trên 3.000 tỷ đồng).
Hình 1.Bản đồ hạn hán năm 1998
Người đọc phản biện: PGS. TS. Nguyễn Viết Lành
2 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2014
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
b. Hạn hán năm 2002
Đợt hạn hán này có thể chia làm 2 giai đoạn;
+ Giai đoạn 1: từ cuốí tháng 2/2002 đến cuối
4/2002 hạn nặng xảy ra ở các tỉnh Phú Yên, Ninh
Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Gia Lai, Kon Tum,
Đắc Lăk, Lâm Đồng.
+ Giai đoạn 2: từ giữa tháng 5/2002 đến đầu
tháng 8/2002. Hạn nặng đã xảy ra trên diện rộng
thuộc các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên; trong
đó nặng nhất là các tỉnh Quảng Nam, Bình Định,
Bình Thuận, Ninh Thuận và Đắc Lắc.
* Thiệt hại về sản suất nông nghiệp:
- Diện tích lúa bị hạn: 172.300ha, trong đó các
tỉnh miền Trung là 95.000ha, diện tích lúa bị mất
trắng trong vụ đông xuân là 13.685ha và trong vụ
xuân hè bị mất trắng là 4.152ha.
- Diện tích rau màu bị hạn: 45.300ha, trong đó
các tỉnh miền Trung là 25.000ha. diện tích bị mất
trắng là 4.456ha.
- Diện tích cây ăn quả và cây công nghiệp bị
hạn: 188.000 ha, chủ yếu là cà phê, hồ tiêu, trong
đó nặng nhất là các tỉnh: Đắc Lắc, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Bình Định, Quảng Nam, diện tích bị mất
trắng là 36.323 ha.
Ước tính thiệt hại đối với sản xuất nông nghiệp
khoảng 1.330,729 tỷ đồng.
- Diện tích rừng bị chết và cháy vào xấp xỉ
11.361 ha, thiệt hại ước tính khoảng 258.136 tỷ
đồng.
- Diện tích hồ ao bị cạn nước khoảng 63.337 ha.
- Ngoài thiện hại gây ra đối với sản xuất nông-
lâm-thuỷ sản, hạn hán cũng gây ra thiếu nước ở
một số hồ thuỷ điện, hạn chế phát điện và cấp
nước cho hạ du ở các nhà máy thuỷ điện như Vĩnh
Sơn, Đa Nhim
*Về dân sinh
Bị thiếu nước sinh hoạt là 744.000 hộ (khoảng
3,5 triệu/người); bị thiếu đói là 310.000 hộ (khoảng
1,5 triệu người). Mực nước ở hàng vạn giếng đào bị
hạ thấp so với bình thường từ 2-5 m, nhiều giếng
đã bị canh nước. Một số nơi giá nước sinh hoạt có
lúc đã lên tới 20.000-30.000 đ/m3
* Tổng thiệt hại do hạn hán gây ra trong hai đợt
ước tính gần 3.000 tỷ đồng.
c. Hạn hán năm 2003
Những tháng đầu năm 2003, mực nước các
sông suối, hồ chứa ở Bắc Bộ, Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên xuống thấp hơn nhiều so với trung bình
nhiều năm, nhiều hồ chứa cạn kiệt và hết nước.
Do lượng dòng chảy thiếu hụt, nắng nóng kéo dài
tình hình khô hạn và thiếu nước đã xảy ra gay gắt
trên diện rộng. Đặc biệt khu vực Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ, hạn hán đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sản xuất và đời sống của nhân dân, làm
gần 300.000 hộ dân với gần 1,5 triệu người thiếu
nước sinh hoạt (chủ yếu ở các tỉnh Bình Thuận,
Kon Tum và Gia Lai); gần 170.000 hộ với gần
800.000 người bị thiếu đói; diện tích cây trồng bị
hạn hơn 254.000 ha, trong đó có trên 25.000 ha
lúa, 178.000 ha cà phê
d. Hạn hán năm 2004 - 2005
Hạn hán năm 2004-2005 xảy ra trên diện rộng
nhưng không nghiêm trọng như năm 1997-1998.
