Tài liệu Tính hấp thụ ánh sáng của các Plasmonic Nano Anten có cấu trúc hình học khác nhau - Nguyễn Thị Thanh Kiều: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8(33) - Thaùng 10/2015
57
Tính hấp thụ ánh sáng của các Plasmonic Nano Anten
có cấu trúc hình học khác nhau
Optical absorption characteristics of plasmonic nano anten with different
geometries
1
CN. Nguyễn Thị Thanh Kiều, 2 ThS. Hứa Thị Hoàng Yến, 3 ThS. Huỳnh Văn Tuấn,
123 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQG TP.HCM
4
TS. Nguyễn Trương Khang
4 Trường Đại học Tôn Đức Thắng
1
B.A. Nguyen Thi Thanh Kieu,
2
M.Sc. Hua Thi Hoang Yen,
3
M.Sc. Huynh Van Tuan,
123
The University of Science – National University Ho Chi Minh City
4
Ph.D. Nguyen Truong Khang
4
Ton Duc Thang University
Tóm tắt
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày tính chất cộng hưởng ánh sáng của các lưỡng cực plasmonic
nano anten với các dạng hình học khác nhau, đó là cấu trúc hình chữ nhật (rectangular), hình vuông
(square), và hình tròn (circular). Phổ hấp thụ và phản xạ của từng cấu trúc nano anten được khảo sát và
tối ưu hó...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 543 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính hấp thụ ánh sáng của các Plasmonic Nano Anten có cấu trúc hình học khác nhau - Nguyễn Thị Thanh Kiều, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8(33) - Thaùng 10/2015
57
Tính hấp thụ ánh sáng của các Plasmonic Nano Anten
có cấu trúc hình học khác nhau
Optical absorption characteristics of plasmonic nano anten with different
geometries
1
CN. Nguyễn Thị Thanh Kiều, 2 ThS. Hứa Thị Hoàng Yến, 3 ThS. Huỳnh Văn Tuấn,
123 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQG TP.HCM
4
TS. Nguyễn Trương Khang
4 Trường Đại học Tôn Đức Thắng
1
B.A. Nguyen Thi Thanh Kieu,
2
M.Sc. Hua Thi Hoang Yen,
3
M.Sc. Huynh Van Tuan,
123
The University of Science – National University Ho Chi Minh City
4
Ph.D. Nguyen Truong Khang
4
Ton Duc Thang University
Tóm tắt
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày tính chất cộng hưởng ánh sáng của các lưỡng cực plasmonic
nano anten với các dạng hình học khác nhau, đó là cấu trúc hình chữ nhật (rectangular), hình vuông
(square), và hình tròn (circular). Phổ hấp thụ và phản xạ của từng cấu trúc nano anten được khảo sát và
tối ưu hóa tại tần số 375THz, tương ứng với bước sóng 800nm của nguồn kích thích. Kết quả mô phỏng
cho thấy, cấu trúc hình tròn cho độ tập trung và giam hãm điện trường tại vùng kích thích cao nhất,
đồng thời cho hệ số phản xạ và phát xạ trường xa tốt nhất, trong sự so sánh giữa các cấu trúc. Nghiên
cứu này hữu ích cho các nhà thiết kế trong việc lựa chọn các cấu trúc lưỡng cực plasmonic nano anten
thích hợp khi muốn kết hợp với anten quang dẫn nhằm tăng hiệu suất trong hệ thu/phát sóng Terahertz.
Từ khóa: hiện tượng cộng hưởng plamon bề mặt, nano anten, sự hấp thụ, sự phản xạ, phát xạ trường
xa
Abstract
In this paper, we investigate the optical absorption characteristics of plasmonic dipole nano antenna
with different geometries; they are rectangular dipole, square dipole, and circular dipole. Absorption
and reflection profile of each nano antenna are characterized and optimized at the resonance frequency
of 375 THz, which corresponding to the wavelength of the incident light at 800 nm. Numerical results
show that the circular nano antenna produces the most enhanced electric field at the excitation gap in
addition with the best reflection and far-field radiation characteristics.
This research is useful for the researcher and designer in chossing appropriate plasmonic dipole nano
antennas when incorporating with a photoconductive antenna for terahertz radiation enhancement.
