Tìm một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới

Tài liệu Tìm một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới: Lời nói đầu Sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế nước nhà đã đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu, song cũng chỉ đáp ứng được một phần trước những nhu cầu cấp thiết của xã hội, đặc biệt là nhu cầu việc làm do tỷ lệ thất nghiệp gia tăng từ chuyển đổi nền kinh tế và bùng nổ dân số. Trong những năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành một hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Từ khi ra đời và phát triển đến nay đã được hơn 20 năm, xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và những thách thức mới. Với sức ép nội tại về việc làm, nguyện vọng của người lao động và lợi ích Quốc gia, đòi hỏi phải được đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả, kể cả số lượng lẫn chất lượng của chương trình xuất khẩu lao động, hiện tại cũng ...

doc88 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 899 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế nước nhà đã đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu, song cũng chỉ đáp ứng được một phần trước những nhu cầu cấp thiết của xã hội, đặc biệt là nhu cầu việc làm do tỷ lệ thất nghiệp gia tăng từ chuyển đổi nền kinh tế và bùng nổ dân số. Trong những năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành một hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Từ khi ra đời và phát triển đến nay đã được hơn 20 năm, xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và những thách thức mới. Với sức ép nội tại về việc làm, nguyện vọng của người lao động và lợi ích Quốc gia, đòi hỏi phải được đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả, kể cả số lượng lẫn chất lượng của chương trình xuất khẩu lao động, hiện tại cũng như trong những năm tới. Nhằm đưa lĩnh vực xuất khẩu lao động lên một tầm cao mới, tương xứng với vị trí và vai trò quan trọng của nó. Trong điều kiện, hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu lao động Việt Nam hay thực chất là đưa nhiều lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hoạt động cần thiết. Sau quá trình học tập, nghiên cứu và đi thực tập, là một sinh viên tôi nhận thức sâu sắc rằng: Xuất khẩu lao động quả thực là một vấn đề mới, rất khó và phức tạp; đang được Đảng, Nhà nước và toàn Xã hội quan tâm, coi đó là một trong 4 ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Với lý do đó tôi đã lựa chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận và đáp ứng yêu cầu thực tiễn cũng như những yêu cầu mới đối với xuất khẩu lao động trong những năm tới. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam hay thực chất là việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp biện chứng. Phương pháp phân tích. Phương pháp thống kê toán. Phương pháp chuyên gia, điều tra khảo nghiệm tổng kết thực tiễn. Nội dung nghiên cứu: Xây dựng cơ sở lý luận về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của xuất khẩu lao động Việt Nam. Phân tích và đánh giá thực trạng của hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam qua các thời kỳ từ 1980 đến nay. Qua đó phát hiện những điểm tích cực và hạn chế (tồn tại khiếm khuyết của xuất khẩu lao động Việt Nam), tiến tới xây dựng các phương hướng, biện pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị, chính sách nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của xuất khẩu lao động Việt Nam trong hiện tại cũng như trong những năm tới. Với lượng thời gian nghiên cứu, thực tập và viết đề tài hạn hẹp, nội dung nghiên cứu của đề tài mà tác giả đưa ra dưới đây sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót bất cập. Kính mong các Thầy giáo, Cô giáo, các Cô chú, Anh chị cán bộ công nhân viên thuộc Cục Quản lý Lao động với nước ngoài và Công ty Cung ứng Nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA) cùng các bạn sinh viên quan tâm góp ý phê bình để đề tài luận văn này được hoàn thiện hơn. Ngoài các phần: Lời nói đầu, Danh mục các tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của đề tài Luận văn được chia thành 3 chương sau đây: Chương 1: Cơ sở lý luận về xuất khẩu lao động. Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam qua các thời kỳ. Chương 3: Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới. Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2003. Người thực hiện: Sinh viên: Nguyễn Lương Đoàn. lời cảm ơn Trước hết, cho phép em được bày tỏ lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc tới tập thể Thầy giáo, Cô giáo trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, đã dạy dỗ, dìu dắt em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại Nhà trường. Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Trưởng khoa Thương mại P.G.S T.S Trần Văn Chu, Thầy giáo Phó chủ nhiệm khoa Thương mại T.S Trần Văn Hoè cùng tập thể các Thầy cô trong khoa, đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong việc học tập, rèn luyện cũng như đi thực tập và viết đề tài luận văn của mình. Đặc biệt, cho phép em được bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn chân thành tới Thầy giáo T.S Nguyễn Anh Tuấn Phó phòng tổ chức cán bộ, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, người đã dành nhiều thời gian tận tình hướng dẫn em trong việc định hướng, lựa chọn và viết đề tài luận văn của mình. Em cũng xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các Cô, Chú, Anh Chị cán bộ công nhân viên Cục Quản lý Lao động với Nước ngoài – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội số 41 Lý Thái Tổ – Hoàn Kiếm - Hà Nội cùng các Cô, Chú, Anh, Chị cán bộ công nhân viên thuộc Công ty Cung ứng Nhân lực Quốc tế và Thương mại SONA số 34 Đại Cồ Việt – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Đã hợp tác, tận tình quan tâm giúp đỡ em trong suốt quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về các hoạt động quản lý, kinh doanh xuất khẩu lao động tại Cục và Công ty, để em sớm hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Xin chân thành cảm ơn các Cá nhân, Tổ chức kinh tế, Xã hội đã cung cấp và cho phép sử dụng tài liệu trong việc thực hiện và viết đề tài của cuốn luận văn này. Hà Nội, ngày 16 thág 12 năm 2003. Sinh viên: Nguyễn Lương Đoàn Lớp 402 – KTĐN Chương 1 Cơ sở lý luận về xuất khẩu lao động 1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động. 1.1 Một số khái niệm cơ bản. 1.1.1 Khái niệm nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một lực lượng bao gồm toàn bộ lao động trong xã hội, không phân biệt về trình độ, tay nghề, Nam nữ, tuổi tác. Hoặc nguồn nhân lực còn được hiểu là một bộ phận của dân số, bao gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp. 1.1.2 Khái niệm nguồn lao động. Nguồn lao động là một bộ phận của dân cư, bao gồm những người đang ở trong độ tuổi lao động, không kể mất khả năng lao động, và bao gồm những người ngoài độ tuổi lao động(1) Trên, dưới độ tuổi lao động (từ 16 – 55 đối với Nữ, 16 – 60 đối với Nam). . 1.1.3 Khái niệm nhân lực. Nhân lực là nguồn lực của mỗi con người, nó bao gồm cả thể lực và trí lực. 1.1.4 Khái niệm lao động. Lao động là hoạt động có chủ đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những những vật thể tự nhiên phù hợp với lợi ích của mình. Lao động còn là sự vận động của sức lao động trong quá trình tạo ra của cải, vật chất và tinh thần, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. 1.1.5 Khái niệm sức lao động. Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình lao động tạo ra của cải, vật chất, tinh thần cho xã hội. 1.1.6 Khái niệm việc làm. Việc làm là một hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho những người trong cùng hộ gia đình. 1.1.7 Khái niệm xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động: (Export of Labour), được hiểu như là công việc đưa người lao động từ nước sở tại đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn lao động. Lao động xuất khẩu: (Labour Export), là bản thân người lao động, có những độ tuổi khác nhau, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau, đáp ứng được những yêu cầu của nước nhập khẩu lao động. Như trên đã đề cập, việc các nước đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo nghĩa rộng tức là tham gia vào quá trình di dân quốc tế và nó phải tuân theo hoặc là Hiệp định giữa hai quốc gia, hoặc là phải tuân theo Công ước quốc tế, hoặc thông lệ quốc tế, tùy theo từng trường hợp khác nhau mà nó nằm ở trong giới hạn nào. Như vậy, việc di chuyển lao động trong phạm vi toàn cầu bản thân nó cũng có những biến dạng khác nhau. Nó vừa mang ý nghĩa xuất khẩu lao động, vừa mang ý nghĩa của di chuyển lao động. Do đó, đã phát sinh ra vấn đề sau: 1.1.8 Khái niệm thị trường. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ. 1.1.9 Khái niệm thị trường lao động. Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường phát triển. ở đó diễn ra quá trình thoả thuận, trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên sử dụng và bên cho thuê lao động. 1.1.10 Khái niệm thị trường lao động trong nước. Thị trường lao động trong nước là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong phạm vi biên giới của một quốc gia. l.1.11 Khái niệm thị trường lao động quốc tế. Thị trường lao động quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ nước này có thể di chuyển từ nước này sang nước khác thông qua Hiệp định, các Thoả thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới. 1.2 Sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hoá sức lao động quốc tế. Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế – xã hội, cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên, dân cư, khoa học công nghệ giữa các vùng, khu vực và giữa các quốc gia, dẫn đến không một quốc gia nào lại có thể có đầy đủ, đồng bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế. Để giải quyết tình trạng bất cân đối trên, tất yếu sẽ dẫn đến việc các quốc gia phải tìm kiếm và sử dụng những nguồn lực từ bên ngoài để bù đắp một phần thiếu hụt các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế của đất nước mình. Thông hường, các nước xuất khẩu lao động đều là những quốc gia kém hoặc đang phát triển, dân số đông, thiếu việc làm ở trong nước hoặc có thu nhập thấp, không đủ để đảm bảo cho cuộc sống của gia đình và cho chính bản thân người lao động. Nhằm khắc phục tình trạng khó khăn này, buộc các nước trên phải tìm kiếm việc làm cho người lao động của nước mình từ bên ngoài. Trong khi đó, ở những nước có nền kinh tế phát triển thường lại có ít dân, thậm chí có những nước đông dân nhưng vẫn không đủ nhân lực để đáp ứng nhu cầu sản xuất do nhiều nguyên nhân: Công việc nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại… nên không hấp dẫn họ, dẫn tới thiếu hụt lao động cho sản xuất. Để có thể duy trì và phát triển sản xuất, bắt buộc các nước này phải đi thuê lao động từ các nước kém phát triển hơn, có nhiều lao động dôi dư và đang có khả năng cung ứng lao động làm thuê. Vậy là đã xuất hiện nhu cầu trao đổi giữa một bên là những quốc gia có nguồn lao động dôi dư với một bên là các nước có nhiều việc làm, cần thiết phải có đủ số lượng lao động để sản xuất. Do đó vô hình chung đã làm xuất hiện (Cung – Cầu): Cung, đại diện cho bên có nguồn lao động, còn Cầu đại diện cho bên các nước có nhiều việc làm, đi thuê lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã hình thành lên một loại thị trường, đó là thị trường hàng hoá lao động quốc tế. Khi lao động được hai bên mang ra thoả thuận, trao đổi, thuê mướn, lúc này sức lao động trở thành một loại hàng hoá như những loại hàng hoá hữu hình bình thường khác. Như vậy, sức lao động cũng là một loại hàng hoá khi nó được đem ra trao đổi, mua bán, thuê mướn và khi đã là một loại hàng hoá thì hàng hoá sức lao động cũng phải tuân theo những quy luật khách quan của thị trường: Quy luật cung – cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh… như những loại hàng hoá hữu hình khác. Như đã phân tích ở trên, cho thấy: Để có thể hình thành thị trường lao động xuất khẩu trước hết phải xuất phát từ những nhu cầu trao đổi hoặc thuê mướn lao động giữa bên cho thuê lao động và bên đi thuê lao động. Thực chất, khi xuất hiện nhu cầu trao đổi, thuê mướn lao động giữa quốc gia này với quốc gia khác, là đã hình thành lên hai yếu tố cơ bản của thị trường, đó là cung và cầu về lao động. Như vậy là thị trường hàng hoá sức lao động quốc tế đã được hình thành từ đây. Trong điều kiện hội nhập phát triển đời sống kinh tế như hiện nay, quan hệ cung – cầu không còn bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, biên giới của một nước chỉ còn ý nghĩa hành chính, còn quan hệ này ngày càng diễn ra trên phạm vi quốc tế, mà trong đó bên Cung đóng vai trò là bên xuất khẩu và Cầu sẽ đại diện cho bên nhập khẩu lao động. 1.3 Sự cần thiết khách quan và vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. 1.3.1 Sự cần thiết khách quan phát triển hoạt động xuất khẩu lao động. Thực tế cho thấy, nước ta là một quốc gia đông dân khoảng hơn 80 triệu người. Theo số liệu thống kê năm 1998 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nước ta có khoảng 40 triệu người đang ở độ tuổi lao động, hàng năm tăng thêm 1,1 triệu lao động và hiện nay là 1,2 triệu lao động/năm, chiếm 3% trong tổng số lực lượng lao động. Riêng lao động kỹ thuật cao chúng ta có khoảng 5 triệu chiếm khoảng 12,5%, trong đó lao động có trình độ Đại học, Cao đẳng là 23% khoảng 1.150.000 người. Bên cạnh đó, hiện có khoảng 9,4 triệu lao động thiếu việc làm, chiếm 23,5% lực lượng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực đô thị đã giảm liên tục từ 10% năm 1991 xuống còn 5,88% năm 1996 nhưng đến năm 1998 tỷ lệ này lại nhích lên 6,85%(1) Do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực năm 1997. và lại tiếp tục giảm nhẹ xuống còn 6,28% vào năm 2001. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng có xu hướng tăng lên từ 72,1% năm 1996 lên 74,4% vào năm 2001. Với tình trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng trở nên gay gắt đối với nền kinh tế. Nếu không giải quyết một cách hài hoà và có những bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và xã hội sẽ dẫn tới mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã hội. Cùng với hướng giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một định hướng chiến lược tích cực quan trọng, lâu dài, cần phải được phát triển lên một tầm cao mới, phù hợp với vai trò của nó. Đó cũng là xu hướng chung mà nhiều nước xuất khẩu lao động đã quan tâm phát triển từ nhiều thập kỷ trước đây. Để giải quyết được vấn đề này, xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực cứu cánh cho bài toán giải quyết việc làm không những của Việt Nam mà còn đối với cả hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực và trên thế giới, vì đây là lĩnh vực đạt được liền lúc cả hai mục tiêu kinh tế – xã hội: vừa đảm bảo mục tiêu giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh để phát triển kinh tế xã hội trong nước. 1.3.2 Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển Kinh tế – Xã hội của Việt Nam. Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, cần phải được xem xét, đánh giá các mặt hiệu quả tích cực mà xuất khẩu lao động đã mang lại. Một khi nhận thức đúng đắn về hiệu quả của xuất khẩu lao động, cùng với việc vạch ra các chỉ tiêu, xác định nó là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá hiện trạng và chỉ ra các phương hướng cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Thông thường, hiệu quả nói chung, thường được biểu hiện qua hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí. Tuy nhiên, trong nền kinh tế xã hội, mỗi kết quả thường có đồng thời cả hai mặt đó là mặt kinh tế và mặt xã hội. Hiệu quả kinh tế được tính theo công thức trên, còn hiệu quả xã hội lại được hiểu như những kết quả tích cực so với mục tiêu. Khi đánh giá về vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong những năm trước đây và hiện tại, không một ai có thể phủ nhận những gì mà xuất khẩu lao động Việt Nam đã đóng góp. Xuất khẩu lao động không những vừa đạt được mục tiêu về kinh tế, mà còn đạt được cả mục tiêu về xã hội. Về mục tiêu Kinh tế. Trong khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế chưa lâu, kinh tế nước ta còn gặp vô vàn những khó khăn, mọi nguồn lực còn eo hẹp, thì việc hàng năm chúng ta đưa hàng vạn lao động ra nước ngoài làm việc, đã mang về cho đất nước hàng tỷ USD/năm từ hoạt động xuất khẩu lao động. Đây quả là một số tiền không nhỏ đối với những quốc gia đang phát triển như chúng ta. Về mục tiêu xã hội. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định so với tiềm năng, song xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm qua, bước đầu đã đạt được những thành công nhất định về mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trước hàng loạt những khó khăn và gánh nặng thất nghiệp và thu nhập của người lao động trong nước, cùng với các biện pháp tìm kiếm và tạo công ăn, việc làm trong nước là chủ yếu thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng vạn lao động mỗi năm, đồng thời làm giảm sức ép về việc làm và tạo sự ổn định xã hội ở trong nước… 1.4 Quy trình xuất khẩu lao động. Trong mỗi một giai đoạn, xuất khẩu lao động đều có một quy trình xuất khẩu riêng, phù hợp với tính chất của từng giai đoạn. Trong thời kỳ đầu (1980 – 1990), quy trình xuất khẩu lao động được thực hiện chủ yếu trêu cơ sở Hiệp Định được ký kết giữa hai Chính phủ, thoả thuận ngành với ngành. Cơ chế xuất khẩu lao động dựa trên mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức thực hiện đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp không trực tiếp tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng, đồng thời các công đoạn cũng ít phức tạp hơn… Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay quy trình xuất khẩu lao động Việt Nam đã có nhiều thay đổi, các doanh nghiệp phải tự vận động tìm kiếm và xúc tiến xuất khẩu lao động. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong việc đàm phán cấp cao chứ không đóng vai trò chủ đạo như trước kia. Do vậy, xuất khẩu lao động Việt Nam hiện tại chủ yếu được thực hiện theo các bước sau đây: Về phía Nhà nước. Nhà nước chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc hướng dẫn, tư vấn và đưa hợp tác lao động vào các chương trình làm việc, đàm phán cấp cao giữa hai chính phủ với các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới có khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam. Về phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Chủ động tìm kiếm thị trường. Đàm phán ký thoả thuận (hợp đồng). Tuyển chọn lao động. Đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động. + Ngoại ngữ, kỷ luật lao động. + Phong tục, tập quán nước đến. + Nội dung hợp đồng. + Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động. Tổ chức khám tuyển. Đưa lao động đi. Quản lý lao động ở nước ngoài. Tiếp nhận lao động trở về và thanh lý hợp đồng. Tái xuất (nếu pháp luật của nước tiếp nhận cho phép và doanh nghiệp đó yêu cầu). Sơ đồ Quy trình xuất khẩu lao động Việt Nam trong giai đọan hiện nay: xem Phụ lục số (1). 1.5 Kinh nghiệm xuất khẩu lao động ở một số quốc gia trên thế giới. 1.5.1 Tình hình xuất khẩu lao động trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập nền kinh tế, sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt, hàng loạt các nước thuộc Châu á có lao động xuất khẩu, từ nhiều thập kỷ trở lại đây đều đưa ra những chính sách phát triển và ít nhiều đã tạo dựng được nền tảng vững chắc và thành công bước đầu, đặc biệt là các nước xuất khẩu lao động: Banglades, ấn Độ, Pakistan, Srilanka, Indonesia, Philippin, Thailand, Trung Quốc…. hàng năm nhờ vào giá nhân công thấp, các nước xuất khẩu lao động Châu á tìm mọi cơ hội để cạnh tranh với chính các nước cùng xuất khẩu lao động trong khu vực cũng như các nước khác trên thế giới và kết quả là hàng năm có hàng triệu lao động từ các nước này được đưa đi làm việc ở nước ngoài và đem về cho đất nước mình một lượng ngoại tệ khổng lồ. Trong những năm 80, Việt Nam ta có khoảng gần 300.000 lao động làm việc tại các nước Đông Âu, Liên xô, Iraq và một số nước thuộc Châu Phi khác. Trong những năm gần đây, lao động Việt Nam đưa đi ngày một tăng và tương đối ổn định, trung bình khoảng 30.630 lao động/năm(1) Số liệu được tính bình quân từ năm 1996 đến tháng 10 năm 2003. . Các nước phát triển: Anh, Pháp, Canada, Đức… cũng không đứng ngoài cuộc, phần lớn họ đưa lao động ra nước ngoài làm việc chủ yếu là các chuyên gia để thu ngoại tệ cho đất nước, đồng thời mỗi năm họ cũng vẫn tiếp nhận hàng vạn lao động từ các nước khác đến làm việc. 1.5.2 Kinh nghiệm của một số nước Đông Nam á về xuất khẩu lao động. Cơ chế quản lý và chính sách xuất khẩu lao động đã được quy định rất rõ ràng trong bộ luật lao động năm1973 đối với Philppin và 1985 đối với Thái Lan. Bộ luật này đã tạo cơ sở cho việc xúc tiến mạnh mẽ xuất khẩu lao động dư thừa cho tới khi nền kinh tế trong nước có thể tự đáp ứng hết số người đến tuổi lao động. Để thực hiện được các mục tiêu đó, Chính phủ Philippin và Thai Lan đã có những biện pháp quản lý đặc biệt và đã gặt hái được những thành công quan trọng trong những năm qua. 1.5.2.1 Philippin: Thành lập 3 cơ quan chuyên trách, độc lập thuộc Bộ Lao động và việc làm: Ban phát triển việc làm ngoài nước: chịu trách nhiệm quản lý mọi hoạt động về tuyển mộ và bố trí lao động trên đất liền. Hội đồng thuỷ thủ quốc gia: chịu trách nhiệm về quản lý mọi hoạt động của các doanh nghiệp tuyển mộ thuỷ thủ đi làm việc trên biển. Văn phòng dịch vụ việc làm: chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi các tổ chức tuyển dụng đã được cấp giấy phép trong việc bố trí việc làm ngoài nước cho đến khi kết thúc hợp đồng. Chính phủ Philippin thực hiện quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân bằng một cơ quan quản lý duy nhất là Cục Quản lý việc làm ngoài nước. Cơ quan này chịu trách nhiệm về phát triển thị trường và cấp giấy phép, giám sát các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép. Hỗ trợ người lao động trước khi đi lao động ở nước ngoài, tại nơi làm việc và sau khi lao động về nước. Nhằm thực hiện tốt các nhiện vụ trên, Chính phủ Philippin đã quy định tất cả việc thuê mướn, tuyển dụng lao động Philippin phải thông qua Cục Quản lý việc làm ngoài nước hoặc công ty tuyển mộ được cấp phép, phải tổ chức đào tạo và huấn luyện cho người lao động trước khi đi. Cho phép xuất khẩu cả những lao động có trình độ đặc biệt, thành lập các quỹ lao động, quảng cáo và tổ chức đăng ký nguồn(1) Nguồn tuyển lao động. nhưng phải nói rõ nguồn và không được thu lệ phí của người lao động đến tuyển. Chính phủ Philippin cũng quy định: Đối với các doanh nghiệp muốn được cấp giấy phép xuất khẩu lao động phải có giấy phép đăng ký kinh doanh, đồng thời phải có khả năng về tài chính, có tài sản thế chấp từ 12.500USD trở lên, phải nộp một khoản tiền đặt cọc 5000USD, phải nộp một khoản tiền bảo lãnh là 7.500USD và lệ phí xin cấp giấy