Ở Bắc Bộ, mực nước sông Hồng tại Hà Nội vào đầu
tháng 3 xuống mức 1,72 m, thấp nhất kể từ năm
1963 đến thời điểm này (thấp nhất trong lịch sử là
1,57 m vào tháng 3/1956). Ở miền Trung và Tây
Nguyên, nắng nóng kéo dài, dòng chảy trên các
sông suối ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm
(TBNN), một số suối cạn kiệt hoàn toàn. Ở vùng
Đồng bằng sông Hồng: diện tích bị hạn vụ đông
xuân là 230.000ha; khu vực Bắc Trung Bộ: hạn vụ
hè thu là 35.183ha lúa; 57.662ha rau màu và cây
trồng khác; 1.027.752 người thiếu nước sinh hoạt.
Ninh Thuận là địa phương bị hạn hán, thiếu
nước khốc liệt nhất trong vòng 20 qua các sông
suối, ao hồ đều khô cạn, chỉ có hồ Tân Giang còn
khoảng 500.000 m3 nước nhưng ở dưới mực nước
chết, hồ thuỷ điện Đa Nhim, nguồn cung cấp nước
chủ yếu cho Ninh Thuận, cũng chỉ còn 1/3 dung
tích so với cùng kỳ năm trước. Toàn tỉnh có 47.220
người thiếu nước sinh hoạt.
3TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2014
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
Tại Bình Thuận,từ tháng 11/2004 đến 2/2005
hầu như không mưa. Mực nước trên các triền
sông gần như cạn kiệt, lượng dòng chảy còn lại
rất nhỏ; sông Dinh, sông Lòng Sông cạn khô. Mực
nước các hồ trong tỉnh đều thấp hơn mực nước
chết từ 1,70 - 2,2 m. Toàn bộ lượng nước còn lại
trong các hồ chứa không đáp ứng đủ nhu cầu cấp
nước sinh hoạt cho nhân dân, nước uống cho gia
súc. Hạn hán làm gần 50 ngàn người thiếu nước
sinh hoạt, 16.790 hộ thiếu đói, khoảng 123.800
con bò thiếu thức ăn và trên 89.000 bò, dê, cừu
thiếu nước uống.
Khu vực Tây Nguyên: tổng diện tích bị hạn là
26.888ha lúa (vụ đông xuân 21.626ha; vụ mùa
5.262ha), rau và cây trồng khác bị hạn là 293.928ha
(vụ đông xuân 222.994ha, vụ mùa 70.934ha), số
người thiếu nước sinh hoạt 225.965 người.
Theo thống kê chưa đầy đủ, đến cuối tháng 4
năm 2005, tổng thiệt hại do hạn hán gây ra ở các
tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã lên tới trên
1.700 tỷ đồng. Chính phủ phải cấp 100 tỷ đồng
để hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả hạn
hán thiếu nước và 1500 tấn gạo để cứu đói cho
nhân dân.
Ở Đông Nam Bộ: vụ đông xuân bị hạn là
4.273ha lúa và 45.690ha rau màu và các cây trồng
khác.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long: vụ hè thu năm
2005 có 239.678ha lúa và 81.022ha rau màu và cây
trồng khác bị hạn. Thiệt hại do hạn hán, xâm mặn
lên tới 720 tỷ đồng. Trên sông Tiền, sông Hàm
Luông, sông Cổ Chiên, sông Hậu, mặn xâm nhập
sâu từ 60–80 km. Riêng sông Vàm Cỏ, mặn xâm
nhập sâu tới mức kỷ lục: 120- 140 km.
e. Hạn hán thiếu nước năm 2012 - 2013
Trong năm 2012, mùa mưa ở miền Trung, Tây
Nguyên và Nam Bộ kết thúc khá sớm, lượng mưa
thiếu hụt nhiều so với TBNN, nhiều nơi hầu như
không có lũ, phần lớn các hồ chứa nước đều chỉ
đạt 50 – 80% dung tích thiết kế, có nơi chỉ đạt được
20% - 30%. Trong các tháng mùa khô, nhiệt độ
trung bình ở khu vực miền Trung đều cao hơn so
với mức TBNN, nắng nóng gay gắt xảy ra ở nhiều
địa phương. Tình trạng khô hạn, thiếu nước xảy ra
hầu như trên toàn quốc, nhưng gay gắt nhất là
vùng ven biển Trung Bộ, Tây Nguyên và miền
Đông Nam Bộ, tương đương với tình trạng khô
hạn, thiếu nước năm 2002. Ở vùng Đồng bằng
Nam Bộ, tình trạng xâm nhập mặn sớn hơn 1
tháng so với TBNN và có thời điểm sâu vào nội
đồng tới 60 km.