Keywords: surface plasmon resonance, nano-antenna, absorption, reflection, far-field radiation
58
1. Mở đầu
Hiệu ứng giam cầm lượng tử trong các
vật liệu kích thước nanomet khiến cho vật
liệu có các tính chất đặc biệt như hiệu ứng
bề mặt, hiệu ứng kích thước, hiệu ứng cộng
hưởng plasmon Khi các điện tử tự do
trong cấu trúc nano (nanostructure) hấp thụ
ánh sáng chiếu vào dẫn đến hiện tượng
được gọi là hiện tượng cộng hưởng
plasmon bề mặt định xứ (LSPR- Localized
surface plasmon resonance) [1], [2], [3],
[4]. Dưới tác dụng của điện từ trường bên
ngoài như ánh sáng sẽ dẫn đến sự dao động
tập thể của các điện tử tự do, và theo đó
dẫn đến sự phân cực của các hạt nano
thành một lưỡng cực điện. Tần số cộng
hưởng của lưỡng cực này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như hình dáng và độ lớn của
cấu trúc nano, lớp vật liệu đế, hay độ phân
cực của ánh sáng kích thích.
Au
SiO2
Au Au
Side View
Tgold
g
T
x
z
y
g
LR
WR
Top View
SiO2x
y
z
(a) (b)
g
LS
WS
Top View
SiO2x
y
z
g
Top View
SiO2
LC
DC
x
y
z
(c) (d)
Hình 1. (a) Sơ đồ mặt cắt của các plasmonic nano anten; Plasmonic nano anten: (b)
hình chữ nhật (Rectangular); (c) hình vuông (Square); (d) hình tròn (Circular).
Plasmonic nano anten là một loại
anten có kích thước nanomet, do đó nó thể
hiện được các đặc tính đặc biệt của một cấu
trúc nano. Một số nghiên cứu mới đây đã
công bố các ứng dụng của plasmonic nano
anten như các bộ thu quang (photodetectors)
[5], diode phát quang [6], [7], các tấm pin
năng lượng mặt trời [8], SERS (Surface
Raman Scattering) [9], cảm biến sinh học
(biosensing) [10], hoặc sử dụng plasmonic
nano anten trong anten quang dẫn để tăng
cường công suất bức xạ Terahertz (THz)
59
[11], [12], [13]. Nhờ hiện tượng cộng
hưởng plasmon bề mặc định xứ (LSPR),
mỗi cấu trúc hình học của nano anten có sự
hấp thụ ánh sáng khác nhau. Để có được sự
hấp thụ ánh sáng tới tốt nhất đòi hỏi phải
lựa chọn một cấu trúc nano anten có kích
thước phù hợp. Hơn nữa, hiệu suất hoạt
động của anten sẽ là tốt nhất khi tần số
cộng hưởng của chúng gần với tần số
nguồn kích thích. Cấu trúc truyền thống
như hình chữ nhật được quan tâm rất nhiều
[14]. Tuy nhiên, khi nghiên cứu và kiểm tra
thực nghiệm về các nano anten này các nhà
nghiên cứu chỉ quan tâm đến những kích
thước có thể chế tạo được mà thiếu bước
khảo sát kích thước nào tốt hơn để đưa vào
thực tế. Trong bài báo này, chúng tôi sẽ
thực hiện bước thiếu đó và tập trung
nghiên cứu, khảo sát đặc tính hấp thụ của
các plasmonic nano anten có các cấu trúc
hình học khác nhau, đó là cấu trúc hình chữ
nhật, hình vuông và hình tròn. Tất cả các
cấu trúc được kích thích bằng ánh sáng tới
có bước sóng 800nm (ứng với tần số
375THz), là bước sóng chuẩn của chùm
ánh sáng được sử dụng trong SERS
(Surface Enhanced Raman Scattering). Kết
quả mô phỏng bằng cách sử dụng phần
mềm mô phỏng CST MWS [15] cho thấy
cấu trúc hình tròn cho khả năng giam hãm
điện trường tới, đồng thời cho đồ thị phát
xạ trường xa tốt nhất so với các cấu trúc
còn lại.
2. Các cấu trúc hình học của
plasmonic nano anten
SiO2
Au
Vacuum
Plane
wave
Nanoantenna
(Au)
e
h
Probe
Vacuum
x
y
z
SiO2
Au
Vacuum
Waveguide
Port 1
Nanoantenna
(Au)
1
2
Waveguide
Port 2
Vacuum
x
y
z
PC
(a) (b)
Hình 2. Mô hình mô phỏng dùng để; a) quan sát điện trường giam hãm tại vùng kích thích;
b) tính hệ số phản xạ của một mảng vô hạn hai chiều.