phép 300USD cùng với đơn xin cấp giấy phép. Giấy phép có giá trị trong vòng 24 tháng kể từ ngày cấp và có thể gia hạn bằng với thời gian giá trị giấy phép. Giấy phép phải được tuân thủ theo các điều kiện sau: Không được phép chuyển nhượng, giấy phép được cấp cho loại lao động nào thì chỉ được phép tuyển loại lao động đó. Những thay đổi về nhân sự, trụ sở giao dịch, phải báo cáo và được sự chấp thuận của Cục Việc làm ngoài nước. Chính phủ Philippin cũng đã có những quy định hết sức chặt chẽ trong việc đảm bảo quyền lợi của người lao động và lợi ích quốc gia như quy định về thủ tục, tiêu chuẩn tuyển người lao động đi nước ngoài làm việc. 1.5.2.2 Thái Lan: Việc xuất khẩu lao động cũng được quy định trong Bộ luật lao động Thái Lan năm 1983, trong đó nêu rõ: Tập trung hoá việc cấp phép và quản lý các doanh nghiệp tuyển dụng lao động tư nhân, thành lập cơ quan tuyển dụng lao động của Chính phủ, xác định cụ thể hơn nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của các cơ quan tuyển dụng lao động. Quy định việc gửi ngoại tệ của người lao động về nước, thành lập quỹ phúc lợi của người lao động và cũng quy định mức độ kỷ luật, hình phạt, đối với các hành vi phạm pháp. Trong hoạt động xuất khẩu lao động, Chính phủ Thái Lan thực hiện hai chức năng: Điều phối các hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân trong xuất khẩu lao động (kể cả trong nước lẫn ngoài nước). Văn phòng quản lý lao động ngoài nước thuộc Tổng cục lao động (Bộ Nội vụ), là cơ quan Chính phủ cao nhất thực hiện các chức năng trên, có nhiệm vụ cấp giấy phép và quản lý các hoạt động của các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép. Chính phủ Thái Lan cũng có chính sách hỗ trợ một phần quỹ phúc lợi cho người lao động, số còn lại người lao động phải đóng góp. Quỹ này chủ yếu dùng để hỗ trợ hành chính và tài chính cho người lao động trước khi đi và khi trở về gặp nhiều khó khăn như: Hồi hương, tai nạn, chết và trợ cấp khó khăn cho người lao động. Thái Lan cũng cho phép xuất khẩu những lao động có trình độ cao và cho phép mọi cá nhân có thể tự tìm kiếm việc làm ở nước ngoài và Chính phủ cũng cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thu một phần lệ phí xuất khẩu lao động nhưng chỉ bằng 1 tháng lương của người lao động, nếu không đi được thì doanh nghiệp phải hoàn trả lại cho người lao động. 1.5.3 Những bài học kinh nghiệm. 1.5.3.1 Vai trò của Nhà nước. Để có thể tồn tại và phát triển phù hợp với những xu hướng vận động của nề kinh tế thế giới và quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, xuất khẩu lao động càng phải nhận được sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo đặc biệt từ phía Nhà nước. Cho nên muốn hay không muốn thì vai trò của nhà nước trong bối cảnh hiện nay và kể cả trong tương lai vẫn đóng một vai trò quan trọng và cần thiết trong việc hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu lao động, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong tình hình mới. Thực tế đã chứng minh, càng ngày xuất khẩu lao động càng được các chuyên gia đưa vào hoạch định chính sách phát triển kinh tế, coi xuất khẩu lao động là một trong các ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng của đất nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nước mình. Do đó để thực hiện tốt những mục tiêu có tính chất chiến lược đã được hoạch định, Nhà nước phải ban hành hệ thống luật pháp, cơ chế và chính sách nhằm: + Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất khẩu lao động phát triển. + Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động phát triển. + Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động… 1.5.3.2 Thu nhập và quyền lợi kinh tế, vấn đề không chỉ đối với người lao động. Trong một vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề nguồn thu ngoại tệ thu được(1) Tiền lương của người lao động sau khi gửi về Việt Nam bắt buộc phải quy đổi ra VNĐ. từ lao động xuất khẩu đã có tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều quốc gia xuất khẩu lao động, trong đó có Việt Nam chúng ta. Trong điều kiện suy thoái nền kinh tế, chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước phát triển đã tạo nên sức ép lên cán cân thanh toán của những nước chậm và đang phát triển, thì nguồn kiều hối từ xuất khẩu lao động trở thành một nguồn quan trọng trong việc làm cân bằng cán cân thanh toán. Bên cạnh đó, một số quốc gia đã đưa lượng kiều hối từ xuất khẩu lao động vào tính toán thu nhập quốc dân. Chính những vấn đề này buộc chúng ta phải thừa nhận vai trò tích cực và những thay đổi do xuất khẩu lao động đã mang lại cho tổng nguồn thu của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, không một quốc gia nào khi làm công tác xuất khẩu lao động lại chỉ chú ý và đảm bảo thu nhập kinh tế, quyền lợi cá nhân người lao động, mà không tính đến những lợi ích quốc gia. 1.5.3.3 Việc làm khi lao động trở về nước. Thông thường, phần lớn các nước xuất khẩu lao động đều thuộc diện những nước kém, chậm và đang phát triển, đông dân, lao động dư thừa, thiếu vốn đầu tư sản xuất trong nước, khan hiếm việc làm nên khó có khả năng thu hút và đáp ứng được nhu cầu việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động trong nước. Do đó nên sau khi kết thúc hợp đồng lao động trở về, có một bộ phận người lao động trước khi đi họ đã có việc làm ổn định, nay trở về thường có tâm lý không trở lại nghề cũ mà tìm cách tiếp cận với công việc khác nhẹ nhàng và có thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, một bộ phận những người lao động khác, khi trở về họ thực sự không thể tự tìm kiếm được việc làm mới, kể cả trở lại nghề cũ hoặc tìm được những công việc có thu nhập không đáng kể. Vì thế, phần lớn trong số họ lại mong muốn được tiếp tục đi xuất khẩu lao động một lần nữa. Tuy vậy, do chúng ta chưa thực sự ý thức được vấn đề hậu xuất khẩu lao động, nên thường thì người lao động khi trở về nước lại phải bắt đầu tìm kiếm từ đầu một khi họ muốn tiếp tục ra nước ngoài làm việc. Chính vì vậy mà không phải ai muốn trở lại hoặc sang một nước khác có điều kiện làm việc, thu nhập tốt hơn cũng có thể sang được. Việc mong muốn được tiếp tục ra nước ngoài làm việc vẫn còn là một chuyện cực kỳ khó khăn đối với phần đông người lao động, nên mới dẫn đến tình trạng người lao động bỏ trốn ra làm việc và sống lưu vong ở chính nước mình đến lao động. Trong khi đó, ở một số quốc gia cùng xuất khẩu lao động như Philippine, Thái Lan, Pakistan… một khi người lao động đã hoàn thành hợp đồng trở về, họ thường được chính doanh nghiệp vận động tái xuất bằng những chính sách ưu tiên đặc biệt, nhằm khuyến khích người lao động tiếp tục trở lại nước cũ, hoặc là sang lao động ở một nước khác có điều kiện làm việc tốt hơn, nên có rất nhiều lao động tham gia tái xuất, thậm chí có rất nhiều lao động cả đời chỉ đi lao động ở nước ngoài. Đây là chính sách hậu xuất khẩu rất quan trọng mà các quốc gia này đã quan tâm và khai thác triệt để từ lâu, nó cũng có thể coi là biện pháp hạn chế thất nghiệp hậu xuất khẩu mà Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm và phát triển hơn nữa. Chương 2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam qua các thời kỳ 2.1 Đặc điểm cơ bản của lao động Việt Nam và các thị trường xuất khẩu lao động. 2.1.1 Đặc điểm cơ bản của lao động Việt Nam. So với lao động cùng loại của các nước xuất khẩu lao động, lao động Việt Nam được giới chủ đánh giá cao, tuy nhiên cũng có một số đặc điểm nổi bật cũng như hạn chế sau. Ưu điểm: Thông minh, nhanh nhẹn, cần cù, chịu khó, ham hiểu biết. Trình độ học vấn tương đối cao. Nắm bắt công việc nhanh. Nhược điểm: Tác phong công nghiệp kém (mang nặng tác phong nông nghiệp). Thể lực yếu, chưa thích nghi được với cường độ lao động công nghiệp. Ngoại ngữ kém. ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao. 2.1.2 Đặc điểm của thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam. Nhìn chung, về thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam khá đa dạng, lao động Việt Nam đã có mặt ở hầu hết khắp các khu vực cũng như Châu lục trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam tập trung chủ yếu ở một số nước trong khu vực. Những thị trường này đều có khoảng cách gần gũi về địa lý, có nhiều điểm tương đồng về truyền thống văn hoá cũng như khí hậu… Một số quốc gia như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia hiện đang và sẽ còn tiếp tục tiếp nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn. Đặc biệt là thị trường Malaysia và thị trường Đài Loan, đây là hai thị trường rất có thiện cảm với lao động Việt Nam, cho nên thay vì tiếp nhận lao động các nước khác, nay họ chuyển dần sang tiếp nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn cho mọi ngành nghề khác nhau. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng được coi là hai thị trường khá dễ tính trong việc tiếp nhận lao động Việt Nam. Do yêu cầu về tiêu chuẩn lao động không cao, nên phần lớn lao động Việt Nam đều có đủ điều kiện về thể lực, trí lực cũng như trình độ tay nghề để đáp ứng. Hơn nữa, xu hướng của các thị trường nêu trên trong những năm tới, sẽ vẫn còn tiếp nhận lao động giản đơn. Bên cạnh đó họ cũng có khả năng tiếp nhận nhiều lao động có trình độ cao cho các lĩnh vực như: Phần mềm tin học. Đối với các thị trường khác, tuy số lượng tiếp nhận không lớn như các thị trường trong khu vực, do nhu cầu tiếp nhận, khác xa nhau về truyền thống văn hoá, tôn giáo và cách xa nhau về mặt địa lý, song cũng cho thấy đây là những thị trường khá dễ tính và đầy tiềm năng, rất có khả năng tiếp nhận nhiều lao động của ta trong những năm tới. 2.2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam qua các thời kỳ. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài từ những năm 1980, từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới chung về cơ chế quản lý kinh tế của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động cũng đã có nhiều thay đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc tế trong từng thời kỳ. Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được những yêu cầu quan trọng, góp phần tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia của Việt Nam được chia thành ba thời kỳ: 2.2.1 Thời kỳ đầu (1980 – 1990). Chủ trương và mục tiêu. Chủ trương. Trong những năm đầu của thập kỷ 70 và nhất là sau khi đất nước thống nhất, nhiều nước đã đặt vấn đề hợp tác sử dụng lao động với nước ta. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách rất rõ ràng về vấn đề này: Năm 1979 Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ chính thức giao cho Bộ Lao động và Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, nghiên cứu tiến hành đàm phán với một số quốc gia XHCN về trao đổi, hợp tác lao động. Ngày 11/02/1980 hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 46/CP về việc đưa cán bộ, công nhân đi bồi dưỡng, nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn ở các nước Xã hội Chủ nghĩa. Ngày 29/11/1980 hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 362/CP về việc hợp tác sử dụng lao động với các nước XHCN, đáp ứng một phần yêu cầu lao động của các nước anh em, giải quyết việc làm cho một bộ phần thanh niên chưa có việc làm. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trong báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội trong 5 năm 1986 – 1990, hợp tác lao động đã được xác định là một trong 3 chương trình kinh tế lớn; mở rộng việc đưa lao động ra nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp. Mục tiêu. Chủ yếu là đưa cán bộ, công nhân viên đi bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề, nắm vững những kỹ thuật then chốt, phức tạp, tinh vi trong quy trình chế tạo sản phẩm và trong cả dây chuyền công nghệ, hoặc nắm vững những kiến thức và tay nghề cần thiết để có thể tự mình thiết kế và chế tạo những sản phẩm mới. Phát huy mọi tiềm năng lao động và chất xám, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho Đất nước. 2.2.1.2 Kết quả xuất khẩu lao động. Trong giai đoạn này, hoạt động xuất khẩu lao động chủ yếu dựa trên quan hệ hợp tác sử dụng lao động giữa Việt Nam với các nước Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) thông qua các hiệp định Chính phủ và các thoả thuận giữa ngành với ngành. Cơ chế xuất khẩu lao động chủ yếu dựa trên mô hình Nhà nước trực tiếp ký kết và triển khai tổ chức thực hiện đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Từ 1980 – 1990, Việt Nam đã đưa đi được 265.501 lao động. Trong tổng số 265.501 lao động đã đưa đi, phần lớn lao động của ta chủ yếu được đưa sang 4 nước XHCN (Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc và Bungari) với tổng số lao động là: 240.301 người, trong đó có 91.955 lao động nữ, chiếm 38,26% và trong tổng số 240.301 lao động đã gửi đi chỉ có 101.084 người đã có nghề(1) Lao động đã qua đào tạo nghề. chiếm 42,06%. Số lao động còn lại trước khi đi, phần lớn là không nghề(2) Lao động chưa qua đào tạo nghề. bằng 57,94% tổng số lao động đưa sang 4 nước này. Ngoài số lao động gửi sang các nước XHCN, Nhà nước ta còn gửi 25.200 lao động sang làm việc ở các nước khác thuộc khu vực vùng Vịnh và Châu Phi. Tiến độ đưa lao động Việt Nam làm việc tại các nước XHCN được thể hiện qua bảng số (1) dưới đây. Bảng số (1): Kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước XHCN từ 1980 - 1990. Đơn vị tính: (Người). Năm Số lượng Lao động XK Nữ Lao động có nghề Lao động không nghề Tỷ lệ (%) lao động có nghề Tiền gửi về (Triệu VN đồng) 1980 1.570 590 1.570 0 100 0 1981 20.230 5.569 14.882 5.348 73,56 0,955 1982 25.970 8.151 12.116 13.784 46,65 8,5 1983 12.402 4.620 4.603 7.799 37,11 25,1 1984 4.489 1.566 3.297 1.192 73,44 32,1 1985 5.008 3.031 3.658 1.350 73,04 76,9 1986 9.012 3.095 1.800 7.212 19,97 433,5 1987 46.098 23.863 21.024 25.074 45,60 1.426,18 1988 71.835 25.459 25.109 46.726 34,95 23.027,9 1989 40.618 14.964 12.034 28.584 29,62 1.084,32 1990 3.069 1.047 921 2.148 30,00 8.512,8 Tổng 240.301(*) Không bao gồm 25.200 lao động tại các nước ở (Trung Đông và Châu Phi). 91.955 101.084 139.217 42,06 26.115,455 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với Nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Hình (1): Mô tả kết quả Xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ (1980 - 1990). Qua kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ từ 1980 – 1990 trên đây, ta nhận thấy một số vấn đề sau: Trong giai đoạn này, mặc dù chúng ta phải đối mặt với không ít những khó khăn về kinh tế lẫn chính trị, song công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia của chúng ta cũng đã đạt được những kết quả quan trọng bước đầu làm tiền đề xúc tiến và phát triển cho xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm kế tiếp. Nhìn chung, số lượng lao động Việt Nam đưa đi hàng năm theo Hiệp Định Chính phủ và các thoả thuận giữa ngành với ngành không phải là cố định. Số lượng lao động đã được đưa đi cao nhất phải nói đến các năm 1981, 1982 và đặc biệt là các năm từ 1987 - 1989. Năm 1980 số lao động Việt Nam được đưa đi 100% là lao động có nghề, còn kể từ năm 1981 – 1990 số lượng lao động không nghề đưa đi ngày một tăng lên, chiếm 57,94% trong tổng số lao động Việt Nam được đưa sang 4 nước XHCN trong cả thời kỳ. Lý do chính của tình trạng này là do yêu cầu của phía Chính phủ các nước tiếp nhận lao động Việt Nam không yêu cầu cao về trình độ tay nghề của lao động. Phần lớn các nước này phân phối ngay lao động Việt Nam vào các nhà máy, cơ sở sản xuất. Họ tự kèm cặp, đào tạo(1) Đào tạo ngoại ngữ, nghề nghiệp… trong vòng từ 1 – 2 năm. cho lao động ta để trở thành công nhân thực thụ. Đây là một đặc điểm rất đặc biệt của lao động Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài kể từ trước đến nay. Nó cũng rất khác biệt so với hoạt động đưa lao động ra nước ngoài của các nước trong khu vực như Philippin, Thailand… trong cùng khoảng thời gian này. Ngoài các nước XHCN nhà nước ta còn đưa 25.200 lao động sang cả các nước khác. Nhưng chủ yếu là tập trung ở các nước vùng Vịnh và các nước thuộc Châu Phi. Lao động đưa sang các nước vùng Vịnh là 18.000 người và Châu Phi (Libya, Angieria, Angola, Mozambiq, Congo, Madagasca) là 7.200 người. Bảng số (2): Phân bố lao động Việt Nam tại 4 quốc gia XHCN từ 1980 - 1990. Đơn vị tính: (Người). Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam Tổng số Lao động tiếp nhận Trong đó Nữ Tỷ lệ (%) Nữ Lao động có nghề Tỷ lệ (%) lao động có nghề Liên Xô 105.081 53.073 50.50 20.562 19,56 CHDC Đức 70.010 25.718 36.73 27.125 38,74 Tiệp Khắc 37.580 9.528 25.35 28.504 75,84 Bungari 27.630 3.636 13.15 24.893 90,09 Tổng 240.301 91.955 38,26 101.084 42,06 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Như vậy, trong thời kỳ này thị trường xuất khẩu lao động của chúng ta tập trung chủ yếu vào thị trường các nước XHCN như trong bảng số (2) đã chỉ rõ. Phần lớn lao động của ta đưa sang 4 quốc gia, chủ yếu tập trung ở Liên Xô và CHDC Đức. Hai quốc gia còn lại về số lượng lao động đến làm việc không lớn bằng Liên Xô và CHDC Đức, nhưng cũng cho thấy đây là hai thị trường cũng không kém phần qua trọng trong hệ thống các nước mà lao động Việt Nam được đưa đến lao động. Về độ tuổi của số lao động trên khi gửi đi, theo quy định là từ 18 – 40 tuổi. Đây được coi là độ tuổi có nhiều khả năng tốt về thể lực, trí lực và năng lực làm việc khi đi lao động ở nước ngoài. Thực tế cho thấy, ở một số nước có xuất khẩu lao động, họ cũng lựa chọn lao động trong độ tuổi này để đưa đi. Do đó, sau khi kết thúc thời hạn lao động trở về, người lao động vẫn còn có thể tiếp tục tái xuất hoặc làm việc ở trong nước tuỳ theo khả năng của mình. Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại 4 quốc gia, được thể hiện trong bảng số (3) dưới đây: Bảng số (3): Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại 4 quốc gia XHCN từ 1980 - 1990 theo các nhóm ngành chính. Đơn vị tính: (Người). Ngành nghề Tổng số Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam Liên Xô CHDC Đức Tiệp Khắc Bungari Công nghiệp 178.190 80.710 58.347 29.161 9.972 Cơ khí 63.206 20.945 18.862 16.812 6.587 Công nghiệp nhẹ 104.427 57.641 35.869 8.533 2.384 Hoá chất 7.407 2.123 3.516 1.588 180 Thực phẩm 3.150 0 99 2.229 822 Xây dựng và vật liệu XD 45.597 19.469 5.548 5.096 15.484 Nông nghiệp 1.531 0 75 831 625 Lâm nghiệp 4.718 1.975 930 1683 130 Các ngành khác 10.265 2.934 5.115 794 1.422 Tổng 240.301 105.088 70.015 37.565 27.633 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với Nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Có thể thấy rằng, cơ cấu ngành nghề ở 4 quốc gia trên tương đối đa dạng, nhưng chưa mang tính đa dạng về loại, nhóm lao động. Việc làm của lao động Việt Nam đảm trách có tới hơn 90% là lao động giản đơn, chủ yếu là lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Tuy nhiên cơ cấu ngành nghề này không phải do lao động Việt Nam được đào tạo từ trong nước, mà phần lớn là do các nước tiếp nhận lao động của ta tự kèm cặp, đào tạo và sử dụng cho đến khi kết thúc thời hạn lao động. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, lao động có nghề của ta chỉ chiếm 42,06% và số lao động không nghề chiếm tới 57,94% so với tổng số lao động đưa đi. Như vậy, qua kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này đã cho thấy, chất lượng lao động xuất khẩu của ta đã được nâng lên rõ rệt, điều này được thể hiện qua kết quả xuất khẩu tăng dần từng năm, khẳng định lao động Việt Nam đã có thể đáp ứng nhu cầu về lao động của nước tiếp nhận trong nhiều lĩnh vực. 2.2.2 Thời kỳ (1991 – 1995). 2.2.2.1 Chủ trương và mục tiêu. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước XHCN ở Đông Âu tiếp nhận lao động của ta đều xảy ra những biến động lớn về chính trị, kinh tế xã hội. Nhiều nước ở Châu Phi có lao động Việt Nam làm việc cũng gặp khủng hoảng kinh tế xã hội và chính trị, còn ở Trung Đông lại phải đối đầu với cuộc chiến tranh Iraq. Vì vậy mà hầu hết các nước này không còn nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam, thậm chí có tiếp nhận nhưng đứt quãng và số lượng cũng không đáng kể. Trước những biến động bất ổn đó, để có thể tiếp tục duy trì và phát triển xuất khẩu lao động, Chính phủ đã khẳng định: phải tiếp tục mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế, trong đó hợp tác về xuất khẩu lao động vẫn được coi như là một ngành kinh tế mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Chủ trương. Mở rộng và hướng xuất khẩu lao động sang các nước trong khu vực và trên thế giới, đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của chương trình lao động việc làm quốc gia. Ngày30/6/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Chỉ thị số 108/CT – HĐBT về việc mở rộng hợp tác lao động, là một nhiệm vụ kinh tế quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Ngày 20/01/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 07/NĐ - CP đã khảng định: Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết đúng đắn… Mục tiêu. Nhằm duy trì xuất khẩu lao động, phát huy mọi tiềm năng lao động và chất xám, giải quyêt việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho Đất nước. 2.2.2.2 Kết quả xuất khẩu lao động. Khác với thời kỳ đầu, cơ chế xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này đã được đổi mới, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước và chức năng kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Nhà nước thống nhất xuất khẩu lao động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ chức kinh tế được nhà nước cấp giấy phép thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng ký kết với bên nước ngoài. Do vậy mà khắc phục được những khó khăn và đạt được một số kết quả khích lệ bước đầu và điều này được thể hiện rõ qua bảng số (4) kết quả xuất khẩu lao động dưới đây. Bảng số (4): Kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam từ 1991 - 1995. Đơn vị tính: (Người). Năm Số lượng Lao động XK Nữ Tỷ lệ (%) Nữ Lao động có nghề Tỷ lệ (%) lao động có nghề Tiền gửi về (USD) 1991 1.022 133 34,05 520 51,00 7.971.600 1992 810 79 33,33 423 52,22 14.289.600 1993 3.960 480 33,58 2.341 59,16 45.177.600 1994 9.230 980 41,60 4.679 50,69 109.200.000 1995 10.050 1.715 46,26 5.489 54.61 181.272.000 Tổng 25.072 3.387 13,51 13.452 53,65 357.910.800 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Hình (2): Mô tả kết quả Xuất khẩu lao động và chuyên gia Việt Nam thời kỳ (1991 - 1995). Qua kết quả xuất khẩu lao động thời kỳ từ 1991 – 1995 trên đây, ta nhận thấy một số vấn đề sau: Nhìn chung, số lượng lao động xuất khẩu của ta đưa đi hàng năm là rất thấp so với các năm xuất khẩu trong thời kỳ trước, đồng thời số lượng lao động xuất khẩu cũng không cố định mà luôn có sự biến đổi theo từng năm cụ thể. Số lượng lao động xuất khẩu thấp nhất trong thời kỳ này là năm 1992, ta chỉ đưa đi được 810 lao động; trong đó có 79 người là lao động Nữ, chiếm 33,33% và 423 lao động đã có tay nghề, chiếm 52,22% trong tổng số lao động được đưa đi năm 1992. Năm 1991 được coi là năm có tiến bộ hơn, nhưng số lượng lao động đưa đi cũng chỉ dừng lại ở con số 1.022 lao động; Trong đó, 133 lao động Nữ, chiếm 34.05% và 520 người là lao động đã qua đào tạo, chiếm 51% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1991. Tình trạng trì trệ này đã được khắc phục bằng các kết quả số lượng lao động xuất khẩu tăng dần trong các năm từ 1993 – 1995. Năm 1993 ta xuất khẩu được 3.960 lao động; trong đó có 480 lao động Nữ, chiếm 33,58% và 2.341 lao động có nghề, chiếm 59,16% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1993. Năm 1994 ta xuất khẩu được 9.230 lao động; trong đó có 980 lao động Nữ, chiếm 41,60% và 5.489 lao động có tay nghề, chiếm 50,69% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1994. 