Tài liệu Tình hình đời sống kinh tế - Xã hội đồng bào dân tộc thiểu số thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai sau hơn 10 năm được hỗ trợ đất sản xuất: KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 47
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19
1. Mở đầu
Việc đảm bảo cơ hội phát triển công bằng,
toàn diện và bền vững cho các nhóm dân tộc
thiểu số (DTTS) luôn là mục tiêu trọng tâm của
Đảng và Nhà nước, trong đó chính sách đất đai
đóng vai trò quan trọng để giải quyết các vấn đề
nghèo đói và bất ổn xã hội cho đồng bào DTTS.
Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 của
Bộ Chính Trị (Bộ Chính Trị, 1989) và Nghị quyết
số 24/NQ-TW ngày 21/1/2003 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, n.d.) đã thể hiện chủ trương của
Đảng về hỗ trợ đất ở, đất sản xuất và ổn định
sinh kế cho đồng bào DTTS trên địa bàn cả
Tình hình đời sống kinh tế - xã hội đồng bào dân tộc thiểu số thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai sau hơn 10 năm được hỗ trợ đất sản xuất
VÕ THỊ MINH HOÀ, NGUYỄN THỊ THÁI HÀ
Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai
nước. Thực hiện chủ trương trên, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định 132/2002/
...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình đời sống kinh tế - Xã hội đồng bào dân tộc thiểu số thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai sau hơn 10 năm được hỗ trợ đất sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 47
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19
1. Mở đầu
Việc đảm bảo cơ hội phát triển công bằng,
toàn diện và bền vững cho các nhóm dân tộc
thiểu số (DTTS) luôn là mục tiêu trọng tâm của
Đảng và Nhà nước, trong đó chính sách đất đai
đóng vai trò quan trọng để giải quyết các vấn đề
nghèo đói và bất ổn xã hội cho đồng bào DTTS.
Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 của
Bộ Chính Trị (Bộ Chính Trị, 1989) và Nghị quyết
số 24/NQ-TW ngày 21/1/2003 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, n.d.) đã thể hiện chủ trương của
Đảng về hỗ trợ đất ở, đất sản xuất và ổn định
sinh kế cho đồng bào DTTS trên địa bàn cả
Tình hình đời sống kinh tế - xã hội đồng bào dân tộc thiểu số thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai sau hơn 10 năm được hỗ trợ đất sản xuất
VÕ THỊ MINH HOÀ, NGUYỄN THỊ THÁI HÀ
Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai
nước. Thực hiện chủ trương trên, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định 132/2002/
QĐ-TTg ngày 8/10/2002 (Thủ tướng Chính Phủ,
2002) và Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày
20/7/2004 (Thủ tướng Chính Phủ, n.d.) về hỗ trợ
đất sản xuất, đất ở và nước sinh hoạt (sau đây
gọi tắt là Quyết định 132, và Quyết định 134).
Tuy chỉ chiếm khoảng 14% dân số cả nước,
đồng bào DTTS lại là đối tượng chính của nghèo
đói. Chương trình 132 và 134 đã góp phần xóa
đói giảm nghèo cho các nhóm đối tượng này,
tỷ lệ nghèo trong nhóm DTTS đã giảm từ 86,4%
năm 1993 xuống 66,3% năm 2012 (Viện Chính
sách, 2012). Bên cạnh thành tựu đạt được trong
Nhằm giúp các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tạo sinh kế, thoát nghèo,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 132/2002/QĐ-TTg và Quyết định
134/2004/QĐ-TTg về việc giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo. Nghiên cứu này sử dụng khảo sát hộ gia đình, một cách tiếp
cận định lượng, để khám phá tình hình đời sống kinh tế - xã hội của bà con sau
hơn mười năm được hỗ trợ đất sản xuất. Dữ liệu khảo sát hộ gia đình và dữ liệu
thứ cấp thu thập được từ chính quyền địa phương đã được phân tích để đánh
giá tác động của chương trình 132 và 134 đối với đời sống kinh tế - xã hội đồng
bào DTTS tại thành phố Pleiku dựa trên tiêu chuẩn nghèo đa chiều và xác định
thu nhập từ đất có đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giúp bà con tăng thu
nhập hay không. Qua nghiên cứu, xác định hơn 50% hộ dân tộc thiểu số vẫn
nằm trong diện nghèo. Quan trọng hơn, thu nhập từ làm thuê chứ không phải
thu nhập từ đất sản xuất đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giúp bà con
tăng thu nhập. Từ đó, nghiên cứu đề xuất Chính phủ, chính quyền địa phương
và các nhà nghiên cứu cần đánh giá toàn diện hiệu quả của các chương trình
hỗ trợ đất sản xuất đang thực hiện.