Hình 1 biểu diễn mặt cắt ngang (side
view) và cấu trúc hình học của ba cấu trúc
nano anten nhìn từ phía trên (top view)
gồm có: cấu trúc hình chữ nhật
(rectangular), cấu trúc hình vuông (square),
và cấu trúc hình tròn (circular). Hình 1a
biểu diễn mặt cắt ngang của cấu trúc nano
anten, cả ba cấu trúc nano anten được chế
tạo từ vàng (Au) có bề dày là Tgold, các cấu
trúc được ngăn cách với lớp đế vàng (Au)
bởi một lớp bán dẫn loại SiO2 có bề dày
được ký hiệu chung là T, khoảng cách
60
vùng kích thích (gap) nằm ở giữa hai điện
cực của cả ba cấu trúc được ký hiệu là g.
Hình 1b, 1c, và 1d biểu diễn cấu trúc hình
học của nano anten hình chữ nhật, hình
vuông, và hình tròn tương ứng, trong đó
chiều rộng và tổng chiều dài của cấu trúc
nano anten hình chữ nhật được ký hiệu là
WR và LR. Chiều rộng và tổng chiều dài của
cấu trúc nano anten hình vuông được ký
hiệu là WS và LS. Đường kính và tổng chiều
dài của cấu trúc nano anten hình tròn được
ký hiệu là DC và LC. Bề dày lớp SiO2 của
cấu trúc hình chữ nhật, hình vuông, và hình
tròn lần lượt được ký hiệu là TR, TS, và TC.
Trong một mảng vô hạn, các nano anten
của cả ba cấu trúc cách nhau một khoảng
được ký hiệu là PR, PS, và PC tương ứng
với cấu trúc hình chữ nhật, hình vuông, và
hình tròn. Các thông số thiết kế của cả ba
cấu trúc nano anten sau khi tối ưu hóa tại
vùng tần số 375THz như sau: cấu trúc hình
chữ nhật (WR = 35nm, LR = 174nm, TR =
100nm, và PR = 550nm); cấu trúc hình
vuông (WS = 78nm, LS =166nm, TS =
40nm, và PS = 600nm); cấu trúc hình tròn
(DC = 94nm, LC = 198nm, TC = 60nm, và
PC = 590nm); trong đó g = 10nm và Tgold =
25nm chung cho cả ba cấu trúc.
3. Mô phỏng bằng phần mềm CST MWS
200 250 300 350 400 450 500
-120
-90
-60
-30
0
30
'
''
Frequency (THz)
'
-60
-48
-36
-24
-12
0
12
''
200 250 300 350 400 450 500
2.0
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
'
''
Frequency (THz)
'
0.0
1.0x10
-6
2.0x10
-6
3.0x10
-6
4.0x10
-6
5.0x10
-6
''
(a) (b)
Hình 3. Đồ thị điện tử tán xạ (electric dispersion curves) của (a) vàng (Au) và (b) SiO2
trong dải tần số từ 200 THz đến 500THz.
Trong bài báo này, phần mềm CST
MWS (CST Microwave Studio) [15]
được sử dụng để mô phỏng các đặc tính
của các cấu trúc nano anten. Hình 2a
biểu diễn mô hình tính toán đặc tính
hấp thụ năng lượng của nano anten,
trong đó nguồn kích thích được sử dụng
là sóng ánh sáng phẳng (plane wave)
chiếu từ trên xuống, cường độ điện
trường của ánh sáng kích thích này
được đặt ban đầu là 1V/m và được phân
cực dọc theo trục chính (trục x) của các
nano anten. Một đầu dò (probe) được
đặt tại giữa hai điện cực của nano anten
(vùng kích thích) để thu năng lượng và
thể hiện tính chất giam hãm điện trường
tăng cường của cấu trúc. Mô hình này
cũng cho phép ta quan sát đồ thị phát xạ
trường xa của nano anten. Đặc tính
phản xạ của nano anten với cấu trúc
61
mảng hai chiều vô hạn được mô phỏng
bằng cách sử dụng mô hình ống dẫn
sóng hai cổng như mô tả trong hình 2b.
Trong mô hình này, hai điều kiện biên
điện trường và từ trường lần lượt được
áp vào dọc theo hướng ±x và ±y nhằm
mô phỏng sự truyền sóng theo hướng
chuẩn vuông góc trong mô hình ống
dẫn sóng này. Hình 3 biểu diễn đồ thị
điện tử tán xạ (electric dispersion
curves) của vật liệu vàng (Au) và SiO2
tại vùng tần số khảo sát từ 200THz đến
500THz. Mô hình tán xạ của vật liệu
vàng và SiO2 này được xác định trong
thư viện vật liệu của CST MWS và
được so khớp với các giá trị thực
nghiệm đã được công bố bởi các nhóm
nghiên cứu khác.