• Ở Bắc Bộ, trong các tháng mùa khô, tình trạng
hạn hán, thiếu nước vụ đông xuân 2013 xảy ra
trong các tháng đầu mùa cạn nhưng không gay
gắt. Nguồn nước các sông, các hồ chứa giảm
nhanh và đều ở mức nhỏ hơn từ 10-30% so với
TBNN, thiếu hụt nhiều ở lưu vực sông Gâm, sông
Thao và hạ lưu sông Hồng-Thái Bình.
• Ở các tỉnh ven biển Trung Bộ, Tây Nguyên và
miền Đông Nam Bộ, lượng dòng chảy trung bình
trên hầu hết các sông đều thiếu hụt từ 10-50% so
với TBNN, có nơi thiếu hụt nhiều hơn. Trên các
sông thuộc Trung Bộ và khu vực Tây Nguyên đã
xuất hiện mực nước thấp nhất trong chuỗi quan
trắc cùng kỳ: Sông Mã tại Lý Nhân 2,92 m (ngày
27/01); sông Cả tại Yên Thượng 0,2 m (ngày 16/4);
sông Trà Khúc tại Trà Khúc 0,45 m (ngày 20/02),
sông Cái Nha Trang tại Đồng Trăng 3,52 m (ngày
04/4), sông Srêpok tại Bản Đôn 167,29 m (ngày
07/01); riêng sông Đăkbla tại Kon Tum mực nước
đã xuống tới 514,95 m (ngày 29/05), là mức thấp
nhất trong chuỗi số liệu quan trắc. Tại một số tỉnh
thuộc ven biển miền Trung như Quảng Trị, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã xảy ra tình trạng
khô hạn, thiếu nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sản xuất và đời sống nhân dân.
Tình trạng khô hạn cũng xảy ra ở nhiều vùng
thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Xâm nhập mặn
xuất hiện sớm hơn khoảng 1 tháng so với TBNN và
lấn sâu vào nội đồng từ 40-50 km; một số nơi
thuộc các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh xâm
nhập mặn vào sâu tới 50-70 km với độ mặn dao
động từ 3-7‰.
2. Nguyên nhân
• Lượng mưa thiếu hụt nhiều so với TBNN và
phân bổ không đều, nắng nóng kéo dài trong
4 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2014
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
Bảng 1. Tổng hợp DT thiếu nước và hạn vụ đông xuân từ năm 2001-2005
Bảng 2. Tổng hợp DT nước và hạn vụ hè thu từ năm 2001-2005
Tổng hợp DT thiếu nước và hạn vụ mùa từ năm 2001-2005
3. Nhận định tình hình hạn hán trong mùa
khô năm 2014
a. Khí tượng
1) Nhiệt độ
Từ tháng 5 - 10/2014, nền nhiệt độ trung bình
trên phạm vi toàn quốc phổ biến xấp xỉ trên TBNN.
Nắng nóng xuất hiện sớm, đặc biệt ở Tây Bắc
Bộ, Bắc Trung Bộ và Nam Bộ. Các đợt nắng nóng
gay gắt ở Bắc Bộ có thể tập trung nhiều từ tháng 5
- 7, ở Trung Bộ có thể kéo dài hơn, từ tháng 5 -
8/2014.
2) Lượng mưa
nhiều ngày, lượng bốc hơi lớn làm cho dòng chảy
trên các sông suối, hồ chứa bị cạn kiệt. Mặn các
cửa sông lấn sâu vào nội địa làm cho nhiều trạm
bơm, cống không lấy được nước ...
• Nhu cầu dùng nước cho sản xuất, sinh hoạt và
các ngành kinh tế ngày càng cao. Nhiều nơi diện
tích gieo trồng vượt quá khả năng cấp nguồn nước
tưới.
• Hệ thống các công trình thuỷ lợi được xây
dựng từ lâu nên đã xuống cấp, khả năng trữ nước,
cấp nước bị giảm nhiều so với thiết kế.
• Việc điều tiết nguồn nước ở các hồ chứa thủy
điện đã ảnh hưởng nhiều đến việc lấy nước phục
vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là chưa đáp ứng
được yêu cầu trả lại dòng chảy tự nhiên ở hạ lưu
khi cần lấy nước chống hạn.
5TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2014
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
Ở Bắc Bộ: Mùa mưa có khả năng đến muộn hơn
TBNN, tổng lượng mưa các tháng 5 và 6, có khả
năng ở mức xấp xỉ dưới TBNN.