Từ khóa: Đất sản xuất, thu nhập, đồng bào dân tộc thiểu số, tiêu chuẩn nghèo đa
chiều, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ48
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G giảm tỷ lệ nghèo, việc hỗ trợ đất sản xuất cho
đồng bào DTTS vẫn còn tồn tại một số hạn chế,
vướng mắc; trong đó nổi bật có vấn đề diện
tích giao đất tối thiểu quá nhỏ để có thể đảm
bảo bà con thoát nghèo một cách bền vững
(Wells-dang, Tu, & Hong, 2016).
Tỉnh Gia Lai với dân số hơn 1,3 triệu người,
trong đó đồng bào DTTS chiếm khoảng 44,7%;
chủ yếu là 02 dân tộc thiểu số tại chỗ là Jrai và
Bahnar, tương ứng chiếm khoảng 30,7% và
12,4% dân số toàn tỉnh. Tổng kết năm 2011,
Chương trình 132 đã giải quyết đất ở cho 227
hộ với diện tích 25,43 ha; giải quyết đất sản xuất
cho 11.916 hộ với diện tích 3.895,14 ha, đạt
58,3% về diện tích và 76,8% về số hộ. Chương
trình 134 đã giải quyết đất ở cho 699 hộ với
diện tích 35,84 ha, đạt 100% về diện tích và
số hộ; giải quyết đất sản xuất cho 1.868 hộ với
diện tích 1.070,78 ha, đạt 77,83% về diện tích
và 74,84% về số hộ (Ủy ban nhân dân tỉnh Gia
Lai, 2012).
Vào năm 2003, thành phố Pleiku có 38 làng
đồng bào DTTS phân bố trên 12 xã/phường với
tổng số hộ là 4.254 và tổng số khẩu là 21.175.
Tổng diện tích đất sử dụng của đồng bào DTTS
là 960,70 ha với bình quân là 0,47 ha/hộ. Trong
đó, 777,077 ha đất nông nghiệp và 183,596
ha đất ở. Về tổng thể, thu nhập của đồng bào
DTTS chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, cụ thể
là trồng cây lương thực, các ngành nghề khác
hầu như không đáng kể và chưa phát triển
thành hàng hóa. Qua thống kê, tổng số hộ
thiếu đất là 2.056 hộ với tổng diện tích cần
phải giải quyết là 1.206 ha, gồm 12 ha đất ở
và 1.194 ha đất sản xuất (Phòng Tài nguyên
và Môi trường Thành phố Pleiku, 2009). Thực
hiện Quyết định 132 và 134, UBND thành phố
Pleiku đã giao đất cho tổng số 1.747 hộ với
tổng diện tích 133.67 ha, đạt 85% về số hộ
và 11,1% về diện tích; trong đó, diện tích đất
sản xuất cấp cho mỗi hộ từ 300m2 đến 900m2
(Phòng Tài nguyên và Môi trường Thành phố
Pleiku, 2009). Tuy nhiên, năm 2015, 1039 hộ tại
05 xã/phường Hoa Lư, Chư Á, Thắng Lợi, Tân
Sơn và Biển Hồ đã bị thu hồi đất để thực hiện
mở rộng quy hoạch khu công nghiệp Trà Đa.
Nghiên cứu này đã được tiến hành với 02
mục tiêu:
- Đánh giá tác động của chương trình 132
và 134 đối với đời sống kinh tế - xã hội đồng
bào DTTS tại thành phố Pleiku dựa trên tiêu
chuẩn nghèo đa chiều.