4. Kết quả và thảo luận
250 300 350 400
0
30
60
90
120
E
-f
ie
ld
(
V
/m
)
Frequency (THz)
Rectangular
Reference [14]
250 300 350 400
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
R
e
fl
e
c
ti
o
n
c
o
e
ff
ic
ie
n
t
Frequency (THz)
Rectangular
Reference [14]
(a) (b)
(c)
Hình 4. (a)-(b) Kết quả mô phỏng về phổ
năng lượng hấp thụ và kết quả mô phỏng phổ
phản xạ của cấu trúc hình chữ nhật tham
chiếu [14] và cấu trúc hình chữ nhật có các
thông số thay đổi để tối ưu hóa hiệu suất hấp
thụ tại 375 THz; c) kết quả thực nghiệm về
phổ phản xạ của mảng nano anten hình chữ
nhật khi thay đổi TSiO2 trong [14].
62
7 8 9 10 11 12
350
360
370
380
390
400
F
peak
E
peak
g (nm)
F
p
e
a
k
(
T
H
z
)
100
130
160
190
E
p
ea
k (V
/m
)
20 40 60 80 100
350
360
370
380
390
400
F
peak
E
peak
T
C
(nm)
F
p
ea
k
(
T
H
z)
100
110
120
130
E
p
ea
k (V
/m
)
(a) (b)
182 190 198 206 214
350
360
370
380
390
400
F
peak
E
peak
L
C
(nm)
F
p
e
a
k
100
110
120
130
E
p
ea
k
550 570 590 610 630
350
360
370
380
390
400
F
peak
E
peak
P
C
(nm)
F
p
e
a
k
(
T
H
z
)
100
110
120
130
E
p
e
a
k (V
/m
)
(c) (d)
Hình 5. Khảo sát tần số cộng hưởng Fpeak và điện trường giam hãm tại vùng kích thích
Epeak tương ứng khi thay đổi các thông số thiết kế của nano anten hình tròn; (a) kích thước
vùng kích thích g, (b) độ dày TC của lớp bán dẫn SiO2, (c) tổng chiều dài LC, (d) khoảng
cách PC giữa các nano anten đơn vị trong mảng vô hạn.
Đối với cấu trúc hình chữ nhật, đã có
nhiều nhóm nghiên cứu về cấu trúc này,
điển hình như nhóm nghiên cứu của T. J.
Seok cùng cộng sự đã chứng minh thực
nghiệm [14]. Trong cấu trúc tham chiếu
này, chiều rộng và tổng chiều dài của nano
anten là 45nm và 260nm, bề dày lớp kim
loại vàng của cấu trúc là 25nm, kích thước
vùng kích thích (gap) là 15nm, bề dày lớp
bán dẫn SiO2 là 60nm, và khoảng cách
giữa các nano anten trong mảng vô hạn là
600nm. Dưới sự kích thích của ánh sáng
tới có bước sóng 800nm, cấu trúc này thu
được đỉnh phổ năng lượng 85,6V/m tại tần
số cộng hưởng khoảng 320THz, cách khá
xa tần số cộng hưởng của ánh sáng kích
thích (375THz). Vì vậy, từ cấu trúc trên
chúng tôi tìm cách đưa đỉnh phổ năng
lượng về tần số 375THz bằng cách thay đổi
các thông số của cấu trúc. Kết quả chúng
63
320 340 360 380 400 420
0
40
80
120
160
E
-f
ie
ld
(
V
/m
)
Frequency (THz)
Rectangular
Square
Circular
320 340 360 380 400 420
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
R
e
fl
e
c
ti
o
n
c
o
e
ff
ic
ie
n
t
Frequency (THz)
Rectangular
Square
Circular
(a) (b)
Hình 6. a) Điện trường giam hãm tại vùng kích thích theo hàm tần số và (b) hệ số phản xạ
theo hàm tần số của ba cấu trúc: hình chữ nhật (Rectangular), hình vuông (Square) và hình
tròn (Circular).
tôi thu được đỉnh phổ năng lượng cao nhất
khoảng 110,3V/m tại tần số cộng hưởng
374,9THz được biểu diễn ở hình 4a, trong
đó các thông số hình học của cấu trúc thay
đổi tương ứng gồm chiều rộng (WR) và
tổng chiều dài (LR) của nano anten là 35nm
và 174 nm tương ứng, bề dày lớp kim loại
(Tgold) của cấu trúc là 25nm, kích thước
vùng kích thích (g) là 10nm, bề dày lớp
bán dẫn SiO2 là 100nm, và khoảng cách
giữa các nano anten trong mảng vô hạn là
550nm. Như vậy, sau khi thay đổi các
thông số chúng tôi thu được đỉnh phổ năng
lượng cao hơn đỉnh phổ năng lượng của
cấu trúc hình chữ nhật do T. J. Seok cùng
cộng sự thực hiện [14], trong đó tần số
cộng hưởng thu được tương ứng 374,9THz
gần với tần số của nguồn kích thích
(375THz). Hình 4b chứng tỏ hệ số phản xạ
của cấu trúc trong [14] nhỏ hơn hệ số phản
xạ của cấu trúc hình chữ nhật đã được tối
ưu, tuy nhiên tần số cộng hưởng tương ứng
lại cách xa so với tần số của ánh sáng kích
thích. Hình 4c là kết quả thực nghiệm do T.