10.050 là con số lao động xuất khẩu cao nhất mà xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được trong cả thời kỳ; trong đó có 1.715 người là lao động Nữ, chiếm 46,26% và 5.489 lao động đã có nghề, chiếm 54,61% trong tổng số lao động đã được đưa đi trong năm 1995. Số liệu cũng cho thấy: tỷ lệ (%) lao động Nữ còn rất thấp so với tổng số 25.072 lao động được đưa đi trong cả thời kỳ, khoảng 3.387 người, chiếm 13,51%. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động có tay nghề lại tăng lên đáng kể, khoảng 13.452 người, chiếm 53,65%. Như vậy, tỷ lệ lao động có tay nghề trong thời kỳ này cao hơn hẳn so với thời kỳ đầu 1980 – 1990 là 11,59% còn tỷ lệ (%) lao động Nữ lại giảm xuống, khoảng 24,75% so với thời kỳ đầu. Về phân bố của lao động Việt Nam tại thị trường các nước trên, được thể hiện qua bảng số(5) dưới đây: Bảng số (5): Phân bố lao động Việt Nam tại các quốc gia từ 1991 - 1995. Đơn vị tính: (Người). Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam Tổng số Lao động tiếp nhận Trong đó Nữ Tỷ lệ (%) Nữ Lao động có nghề Tỷ lệ (%) lao động có nghề Hàn Quốc 11.512 2.603 22,61 5872 51,00 Libya 6.183 0 0 3287 53,16 Lào 2.966 166 5,59 2370 79,90 Nhật Bản 1.499 145 9,67 97 6,47 LB Nga 750 0 0 525 70,00 CH Séc 433 212 48,96 345 79,67 Ăngôla 157 57 36,30 157 100 Singapore 163 23 14,11 125 76,68 Li Băng 123 116 94,30 79 64,22 Đài Loan 124 0 0 75 60,48 Malaysia 70 58 82,85 43 61,42 Ba Lan 41 7 17,07 21 51,21 Các nước khác 1.051 0 0 456 43,38 Tổng 25.072 3.387 13,51 13452 53,65 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Có thể nói, mật độ phân bố của lao động Việt Nam ta trên các thị trường là khá đa dạng. Trong đó bao gồm cả những nước trước kia vốn dĩ là thị trường truyền thống của ta và lao động Việt Nam bước đầu đã tiếp cận được với các thị trường mới trong khu vực cũng như trên thế giới. Số liệu cũng cho thấy lao động của ta chủ yếu tập trung ở một số các thị trường mới(1) Từ 1000 lao động trở lên. như: Hàn Quốc 11.512 lao động, Libya 6.183 lao động, Lào 2.966 và Nhật Bản là 1.499 lao động. Trong các thị trường còn lại, riêng hai thị trường Đài Loan và Malaysia tuy số lượng lao động tiếp nhận chưa nhiều song cũng cho thấy đây là hai thị trường rất có triển vọng đối với lao động Việt Nam. Cũng giống như thời kỳ đầu, độ tuổi lao động xuất khẩu Việt Nam đã đưa đi trong thời kỳ này, vẫn chủ yếu nằm trong độ tuổi khoảng từ 18 – 40. Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên, được phản ánh trong bảng số (6) dưới đây: Biểu bảng (6): Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia từ 1991 - 1995 theo các nhóm ngành chính. Đơn vị tính: (Người). Ngành nghề Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam Tổng LĐ Lào Hàn Quốc Li bya Nhật Bản LB Nga CH Séc Singapore Ăn gôla Đài Loan Li Băng Malay sia Ba Lan Các NK Công nghiệp 12831 450 9678 0 1225 327 256 38 0 75 20 43 41 678 CN nặng 1991 150 572 0 850 125 76 15 0 20 7 13 17 146 CN nhẹ 10840 300 9106 0 375 202 180 23 0 55 13 30 24 532 Xây dựng 8918 1125 1200 6183 150 100 120 0 0 25 0 15 0 0 Dịch vụ 197 0 0 0 0 45 0 85 0 0 35 0 0 32 Nông nghiệp 170 0 0 0 0 0 0 0 125 0 45 0 0 0 Lâm nghiệp 1275 1275 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Các ngành khác 1681 116 634 0 124 278 57 40 32 24 23 12 0 341 Tổng 25072 2966 11512 6183 1499 750 433 163 157 124 123 70 41 1051 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Qua số liệu thống kê về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia thời kỳ 1991 – 1995 trên đây cho thấy: Nhìn chung, phần lớn cơ cấu ngành nghề chưa đa dạng hơn so với thời kỳ đầu từ 1980 – 1990. Lao động Việt Nam vẫn chủ yếu tập chung làm việc trong các lĩnh vực: Công nghiệp(1) Bao gồm cả Công nghiệp nặng và Công nghiệp nhẹ. ) 1.2831 lao động, Xây dựng 8.918 lao động, Lâm nghiệp 1.275 lao động. Lao động làm việc trong các lĩnh vực: Nông nghiệp, Dịch vụ và các ngành khác là không đáng kể. Trong đó số lao động có nghề chiếm tỷ lệ khoảng 53,65%, chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Xây dựng và Công nghiệp. Số còn lại là lao động không nghề, chiếm 46,35% chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực(1) Bao gồm cả các lĩnh vực như Công nghiệp, Xây dựng, Lâm nghiệp, Dịch vụ... , phần công việc ít đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Các quốc gia có số lượng lao động tập trung lớn là: Hàn Quốc 11.512 lao động, tiếp đến là Libya 6.183 lao động, Lào 2.966 lao động… 2.2.3 Thời kỳ 1996 đến nay. 2.2.3.1 Chủ trương và mục tiêu. Bắt tay vào thời kỳ mới có tính quan trọng, vai trò của xuất khẩu lao động lại càng được coi trọng và tiếp tục được khảng định trong các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị định, Nghị quyết và Chỉ thị của Đảng và Nhà nước. Thể hiện chủ trương, mục tiêu chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của xuất khẩu lao động. Chủ trương. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhấn mạnh chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Nghị quyết TW 4 khoá VIII cũng chỉ rõ; mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và trên thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế trong nước tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật, dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, đồng thời kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động trái với những quy định của nhà nước. Ngày 20/9/1999 Chính phủ ra Nghị định số 152/NĐ - CP(2) Xem phụ lục số (3). về việc khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức Việt Nam trong nước và ngoài nước thông qua các hoạt động của mình, tham gia tìm kiếm, khai thác việc làm ở ngoài nước để mở rộng xuất khẩu lao động. Ngày 22/9/1998 Bộ Chính trị cũng đã ban hành chỉ thị số 41/CT – TW(3) Xem phụ lục số (4). về xuất khẩu lao động. Chỉ thị đã khảng định: xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế – xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước… cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chủ yếu thì xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Tại hội nghị về xuất khẩu lao động tháng 6/2000 được tổ chức tại Hà Nội, do Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải chủ trì, một lần nữa quan điểm của Đảng và Nhà nước lại tiếp tục được khảng định và nhấn mạnh: xuất khẩu lao động đối với chúng ta là một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Do đó, phải coi xuất khẩu lao động là một vấn đề quan trọng lâu dài của đất nước. Như vậy, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xuất khẩu lao động là hoàn toàn rõ ràng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước và cũng là phù hợp với xu hướng chung của hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm hướng tới mục tiêu kinh tế là phát huy mọi tiềm năng lao động và chất xám, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Mục tiêu. Đưa xuất khẩu lao động trở thành một lĩnh vực kinh tế xã hội, góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và đặc biệt là xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. 