- Xác định tỷ lệ các nguồn thu nhập của
của bà con; từ đó xác định thu nhập từ đất có
đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giúp
bà con tăng thu nhập hay không.
2. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng khảo sát hộ gia đình
như là một phương pháp tiếp cận định lượng.
Phiếu khảo sát được thiết kế nhằm thu thập ý
kiến, thái độ từ các hộ đồng bào DTTS đã được
nhận hỗ trợ đất sản xuất từ chương trình 132
và 134. Nội dung phiếu khảo sát chủ yếu về đặc
điểm hộ gia đình, thông tin về nhà ở, diện tích
đất sản xuất, điều kiện sinh hoạt, sản xuất và
thực trạng thu nhập của bà con.
Mẫu nghiên cứu được lựa chọn theo
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Tổng số
mẫu là 70/1.747 hộ đồng bào dân tộc thiểu số
Jrai đã nhận hỗ trợ, được chia làm 02 nhóm:
không bị thu hồi đất sau khi được hỗ trợ (20
hộ, thuộc phường Yên Thế) và đã bị thu hồi đất
sau khi được hỗ trợ (50 hộ thuộc 04 xã phường,
gồm: Hoa Lư, Chư Á, Thắng Lợi và Biển Hồ). Số
liệu thu thập từ khảo sát hộ gia định được xử
lý bằng phần mềm SPSS.
Nghiên cứu cũng khai thác các dữ liệu
thứ cấp để bổ sung thu thập được từ khảo sát
hộ gia đình. Dữ liệu thứ cấp gồm báo cáo, số
liệu thống kê của UBND tỉnh Gia Lai, Phòng Tài
Nguyên – Môi Trường thành phố Pleiku, tỉnh Gia
Lai liên quan đến công tác hỗ trợ đất và thu hồi
đất có nguồn gốc từ chương trình 132 và 134.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 49
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
192.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành thu thập tài liệu thứ
cấp và sơ cấp trong thời gian 3 tháng từ tháng
12/2016 đến tháng 3/2017.
Địa bàn nghiên cứu là 05 xã/phường thuộc
thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, gồm: Hoa Lư, Chư
Á, Thắng Lợi, Biển Hồ và Yên Thế.
Pleiku là đô thị phía Bắc Tây Nguyên, nằm
trên trục giao thông giữa quốc lộ 14, quốc lộ
19 nối thông suốt cả nước, gần ngã ba Đông
Dương, nằm trên cung đường Hồ Chí Minh và
trong vùng tam giác tăng trưởng các tỉnh lân
cận, cũng như các quốc gia láng giềng như
Campuchia, Lào và là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa – xã hội của tỉnh Gia Lai. Thành
phố có tổng diện tích tự nhiên là 26.076,85 ha,
được chia thành 23 đơn vị hành chính gồm 14
phường, 09 xã với 254 thôn, làng, tổ dân phố,
trong đó có 43 làng đồng bào DTTS trên địa bàn
thành phố. Dân số gồm 55.634 hộ với 230.496
nhân khẩu, trong đó hộ đồng bào DTTS có 5.421
hộ với 24.403 nhân khẩu, chiếm đa số là dân tộc
Jrai và Bahnar (Phòng Tài nguyên và Môi trường
Thành phố Pleiku, 2016).
05 xã/phường thuộc địa bàn nghiên cứu
đều có làng đồng bào DTTS, đã được nhà nước
hỗ trợ đất sản xuất theo chương trình 132 và
134 nhưng đời sống còn nhiều khó khăn rất
hữu ích cho mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên, do
việc sử dụng ngôn ngữ khác nhau giữa nghiên
cứu viên và đối tượng tham gia, không nhiều
người dân tộc nói được tiếng Kinh nên phải có
sự hỗ trợ phiên dịch của người địa phương. Đây
là một thách thức đối với nghiên cứu viên khi
muốn lấy thông tin chính xác từ người tham
gia khảo sát.