J. Seok cùng cộng sự thực hiện, so với kết
quả mô phỏng tần số cộng hưởng trong
thực nghiệm khoảng xấp xỉ 345THz (tức
là λ=870nm, trường hợp 60nm SiO2), trong
đó độ phản xạ (khoảng 0,45) lớn hơn nhiều
so với mô phỏng (khoảng 0,02). Điều này
có thể được giải thích do các điều kiện sử
dụng trong mô phỏng là lý tưởng, còn
trong thực nghiệm có thể do nhiều yếu tố
ảnh hưởng như vật liệu chế tạo, hệ đo, điều
kiện môi trường xung quanh, khiến cho
độ phản xạ thực nghiệm không tốt bằng độ
phản xạ mô phỏng. Kết quả ban đầu này
cho chúng tôi rút ra hai điều. Một là, khẳng
định tính đúng đắn của mô hình mô phỏng
qua sự so sánh tần số đỉnh phổ hấp thụ
trong mô phỏng, và tần số cộng hưởng
trong thực nghiệm được trình bày trong
hình 4c. Hai là, bằng cách khảo sát và tối
ưu hóa dạng hình học của nano anten, ta có
thể tăng hiệu suất hấp thụ tại tần số cộng
hưởng mong muốn. Trong ba cấu trúc nano
anten được khảo sát, chúng tôi chọn cấu
trúc hình tròn để trình bày hồi đáp của
64
anten theo tần số khi thay đổi các thông số
thiết kế, hai cấu trúc còn lại khảo sát tương
tự. Chúng tôi tiến hành khảo sát cấu trúc
hình tròn bằng cách thay đổi các thông số
như g, TC, LC, và PC để được cấu trúc tốt
nhất. Hình 5a cho thấy, thông số khoảng
cách vùng kích thích g ảnh hưởng rất nhiều
đến điện trường giam hãm tại tần số cộng
hưởng Epeak. Khi khoảng cách vùng kích
thích này càng bị thu hẹp, tần số cộng
hưởng Fpeak càng giảm, nhưng điện trường
giam hãm tại vùng kích thích Epeak tăng lên
đáng kể. Điều này cho thấy, ta có thể tăng
độ giam hãm điện trường lên đáng kể nếu
có thể thu hẹp khoảng cách vùng kích thích
này, ví dụ như Epeak có thể đạt đến gần
400V/m khi g giảm xuống đến 7nm. Trong
cấu trúc tối ưu hóa, chúng tôi chọn g =
10nm vì hai lý do sau: thứ nhất, khoảng
cách g = 10nm cho Epeak tối đa tại tần số
cộng hưởng gần với tần số sóng tới
(375THz) nhất. Thứ hai, nếu g quá nhỏ sẽ
gây khó khăn nhiều trong quá trình chế tạo,
chẳng hạn như gây ra hiện tượng ngắn
mạch giữa 2 điện cực và như thế giảm hiệu
suất tổng của cả mảng. Hình 5b cho thấy
khi độ dày TC của lớp bán dẫn SiO2 thay
đổi, cả Fpeak và Epeak đều thay đổi đáng kể,
và thể hiện tính cộng hưởng. Cụ thể, khi TC
tăng từ 20nm đến 100nm với bước tăng là
20nm, Fpeak tăng nhưng sau đó giảm, và
tương tự Epeak tăng nhưng sau đó cũng
giảm. Tại giá trị TC = 60nm, ta quan sát
thấy Fpeak gần với tần số mong muốn
375THz nhất, và tại đó Epeak cũng cho giá
trị cực đại. Tính chất này khá là thú vị, đã
được kiểm chứng trong [14], và được nói
rằng, khoảng cách từ nano anten đến bề
mặt phản xạ (lớp đế Au) phải được chọn
thỏa mãn điều kiện cộng hưởng khi ta xem
lớp vật liệu bán dẫn SiO2 như một hốc
cộng hưởng Fabry- Perot. Theo đó, tùy vào
chiết suất của vật liệu bán dẫn, ta sẽ có
những độ dày khác nhau. Hình 5c cho thấy
khi LC tăng thì Fpeak giảm, điều này phù
hợp với lý thuyết rằng, chiều dài anten tỷ lệ
nghịch với tần số hoạt động của nó. Ta có
thể tính được bước sóng hiệu dụng theo
công thức:
(1) trong đó, c là vận tốc ánh sáng
3×10
8
m/s, fo là tần số cộng hưởng