Ở Trung Bộ: từ Nghệ An đến Bắc Bình Thuận, từ
tháng 5 - 8/2014 là thời kỳ mùa khô, lượng mưa
được dự báo ở mức thấp hơn TBNN, do vậy tình
trạng thiếu nước, khô hạn tại khu vực này đến
khoảng cuối tháng 8/2014 mới được cải thiện.
Nam Bộ và Tây Nguyên: Lượng mưa từ tháng 4
-5/2014 có khả năng phổ biến ở mức xấp xỉ dưới
TBNN và đến muộn hơn so với bình thường
(khoảng nửa cuối tháng 5/2014). Trong tháng 5 có
thể xuất hiện mưa chuyển mùa nhưng diện mưa
chưa rộng và không đồng đều nên tình trạng thiếu
nước và khô hạn cục bộ tại Tây Nguyên, Nam Bộ
và tỉnh Bình Thuận có khả năng kéo dài đến nửa
cuối tháng 5/2014 mới dần được cải thiện.
b. Thủy văn
1) Trung Bộ và Tây Nguyên
Từ nửa cuối tháng 4 đến đầu tháng 5/2014,
lượng dòng chảy trên phần lớn các sông ở Trung
Bộ, Tây Nguyên tiếp tục giảm dần và ở mức thấp
hơn TBNN từ 20-50%, có nơi thấp hơn 60%; riêng
trên sông Đăkbla tại Kon Tum ở mức xấp xỉ và cao
hơn một ít so với TBNN. Trong thời gian này, ở các
tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên có khả năng xảy ra khô
hạn và thiếu nước cục bộ, đặc biệt là ở các tỉnh
Quảng Nam-Đà Nẵng, Phú Yên, Ninh Thuận và
Bình Thuận.
Từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6/2014, trên
nhiều sông ở Trung Bộ và Tây Nguyên có khả năng
xuất hiện lũ tiểu mãn với đỉnh lũ thấp hơn TBNN.
Từ tháng 6 đến đầu tháng 9/2012, dòng chảy
trên các sông từ Nghệ An đến Ninh Thuận tiếp tục
giảm dần và có khả năng thấp hơn TBNN từ 30-
50%; ở hạ lưu một số sông có khả năng xuất hiện
mực nước thấp nhất trong chuỗi số liệu quan trắc.
Cần đề phòng xảy ra tình trạng khô hạn, thiếu
nước cục bộ sẽ mở rộng ra nhiều tỉnh ở ven biển
Trung Bộ, tuy nhiên tình trạng khô hạn không
nghiêm trọng như năm 2013.
2) Nam Bộ
Dòng chảy ở hạ lưu sông Mê Kông tiếp tục
giảm chậm và ở mức cao hơn TBNN khoảng 0,1-
0,2 m. Mực nước đầu nguồn sông Cửu Long chịu
ảnh hưởng của thủy triều, có xu thế giảm dần và ở
mức cao hơn TBNN từ 0,1-0,3 m (tương đương mực
nước năm 2011-2012). Từ nửa cuối tháng 4 đến
cuối tháng 5/2014, cần chủ động đối phó với tình
trạng khô hạn thiếu nước cục bộ ở khu vực Đông
Nam Bộ và xâm nhập mặn sâu vào các cửa sông.
4. Định hướng giải pháp phòng chống hạn
hán trên quan điểm quản lý tài nguyên nước
a. Định hướng và giải pháp chống hạn
Nhìn chung, những vùng có nguy cơ bị hạn hán
thiếu nước nghiêm trọng thường có các đặc điểm:
địa hình cao, dốc, sông ngắn, dòng chảy mặt thoát
khá nhanh ra dòng chính hoặc ra biển; đất đá có
khả năng giữ nước kém và không đều, phần đồng
bằng ven biển tầng chứa nước mỏng và dễ bị
nhiễm mặn, lượng mưa nhỏ và lượng bốc hơi rất
lớn hoặc nguồn nước đang bị khai thác quá mức.
Vì vậy, để giải quyết vấn đề hạn hán, thiếu nước
cũng như phòng chống các tác hại do nước gây ra
một cách lâu dài, bền vững cần phải thực hiện
đồng thời nhiều biện pháp, trong đó có các biện
pháp chủ yếu sau:
• Xây dựng quy hoạch tổng hợp về tài nguyên
nước lưu vực sông, vùng trọng điểm. Căn cứ quy
hoạch, các ngành, địa phương lập kế hoạch khai
thác, sử dụng hợp lý tài nguyên nước trên phạm
vi của mình; Việc xây dựng, nâng cấp các công
trình khai thác, sử dụng nước phải bảo đảm
nguyên tắc sử dụng tổng hợp, tuân theo quy
hoạch khung của toàn lưu vực và của từng tiểu lưu
vực để bảo đảm công bằng và nâng cao hiệu quả
trong sử dụng nước, góp phần phát triển bền
vững tài nguyên nước trên lưu vực sông.