3. Kết quả và thảo luận
Sử dụng các tiêu chí tiếp cận đo lường
nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-
2020, ban hành kèm theo Quyết định 59/2015/
QĐ-TTg, nghiên cứu đã tiến hành khảo sát tình
hình đời sống kinh tế - xã hội đồng bào DTTS tại
thành phố Pleiku nhằm đánh giá tác động của
chương trình 132 và 134, đồng thời xác định
thu nhập từ đất sản xuất có đóng vai trò quan
trong trong việc giúp bà con tăng thu nhập,
thoát nghèo hay không.
3.1. Kết quả khảo sát
3.1.1. Về trình độ giáo dục
Biểu đồ 1 và 2 xác định có sự chênh lệch
về trình độ học vấn giữa đồng bào DTTS thuộc
xã không bị thu hồi đất và xã bị thu hồi đất.
Tỷ lệ dân số có trình độ THPT tại xã không thu
hồi đất cao hơn 2,4 lần so với xã bị thu hồi đất,
tương ứng là 23% và 09%. Trình độ nhân khẩu
ở bậc tiểu học và THCS ở cả hai dạng xã chiếm
tỷ lệ phần trăm nhiều nhất. Tuy nhiên, mức khác
biệt lại không lớn, chỉ ở mức chênh lệch là 01%.
Đáng chú ý, nhóm xã bị thu hồi đất có số lượng
người với trình độ trung cấp, cao đẳng và đại
học cao hơn xã không thu hồi ở mức 09%.
Biểu đồ 3: Chỉ số phi thu nhập của các hộ đồng bào DTTS
Kết quả khảo sát cho thấy đồng bào DTTS
tại các xã bị thu hồi đất có các chỉ số phi thu
nhập thấp hơn đồng bào DTTS tại xã không bị
thu hồi đất. Nhìn chung, mức độ tiếp cận thông
tin của đồng bào DTTS ở cả 02 dạng xã chưa
cao, chỉ có hơn 50% dân số đáp ứng được tiêu
3.1.2. Về các chỉ số phi thu nhập
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ50
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
Biểu đồ 4: Chỉ số tiếp cận y tế
Về điều kiện nhà ở, tại thời điểm khảo sát,
gần 100% hộ dân đồng bào DTTS có nhà riêng,
tỷ lệ hộ dân sống chung với hộ khác chiếm tỷ
lệ không đáng kể. Diện tích nhà ở trung bình
của mỗi hộ trên 55m2. Có đường tiếp cận dao
động từ 2.5m đến 5m chiếm khoảng 82%. Tuy
nhiên, loại nhà ở mà các mà đồng bào DTTS
sinh sống rơi vào loại nhà bán kiên cố, nhà
vách gỗ tôn, mái lợp tôn hoặc nhà tạm, đây là
những loại nhà ở được xếp vào tiêu chí đánh
giá chuẩn nghèo đa chiều theo Quyết định
59/2015/QĐ-TTg. Theo Biểu đồ 5, ranh giới giữa
Biểu đồ 5: Đặc điểm nhà ở của các hộ đồng bào DTTS
Tính theo diện tích nhà ở bình quân đầu
người thì có đến 14% hộ gia đình tại nhóm xã
bị thu hồi đất có diện tích dưới 8m2, đối với xã
không bị thu hồi đất thì 35% hộ có diện tích
dưới 8m2. Điều đó chứng tỏ nhu cầu về nhà ở
cơ bản của các hộ dân được đáp ứng 50% dân
số, thoát khỏi tiêu chuẩn ngưỡng nghèo mà
Quyết định 59/2015/QĐ-TTg xác định.
3.1.3. Về chỉ tiêu thu nhập
Theo kết quả khảo sát, thu nhập của đồng
bào DTTS tại thành phố Pleiku chủ yếu đến từ
03 nguồn chính, gồm: trồng trọt, chăn nuôi, và
làm thuê. Trong đó, thu nhập từ hoạt động làm
thuê ảnh hưởng trực tiếp đến mức thu nhập
bình quân theo đầu người của bà con.