(~375THz), và εeff là điện môi hiệu dụng
của SiO2 (~2.4). Theo đó, bước sóng hiệu
dụng sẽ vào khoảng 500nm. Theo lý
thuyết, anten có chiều dài vào khoảng ½
bước sóng hiệu dụng này (L~
~250nm) sẽ cho mode cộng hưởng
đầu tiên. Kết quả sau khi tối ưu hóa đã cho
ra LC ~ 200nm, như vậy là ngắn hơn chiều
dài tính toán lý thuyết. Điều này có thể lý
giải rằng, do trong cấu trúc khảo sát có sử
x
y
z
V/m
20
0
17.6
15.2
12.7
10.3
7.88
5.45
3.03
x
y
z
V/m
20
0
17.6
15.2
12.7
10.3
7.88
5.45
3.03
x
y
z
V/m
20
0
17.6
15.2
12.7
10.3
7.88
5.45
3.03
(a) (b) (c)
Hình 7. Phân bố điện trường tại tần số cộng hưởng của các cấu trúc nano anten;
a) cấu trúc hình chữ nhật; b) cấu trúc hình vuông; c) cấu trúc hình tròn.
65
x
y
z
dBm2
-118
-127
-133
-139
-145
-152
-158
x
y
z
dBm2
-118
-127
-133
-139
-145
-152
-158
x
y
z
dBm2
-118
-127
-133
-139
-145
-152
-158
(a) (b) (c)
Hình 8. Phổ phát xạ trường xa tại tần số cộng hưởng của các cấu trúc nano anten;
a) cấu trúc hình chữ nhật; b) cấu trúc hình vuông; c) cấu trúc hình tròn.
dụng mặt phẳng đế (Au), theo đó chiết suất
hiệu dụng của cả cấu trúc tăng lên, làm cho
bước sóng hiệu dụng bị thu ngắn lại. Nhờ
mặt phẳng đế này, và nhờ hiện tượng tăng
chiết suất hiệu dụng này, trường điện từ bắt
cặp từ nano anten vào lớp SiO2 tăng lên
đáng kể, và theo đó tăng tính hấp thụ ánh
sáng tới. Bên cạnh đó, cấu trúc hình học
dạng hình tròn cũng phần nào thu ngắn
chiều dài của lưỡng cực điện. Xét về độ
giam hãm điện trường, ta thấy chiều dài
của nano anten ảnh hưởng không đáng kể
khi Epeak chỉ thay đổi ít xung quanh giá trị
125V/m. Cuối cùng, hình 5d cho thấy khi
chiều rộng PC của lớp bán dẫn SiO2 (cũng
là chiều rộng của mặt phẳng phản xạ) tăng,
tần số cộng hưởng Fpeak giảm, tuy nhiên
điện trường giam hãm tại vùng kích thích
Epeak tăng. Việc tăng chiều rộng của lớp
bán dẫn sẽ dẫn đến sự tăng chiết suất hiệu
dụng của cả cấu trúc. Theo đó, tần số cộng
hưởng sẽ giảm, và độ giam hãm tập trung
điện trường sẽ tăng do sóng tới được hấp
thụ vào lớp bán dẫn này nhiều hơn. Do tần
số cộng hưởng mong muốn xung quanh
vùng 375THz, giá trị PC cho cấu trúc sau
cùng được chọn vào khoảng 590nm. Qua
việc khảo sát các thông số thiết kế của cấu
trúc hình tròn, ta có thể rút ra kết luận rằng,
diện tích vùng kích thích hay khoảng cách
giữa hai điện cực ảnh hưởng đáng kể đến
cường độ điện trường giam hãm, trong khi
chiều dài của lưỡng cực quyết định tần số
cộng hưởng của nano anten. Quan trọng
hơn, độ dày của lớp bán dẫn phải được
chọn thích hợp nhằm tối ưu hóa điện
trường tăng cường nhờ vào cơ chế hoạt
động như một hốc cộng hưởng Fabry-
Perot. Các tính chất này được cho rằng sẽ
thể hiện một cách tương tự đối với cấu trúc
nano anten hình vuông cũng như nano
anten hình chữ nhật. Theo đó, sau khi tối
ưu hóa từng cầu trúc, chúng tôi thu được
kết quả như sau: cấu trúc nano anten hình
chữ nhật cho cho đỉnh phổ điện trường
giam hãm có giá trị 110,3V/m tại tần số
cộng hưởng là 374,9THz; cấu trúc nano
anten hình vuông cho cho đỉnh phổ điện
trường giam hãm có giá trị 92,2V/m tại tần
số cộng hưởng là 372,8THz; cấu trúc nano