• Quy hoạch phát triển nguồn nước, bao gồm
các biện pháp công trình và phi công trình; gắn với
việc bảo vệ, phát triển rừng và khả năng tái tạo
nguồn nước. Việc xây dựng công trình trữ, giữ
nước, điều hoà phân phối hợp lý nguồn nước khi
kết hợp chống lũ và cấp nước phục vụ sử dụng
tổng hợp cho nhiều mục đích và bảo vệ tài nguyên
nước, bảo vệ môi trường, phát triển rừng, bảo vệ
rừng đầu nguồn... là những giải pháp cần ưu tiên
6 TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2014
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
thực hiện. Phải gắn kết chặt chẽ việc phát triển
kinh tế-xã hội với bảo đảm an ninh về nước, đồng
bộ với phát triển nguồn nước.
• Lập kế hoạch điều hoà, phân phối tài nguyên
nước cho từng lưu vực sông trên cơ sở cân đối khả
năng nguồn nước và nhu cầu khai thác, sử dụng
theo lưu vực sông, các ngành, địa phương phải
tuân thủ kế hoạch điều hoà phân phối tài nguyên
nước trong lưu vực; tăng cường công tác quản lý
nhu cầu dùng nước; có cơ chế để bảo đảm dùng
nước có hiệu quả cao nhất và đủ nguồn nước
trong năm.
• Xây dựng chính sách, cơ chế quản lý, vận
hành, điều hoà phân phối nguồn nước các hồ chứa
lớn đa mục tiêu để tạo nguồn cung cấp an toàn và
hiệu quả cao nhất phục vụ các nhu cầu khai thác,
sử dụng của các ngành, địa phương trong mùa
cạn, kết hợp với phòng chống lũ, bảo đảm duy trì
chế độ dòng chảy tự nhiên về mùa cạn trên các
sông chính trong vùng.
• Xây dựng chính sách quy định thứ tự ưu tiên
chia sẻ nguồn nước theo đối tượng sử dụng nhằm
bảo đảm lợi ích chung (sinh hoạt, chăn nuôi, thuỷ
sản, nông nghiệp, công nghiệp,) và theo mức
độ hạn hán thiếu nước.
• Thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản quy
phạm pháp luật về tài nguyên nước, trước hết là
thực hiện tốt việc cấp giấy phép thăm dò, khai
thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào
nguồn nước. Đây là một công cụ hữu hiệu để quản
lý tổng hợp nguồn nước vì lợi ích chung của toàn
xã hội.
• Chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với
khả năng nguồn nước ở mỗi vùng, mỗi lưu vực
sông, điều kiện tự nhiên. Xây dựng các mô hình với
các loại cây, con đã được thử nghiệm có khả năng
chịu khô hạn, tiêu thụ ít nước. Ưu tiên cấp nước
cho sinh hoạt và các ngành kinh tế hiệu quả và giá
trị cao.
• Điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất cho
các vùng có nguy cơ hạn hán, thiếu nước ở mức
cao để khai thác nước dưới đất làm phương án dự
phòng cấp nước trong thời kỳ hạn hán nghiêm
trọng.
• Nghiên cứu giải pháp bổ sung nhân tạo
nguồn nước dưới đất và gây mưa nhân tạo trong
những vùng hạn hán thường xuyên.
• Khuyến khích ứng dụng các kỹ thuật và công
nghệ thúc đẩy việc dùng nước tiết kiệm, sử dụng
tuần hoàn, tái sử dụng và giảm thiểu ô nhiễm
nước.