Dựa vào Biểu đồ 6, thu nhập từ hoạt động
làm thuê chiếm 62% tổng thu nhập của các hộ
đồng bào DTTS tham gia khảo sát, cao gần gấp
03 lần thu nhập từ đất sản xuất và 05 lần thu
nhập từ chăn nuôi. Đồng nghĩa, làm thuê là yếu
tố tác động mạnh nhất đến mức độ tăng thu
nhập của bà con, sau đó tương ứng là 02 yếu
tố sản xuất và chăn nuôi.
Qua phân tích hệ số tương quan, kết quả
cho thấy chỉ số tương quan của các nguồn thu
nhập của nhóm xã bị thu hồi đất và xã không bị
thu hồi đất - Yên Thế đều có chỉ số tương quan
< 5% . Điều này chứng tỏ các nguồn thu nhập
đến từ các hoạt động chăn nuôi, trồng trọt và
làm thuê đều có mối liên hệ tương quan với
chỉ số tổng thu nhập hay thu nhập bình quân.
Trong đó, thu nhập từ hoạt động làm thuê có
chí này. Đối với xã bị thu hồi đất sản xuất sau hỗ
trợ, chỉ có 48% hộ dân có điện thoại di động và
50% hộ có tivi. Con số này thấp hơn gần 1/2 so
với xã không bị thu hồi đất. Tuy nhiên, về chỉ số
máy tính, chỉ có 5% hộ dân thuộc xã không bị
thu hồi đất đạt được tiêu chí này, trong khi đó
tỷ lệ này ở xã bị thu hồi đất là 40%.
Căn cứ Biểu đồ 3, đa số hộ đồng bào DTTS
tham gia khảo sát đáp ứng được các điều kiện
về điện sinh hoạt, nước sinh hoạt và nhà vệ sinh.
Đây là 03 trong 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu
hụt các dịch vụ xã hội cơ bản theo Quyết định
59/2015/QĐ-TTg. Cụ thể, 100% hộ tham gia
khảo sát có điện sinh hoạt, từ 76% đến 85% hộ
có nhà vệ sinh khả dĩ và trên 80% hộ có nước
sạch để sinh hoạt hàng ngày.
Qua khảo sát chỉ số tiếp cận y tế - Biểu đồ
4, kết quả hầu hết các hộ đồng bào DTTS tham
gia khảo sát vẫn chưa được đảm bảo về tiêu chí
này. Tỷ lệ người có BHYT ở cả 02 dạng xã bị thu
hồi đất và không bị thu hồi đất sau hỗ trợ là khá
thấp, tương ứng 14,7% và 4%.
việc thoát nghèo và nghèo của đồng bào là rất
sát nhau khi hơn 50% hộ đồng bào vẫn đang ở
nhà không kiên cố.
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 51
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
19chỉ số tương quan thấp nhất (0.000), xác định
làm thuê là hoạt động có mối quan hệ lớn nhất
so với tổng nguồn thu nhập và thu nhập bình
quân (xem Bảng 1 và 2).
Bảng 1: Hệ số tương quan giữa thu nhập
làm thuê với tổng thu nhập tại 04 xã bị thu
hồi đất
Thu nhập từ làm thuê Tổng thu nhập
Thu nhập
từ làm thuê
Pearson Correlation 1 .560**
Sig. (2-tailed) .000
Sum of Squares and Cross-products 11561194412820000.000 12047776140991936.000
Covariance 235942743118775.500 245872982469223.200
N 50 50
Tổng thu nhập
Pearson Correlation .560** 1
Sig. (2-tailed) .000
Sum of Squares and Cross-products 12047776140991936.000 40068713544422360.000
Covariance 245872982469223.200 817728847845354.200
N 50 50
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Bảng 2: Hệ số tương quan giữa thu nhập
làm thuê với tổng thu nhập tại xã Yên Thế
Thu nhập từ làm thuê Tổng thu nhập
Thu nhập
từ làm thuê
Pearson Correlation 1 .798**
Sig. (2-tailed) .000
Sum of Squares and Cross-products 4789471680000000.000 5471903771712000.000
Covariance 252077456842105.250 287994935353263.200
N 20 20
Tổng thu nhập
Pearson Correlation .798** 1
Sig. (2-tailed) .000
Sum of Squares and Cross-products 5471903771712000.000 9823508079172238.000
Covariance 287994935353263.200 517026741009065.200
N 20 20
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Khảo sát mức độ nghèo của đồng bào
DTTS dựa vào chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu
người (Thủ tướng Chính Phủ, 2015), tại các xã bị
thu hồi đất, có đến 24% số hộ có thu nhập bình
quân dưới 900.000 đồng và 38% hộ có mức thu
nhập từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng đáp
ứng từ 03 chỉ số về mức đo lường thiếu hụt tiếp
cận dịch vụ cơ bản trở lên. Đối với xã không bị
thu hồi đất thì 10% hộ có thu nhập bình quân
dưới 900.000 đồng trở xuống và 35% hộ có mức
thu nhập từ 900.000 đồng – 1.300.000 đồng đáp
ứng từ 03 tiêu chí về mức đo lường thiếu hụt
tiếp cận dịch vụ cơ bản trở lên.