anten hình tròn cho cho đỉnh phổ điện
trường giam hãm có giá trị 125V/m tại tần
số cộng hưởng là 374,3THz, xem thêm ở
bảng 1. Hình 6 biểu diễn hồi đáp theo hàm
tần số của điện trường giam hãm tại vùng
kích thích và của hệ số phản xạ trong sự so
sánh giữa ba cấu trúc đang khảo sát. Kết
quả cho thấy, tần số cộng hưởng của điện
trường giam hãm, hình 6a, gần như trùng
với tần số cho hệ số phản xạ cực tiểu, hình
66
6b. Kết quả này cho thấy rằng, các cấu trúc
khảo sát hoạt động tốt ở tần số mong muốn
là 375THz, và theo đó sẽ hấp thụ ánh sáng
tối đa tại tần số này. Đánh giá tổng quát
rằng, cấu trúc hình tròn cho cường độ điện
trường giam hãm tập trung tại vùng kích
thích cao nhất, đồng thời cấu trúc hình tròn
cũng cho hệ số phản xạ tốt nhất, gần như
không có phản xạ, so với hai cấu trúc còn
lại. Điều này phần nào giải thích sự ưa
chuộng khi sử dụng các chấm lượng tử
quang học trong việc tăng cường tính hấp
thụ ánh sáng tới trong các thiết kế gần đây.
Hình 7 và 8 lần lượt mô tả phân bố điện
trường quan sát tại trường gần (near-field)
và đồ thị phát xạ trường xa (far-field) của
ba cấu trúc nano anten đang khảo sát. Ta
thấy, điện trường phân bố tập trung tại
vùng kích thích và hai đầu cuối của nano
anten như thường thấy trong các lưỡng cực
điện ở tần số thấp. Đồ thị phát xạ trường xa
của cấu trúc hình tròn được đánh giá là tốt
nhất so với hai cấu trúc hình chữ nhật và
hình vuông. Quan sát ta thấy, phát xạ
ngược (back-radiation) trong đồ thị phát xạ
trường xa của cấu trúc hình tròn là thấp
nhất. Kết hợp với các kết quả khác (xem
bảng 1), ta rút ra kết luận cấu trúc lưỡng
cực nano anten hình tròn cho hiệu suất hấp
thụ ánh sáng tốt nhất so với cấu trúc lưỡng
cực nano anten hình chữ nhật và cấu trúc
lưỡng cực nano anten hình vuông.
Bảng 1: So sánh các thông số đầu ra của các cấu trúc lưỡng cực nano anten.
Cấu trúc
Tần số cộng hưởng
Fpeak (THz)
Điện trường tăng
cường
Epeak (V/m)
Hệ số phản
xạ (%)
Đồ thị
phát xạ
Hình chữ nhật 374,9 110,3 0,188 Tốt hơn
Hình vuông 372,8 92,2 0,283 Tốt
Hình tròn 374,3 125,0 0,056 Tốt nhất
5. Kết luận
Trong bài báo này, chúng tôi khảo sát
ba cấu trúc lưỡng cực nano anten hình chữ
nhật, hình vuông, và hình tròn, và đánh giá
tính chất của chúng qua tính giam hãm
điện trường, hệ số phản xạ, phân bố trường
gần, và phát xạ trường xa. Quá trình tối ưu
hóa cho thấy khoảng cách giữa hai đơn cực
điện, hay gọi là diện tích vùng kích thích,
ảnh hưởng nhiều đến tính giam hãm điện
trường tăng cường của nano anten, trong
khi chiều dài lưỡng cực quyết định tần số
cộng hưởng của nano anten. Bên cạnh đó,
lớp bán dẫn kết hợp với mặt phẳng phản xạ
đã hoạt động như một hốc cộng hưởng
Fabry-Perot và theo đó, bề dày của lớp vật
liệu này phải được chọn một cách thích
hợp thỏa điều kiện cộng hưởng. Đánh giá
tổng quát, cấu trúc nano anten hình tròn nổi
trội về tất cả các tính chất so với hai cấu
trúc còn lại. Cụ thể, cấu trúc nano anten
hình tròn cho điện trường giam hãm tăng
cường tại vùng kích thích cao nhất, cho hệ
số phản xạ thấp nhất, và đồng thời cũng
cho đồ thị phát xạ trường xa tốt nhất.