• Xây dựng cơ chế, bộ máy làm công tác quản lý
hạn hán thiếu nước nói riêng và quản lý thiên tai
nói chung. Dự báo, dự kiến diễn biến nguồn nước
hằng năm khi xét các yếu tố ảnh hưởng như phát
triển kinh tế - xã hội, tình trạng khai thác, sử dụng,
khả năng suy thoái nguồn nước và tác động của
biến đổi khí hậu toàn cầu.
b. Định hướng và mục tiêu chiến lược
Để đảm bảo phát triển bền vững đất nước,
trong đó có vấn đề phòng chống hạn hán và sa
mạc hoá phải thực hiện phát triển bền vững tài
nguyên nước trên cơ sở các nguyên tắc định
hướng sau:
Việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên
nước, phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại
do nước gây ra phải tuân theo quy hoạch lưu vực
sông. phải gắn với việc bảo vệ, phát triển rừng và
khả năng tái tạo nguồn nước, xây dựng và bảo vệ
công trình thủy lợi, phòng, chống ô nhiễm nguồn
nước; thực hiện khai thác tổng hợp, tiết kiệm, an
toàn và có hiệu quả nguồn nước. Trong việc
phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do
nước gây ra phải có kế hoạch và biện pháp chủ
động phòng tránh, giảm nhẹ, hạn chế tác hại do
nước gây ra; bảo đảm kết hợp hài hoà lợi ích của cả
nước với các vùng, các ngành và phù hợp với khả
năng của nền kinh tế; phải góp phần phát triển
kinh tế - xã hội và phải có các biện pháp bảo đảm
đời sống dân cư, quốc phòng, an ninh, bảo vệ di
tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh và môi
trường.
c. Các giải pháp công trình
Khai thác các công trình thủy lợi có hiệu quả,
tiếp tục đầu tư xây dựng mới các công trình thủy
lợi để điều tiết nguồn nước. Trong đó tập trung
đầu tư cho đại tu, nâng cấp các hệ thống công
trình thủy lợi đã có nhằm phát huy hết công suất
7TẠP CHÍ KHÍ TƯỢNG THỦY VĂNSố tháng 04 - 2014
NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI
công trình phục vụ đa canh, đa dạng hoá cây
trồng. Tiếp tục kiên cố hoá kênh mương, ứng dụng
kỹ thuật tưới tiêu hiện đại kết hợp truyền thống
nhằm tiết kiệm nước, làm tốt đất, tốt cây, giữ nước
ở những vùng đất dốc. Tiếp tục đầu tư xây dựng
các công trình sử dụng tổng hợp nguồn nước.
Hoàn thiện và thực hiện tốt quy trình vận hành các
hồ chứa thủy điện để điều hoà phân phối nước
nhằm tạo nguồn nước phục vụ các ngành kinh tế
quốc dân, cải thiện môi trường sinh thái..
d. Các giải pháp phi công trình
Giữ vững và phát triển rừng đầu nguồn để đảm
bảo bền vững tài nguyên nước với mục tiêu tăng
độ che phủ của rừng, của lớp thảm thực vật.
Tăng cường quản lý Nhà nước về tài nguyên
nước và công trình thủy lợi. Để thực hiện mục
tiêu chiến lược này, trước tiên phải xây dựng, tiến
tới hoàn thiện các văn bản pháp luật và phổ biến
pháp luật về tài nguyên nước và công trình thủy
lợi.
Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý tài nguyên
nước và công trình thủy lợi từ Trung ương xuống
điạ phương. Tiến tới thành lập Hội đồng tài
nguyên nước quốc gia để tư vấn cho Chính phủ
về quản lý tài nguyên nước trên phạm vi cả nước.
Thành lập các Ban quản lý quy hoạch lưu vực
sông, trước mắt trên lưu vực các sông lớn. Đào tạo
nguồn nhân lực đủ trình độ để thực thi những
nhiệm vụ được giao. Đẩy mạnh công tác nghiên
cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong quản lý
tài nguyên nước và công trình thủy lợi. Từng bước
đẩy mạnh công tác chuyển giao quản lý vận hành
các công trình thủy lợi phù hợp với trình độ sản
xuất và năng lực quản lý, tiến tới xã hội hoá từng
bước việc đầu tư xây dựng và quản lý khai thác
vận hành các công trình thủy lợi.
Mở rộng hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực, từ
nghiên cứu, xây dựng các thể chế, chính sách đến
kêu gọi vốn đầu tư xây dựng, khai thác, quản lý tài
nguyên nước và công trình thủy lợi, trước hết phối
hợp với các quốc gia láng giềng trong việc khai
thác các sông quốc tế đảm bảo lợi ích chung, tận
dụng cao nhất sự giúp đỡ quốc tế về tài chính,
kinh nghiệm, trình độ quản lý, khoa học công
nghệ... trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12_0343_2123433.pdf