3.2. Thảo luận
3.2.1. Tác động của chương trình 132 và 134
lên đời sống đồng bào DTTS
Về cơ bản, chương trình 132 và 134 đã góp
phần cải thiện đời sống kinh tế - xã hội của đồng
bào DTTS nghèo thành phố Pleiku. Điều này
được chứng minh qua chỉ tiêu về trình độ học
vấn và các chỉ tiêu phi thu nhập khác. Gần 80%
nhân khẩu của các hộ tham gia phỏng vấn được
đi học, trong đó gần 50% có trình độ từ trung
học cơ sở trở lên. 100% hộ có điện sinh hoạt,
từ 76% đến 85% hộ có nhà vệ sinh đạt chuẩn
và trên 80% hộ có nước sạch để sinh hoạt hàng
ngày. Về nhà ở, gần 100% hộ gia đình tham gia
khảo sát có nhà riêng, trong đó 6% có nhà kiên
cố và khoảng 50% có nhà bán kiên cố.
Tuy nhiên, xét tổng quan trên tất cả các
tiêu chí thì tỷ lệ hộ DTTS nghèo tại Pleiku vẫn
ở mức cao, thể hiện ở các chỉ tiêu về mức độ
tiếp cận y tế, tình trạng nhà ở và thu nhập
bình quân đầu người. Chỉ khoảng 09% số nhân
khẩu thuộc các hộ tham gia khảo sát có BHYT,
khoảng 44% số hộ vẫn còn sinh sống trong
các ngôi nhà chưa kiên cố hoặc nhà tạm. Về chỉ
tiêu thu nhập, khoảng 24% số hộ tại nhóm xã
bị thu hồi đất và 10% số hộ tại xã không bị thu
hồi đất có thu nhập bình quân dưới 900.000
đồng. 38% số hộ tại xã bị thu hồi đất và 35% số
hộ tại xã không bị thu hồi đất có thu nhập bình
quân từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và
thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu
hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Như vậy, mức độ giảm nghèo sau 10 năm thực
hiện chương trình 132 và 134 còn thấp, chưa
đạt được mục tiêu đề ra.
3.2.2. Tỷ lệ các nguồn thu nhập của đồng
bào DTTS
Kết quả nghiên cứu xác định 62% thu nhập
của bà con từ hoạt động làm thuê, thu nhập từ
trồng trọt và chăn nuôi chiếm tỷ lệ tương ứng
26% và 12%. Đồng thời với chỉ số tương quan
thấp nhất (0.000) khi phân tích tương quan giữa
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ52
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G thu nhập làm thuê với tổng thu nhập, chúng
tôi có thể khẳng định đất sản xuất hiện không
đóng vai trò quan trọng trong việc giúp bà
con tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và thoát
nghèo bền vững như mục tiêu Chương trình
132 và 134 đặt ra. Có thể tồn tại nhiều nguyên
nhân dẫn đến vấn đề này mà trong phạm vi
nghiên cứu này, chúng tôi chưa thể làm rõ. Tuy
nhiên, rõ ràng rằng việc thu hồi đất đối với đất
sản xuất đã được hỗ trợ và diện tích đất sản xuất
cấp cho mỗi hộ quá ít, chỉ từ 300m2 đến 900m2
là nguyên nhân của vấn đề đất đai không thể
trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của các hộ
đồng bào DTTS. Đây cũng chính là một trong
những hạn chế mà (Wells-dang et al., 2016) đã
đưa ra phân tích, đánh giá.