Nghiên cứu này cung cấp cho các nhà
nghiên cứu lý thuyết cũng như thực
nghiệm các thông tin hữu ích về quá trình
chọn và tối ưu hóa các lưỡng cực nano
anten một cách hợp lý, từ đó áp dụng vào
67
những ứng dụng cụ thể, ví dụ như kết hợp
một mảng nano anten hình tròn chấm
lượng tử với anten quang dẫn nhằm tăng
hiệu suất phát sóng THz.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Bá Thưởng (2007), “Chế tạo và nghiên
cứu tính chất của hạt vàng có kích thước
nano”, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Trường
ĐHKH Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội.
2. Hoàng Thị Hiến (2012), “Mô hình hóa hiện
tượng SPR của các hạt nano kim loại,” Luận
văn Thạc sỹ Trường ĐHKH Tự nhiên, ĐHQG
Hà Nội.
3. Trần Thu Hà (2011), “Hiện tượng cộng hưởng
plasmon bề mặt của các hạt nano kim loại,”
Luận văn Thạc sỹ Trường ĐHKH Tự nhiên,
ĐHQG Hà Nội.
4. Nguyễn Khắc Thuận (2011), “Nghiên cứu
tính chất điện - từ của hạt và màng mỏng Au
có kích thước nano” Luận văn Thạc sỹ
Trường ĐHKH Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội.
5. L. Tang, S.E. Kocabas, S. Latif, A. K. Okyay,
D.S. Ly-Gagnon, K. C. Saraswat and D. a B.
Miller (2008), “Nanometre-scale germanium
photodetector enhanced by a near-infrared
dipole antenna”, Nature Photonics, vol. 2, pp.
226-229.
6. K. Okamoto, I. Niki, A. Shvartser, Y.
Narukawa, T. Mukai, and A. Scherer (2004),
“Surface-plasmon-enhanced light emitters
based on InGaN quantum wells”, Nature
Materials, vol. 3, pp. 601-605.
7. D. M. Koller, A. Hohenau, H. Ditlbacher, N.
Galler, F. Reil, F. R. Aussenegg, A. Leitner,
E. J. W. List, and J. R. Krenn (2008),
“Organic plasmon-emitting diode”, Nature
Photonics, vol. 2, pp. 684-687.
8. H. A. Atwater and A. Polman (2010),
“Plasmonics for improved photovoltaic
devices”, Nature Materials, vol. 9, pp. 205–213.
9. N. A. Hatab, C. H. Hsueh, A. L. Gaddis, S.
T. Retterer, J.-H. Li, G. Eres, Z. Zhang, and
B. Gu (2010), “Free-standing optical gold
bowtie nano antenna with variable gap
size for enhanced raman spectroscopy”,
Nano Letters, vol. 10, pp. 4952-4955.
10. S. S. Acimoviü, M. P. Kreuzer, M. U.
González, and R. Quidant (2009), “Plasmon
near-field coupling in metal dimers as a step
towards single-molecule sensing”, ACS
Nano, vol. 3, no. 5, pp. 1231-1237.
11. S. Park, K. Jin, J. Ye, and K.H. Jeong
(2011), “Nanoplasmonic photoconductive
antenna for high power terahertz emission”,
IEEE 16
th
Int. Conference TRANSDUCERS,
pp. 2498-2501.
12. S. G. Park, K. H. Jin, M. Yi, J. C. Ye, J.
Ahn, and K. H. Jeong (2012),
“Enhancement of terahertz pulse emission
by optical nano antenna”, ACS Nano, vol.6,
no.3, pp. 2026-2031.
13. S. G. Park, Y. Choi, Y. J. Oh, and K. H.
Jeong (2012), “Terahertz photoconductive
antenna with metal nanoislands”, Optics
Express, vol.20, no.23, pp. 25530-25535.
14. T. J. Seok, A. Jamshidi, M. Kim, S. Dhuey,
A. Lakhani, H. Choo, P. J. Schuck, S.
Cabrini, A. M. Schwartzberg, J. Bokor, E.
Yablonovitch, and M. C. Wu (2011),
“Radiation Engineering of optical antennas
for maximum field enhancement”, Nano
Letters, vol. 11, pp. 2606 – 2610.
15. CST Microwave Studio, CST GmbH (2015)
trên website:
Ngày nhận bài: 10/8/2015 Biên tập xong: 15/10/2015 Duyệt đăng: 20/10/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36_0549_2221526.pdf