4. Kết luận
Sau hơn 10 năm thực hiện Chương trình
132 và 134 tại TP. Pleiku, đời sống đồng bào
DTTS đã có một số thay đổi tích cực về trình
độ học vấn, điều kiện điện nước sinh hoạt cũng
như tình trạng nhà ở. Tuy nhiên, có đến 62%
hộ tại nhóm xã bị thu hồi đất và 45% hộ tại xã
không bị thu hồi đất vẫn còn rơi vào ngưỡng
nghèo nếu đánh giá theo các tiêu chí tiếp cận
đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016-2020 ban hành kèm theo Quyết định
59/2015/QĐ-TTg. Quan trọng hơn, thu nhập từ
làm thuê chứ không phải thu nhập từ đất sản
xuất đóng vai trò quan trọng trong việc giúp bà
con tăng thu nhập. Hiện trạng này đặt ra yêu
cầu đối với Chính phủ, chính quyền địa phương
và các nhà nghiên cứu cần đánh giá toàn diện
hiệu quả của các chương trình hỗ trợ đất sản
xuất đang thực hiện và tìm ra phương án hỗ trợ
sinh kế cho bà con theo hướng dạy nghề, tạo
việc làm để bà con ổn định cuộc sống, thoát
nghèo bền vững./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nghị quyết
số 24-NQ/TW ngày 12 tháng 03 năm 2003 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về công tác dân tộc.
2. Bộ Chính Trị. Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày
27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương,
chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi (1989).
3. Phòng Tài nguyên và Môi trường Thành phố
Pleiku. (2009). Kết quả thực hiện công tác giải quyết đất
sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số theo
Chương trình 132, 134 trên thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
4. Phòng Tài nguyên và Môi trường Thành phố
Pleiku. (2016). Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn
thành phố Pleiku giai đoạn 2013 - 2016.
5. Thủ tướng Chính Phủ. Quyết định số 134/2004/
QĐ-TTg ngày 20/7/2004 về một số chính sách hỗ trợ đất
sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, Pub.
L. No. Quyết định 134/2004.
6. Thủ tướng Chính Phủ. Quyết định 132/2002/
QĐ-TTg giải quyết đất sản xuất, đất ở cho đồng bào dân
tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên (2002). Retrieved from
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/
Quyet-dinh-132-2002-QD-TTg-giai-quyet-dat-san-
xuat-dat-o-cho-dong-bao-dan-toc-thieu-so-tai-cho-
o-Tay-Nguyen-50050.aspx
7. Thủ tướng Chính Phủ. Quyết định số 59/2015/
QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng
Chính Phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận
đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, Pub. L.
No. Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng
11 năm 2015 của Thủ tướng Chính Phủ về việc ban
hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho
giai đoạn 2016-2020, 1 Statewide Agricultural Land
Use Baseline 2015 (2015). https://doi.org/10.1017/
CBO9781107415324.004
8. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai. (2012). Báo cáo
số 100/BC-UBND ngày 09/7/2012 của UBND tỉnh Gia Lai
về việc thực hiện chính sách pháp luật về đất ở, đất sản
xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số từ năm 2002 - 2011.
9. Viện Chính sách, C. lược P. triển N. nghiệp N.
thôn (IPSARD) và V. D. tộc. (2012). Nghiên cứu thực trạng
và đề xuất chính sách quản lý và sử dụng đất vùng dân
tộc miền núi.
10. Wells-dang, A., Tu, P. Q., & Hong, N. G. O. V. A.
N. (2016). ETHNIC MINORITY LAND TENURE SECURITY IN
VIETNAM Oxfam in Vietnam and Centre for Indigenous
Knowledge Research and Development, Vietnam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16_613_2207522.pdf