2.2.3.2 Kết quả xuất khẩu lao động. Thực hiện cơ chế đổi mới xuất khẩu lao động trong hơn 10 năm qua, đặc biệt là trong những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam đã đạt được một số thành tích đáng kể. Lao động Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các thị trường như Đông Bắc á, Đông Nam á, Trung Đông, Châu Phi, một số đảo thuộc Nam Thái Bình Dương và một số khu vực trên biển. Số lượng lao động đưa đi hàng năm tăng đều, từ 1996 đến tháng 10 năm 2003 xuất khẩu lao động Việt Nam đã đưa đi được tổng cộng 245.034 lao động, trong đó có 52.583 lao động Nữ, chiếm 21,46% trong tổng số lao động xuất khẩu và 129.184 lao động có tay nghề, đạt tỷ lệ 52,72% trong tổng số 245.034 lao động xuất khẩu trong cả thời kỳ. Tiến độ xuất khẩu được thể hiện cụ thể qua kết quả xuất khẩu lao động hàng năm trong bảng số (7) dưới đây. Bảng số (7): Kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam từ 1996 đến nay. Đơn vị tính: (Người). Năm Số lượng Lao động XK Nữ Tỷ lệ (%) Nữ Lao động có nghề Tỷ lệ (%) lao động có nghề Tiền gửi về (USD) 1996 12.660 2.088 16,49 7.251 57,27 249.139.800 1997 18.470 2.081 11,27 9.457 51,20 321.205.000 1998 12.240 1.447 11,82 6.178 50,47 341.874.000 1999 21.810 2.302 10,55 11.457 52,53 404.578.200 2000 31.500 4.165 13,22 16.412 52,10 505.950.400 2001 36.168 7.704 21,30 18.426 50,95 689.660.400 2002 46.122 10.556 22,89 26.875 58,27 1.400.000.000 2003 66.064 22.240 33,66 33.128 50,15 (*) Con số dự kiến đạt được trong năm 2003. 1.500.000.000 Tổng 245.034 52.583 21,46 129.184 52,72 5.412.407.800 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Hình (3): Mô tả kết quả Xuất khẩu lao động và chuyên gia Việt Nam Thời kỳ (1996 - Nay). Qua kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ từ 1996 – 2003 trên đây, ta nhận thấy một số vấn đề sau: Nhìn chung, kết quả xuất khẩu lao động của ta trong thời kỳ này là tốt hơn so với các thời kỳ trước. Số lượng lao động xuất khẩu giữa các năm không cố định, năm sau tăng cao hơn năm trước trung bình khoảng 27,54%. Mặc dù vậy, song xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này không phải là không gặp những khó khăn riêng do chịu tác động từ các yếu tố khách quan, dẫn tới làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xuất khẩu lao động của ta. Năm phải chịu tác động mạnh và có số lượng lao động xuất khẩu thấp nhất trong cả thời kỳ phải nói đến là năm 1998, chúng ta chỉ xuất khẩu được 12.240 lao động; trong đó có 1.447 người là lao động Nữ, chiếm 11,82% và 6.178 lao động có nghề, chiếm 50,47% trong tổng số lao động đưa đi năm 1998. Bên cạnh đó các năm: 1996, 1997 số lượng lao động xuất khẩu có cao hơn nhưng cũng không đáng kể. Từ năm 1999 trở đi, xuất khẩu lao động Việt Nam đã có dấu hiệu cho thấy dần ổn định trở lại và có xu hướng tăng trưởng mạnh và ổn định nhờ số lượng lao động đưa đi hàng năm không ngừng được nâng cao. Điều này thể hiện rất rõ nét trong hình (3) trên đây. Năm có số lượng lao động xuất khẩu cao nhất trong cả thời kỳ phải nói đến là năm 2002 với tổng số lao động xuất khẩu đạt được là 46.422 lao động; trong đó có 10.556 lao động Nữ, chiếm 22,89% và 26.875 lao động có nghề, chiếm 58,27% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 2002. Đặc biệt nhất là năm 2003, tính đến hết ngày 31 tháng 10 ta đã xuất khẩu được 66.064 lao động, cao nhất trong cả thời kỳ. Con số này sẽ còn bị thay đổi lớn trong vòng hai tháng cuối năm. Trong số 66.064 lao động đưa đi, có 22.240 lao động Nữ, chiếm 33,66% và 33.128 lao động đã qua đào tạo nghề, chiếm 50,15% trong tổng số lao động được đưa đi trong 10 tháng năm 2003. Số liệu cũng cho thấy, số lượng lao động Nữ và lao động có tay nghề được đưa đi ngày một nhiều. Tuy nhiên, tỷ trọng giữa lao động Nữ so với tổng số lao động xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp, chiếm 21,46%, trong khi đó mục tiêu đặt ra là phải đưa tỷ trọng Nữ lao động trong lao động xuất khẩu lên mức từ 40 – 45%. Tỷ trọng giữa lao động có nghề và lao động không nghề vẫn được duy trì trong khoảng từ 50 – 55%. So với thời kỳ đầu (1980 – 1990) thì tỷ trọng này là khá cao và có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe thực tế của chủ sử dụng lao động và xu hướng của thị trường, đòi hỏi xuất khẩu lao động Việt Nam cần phải có những hướng phát triển cả về lượng và chất. Bảng số (8): Phân bố lao động Việt Nam tại các quốc gia từ 1996 - Nay. Đơn vị tính: (Người). Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam Tổng số Lao động tiếp nhận Trong đó Nữ Tỷ lệ (%) Nữ Lao động có nghề Tỷ lệ (%) lao động có nghề Lào 62.321 690 1,11 41.568 66,69 Malaysia 56.512 11.336 20,06 35.622 63,03 Hàn Quốc 33.437 9.435 28,22 20.256 60,57 Đài Loan 52.766 24.101 45,68 11.871 22,49 Nhật Bản 16.176 5.444 33,65 12.567 77,68 LB Nga 6.943 17 0,245 1.762 25,37 Libya 6.630 0 0 4.510 68,02 Singapore 569 0 0 470 82,60 CH Séc 293 48 16,38 128 43,68 Ba Lan 134 30 22,39 45 33,58 Ăngôla 57 18 31,58 57 100 Các nước khác 9.196 1.464 15,92 328 3,56 Tổng 245.034 52.583 21,46 129.184 52.72 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Như vậy, qua số liệu phân bố của lao động Việt Nam tại các nước trong thời kỳ này trên đây cho thấy: Các nước trước kia vốn là các thị trường truyền thống của lao động Việt Nam, thì nay đang có nguy cơ bị thu hẹp dần, do nhu cầu về lao động giảm, thậm chí một số nước trong những năm gần đây, đã ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam. Các nước khác vẫn còn tiếp nhận lao động Việt Nam nhưng với số lượng không đáng kể và mức độ tiếp nhận cũng không phải là thường xuyên. Số liệu cũng cho thấy, phần lớn lao động của ta chủ yếu tập trung tại các nước trong khu vực như: Lào 62.321 lao động; trong đó 680 người là lao động Nữ. Malaysia 56.512 lao động; trong đó 11.336 người là lao động Nữ. Đài Loan 52.766 lao động; trong đó 24.101 người là lao động Nữ. Hàn Quốc 33.437 lao động trong đó 9.435 người là lao động Nữ. Nhật Bản 16.176 lao động; trong đó 5.444 người là lao động Nữ. có thể coi đây là những thị trường chính, thu hút và tiếp nhận chủ yếu nguồn lao động xuất khẩu của Việt Nam hiện tại cũng như trong những năm tới. Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên, được thể hiện trong bảng số (9) dưới đây: Bảng số (9): Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia từ 1991 - Nay theo các nhóm ngành chính. Đơn vị tính: (Người). Ngành nghề Tổng LĐ Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam Lào Malay Sia Hàn Quốc Đài Loan Nhật Bản LB Nga Libya Singa Pore CH Séc Ba lan Ăngô la Các NK Công nghiệp 115.442 6358 36527 21962 33563 12427 1200 0 0 112 75 0 3218 Công nghiệp nặng 48.291 4312 12467 10057 12456 6428 685 0 0 68 56 0 1762 Công nghiệp nhẹ 67.169 2064 24060 11905 21107 5999 515 0 0 44 19 0 1456 Xây dựng 60.250 25871 11028 2145 8573 3542 0 6630 0 50 0 0 2411 Dịch vụ 6.320 755 0 320 0 0 3258 0 365 0 0 0 1622 Nông nghiệp 90 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 45 45 Lâm nghiệp 17.720 17465 255 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Các ngành khác 45.212 11872 8702 9010 10630 207 2485 0 204 131 59 12 1900 Tổng 245.034 62321 56512 33437 52766 16176 6943 6630 569 293 134 57 9196 Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH. Qua bảng số liệu thống kê về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên đây thời kỳ 1996 – Nay cho thấy: Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu tập chung vào các lĩnh vực chính đó là Công nghiệp và Xây dựng. Các ngành khác như: Dịch vụ, Lâm nghiệp, Nông nghiệp có số lượng lao động làm việc không đáng kể. Ngành có số lượng lao động tập trung ít nhất là lĩnh vực Nông nghiệp với số lượng không đáng kể, khoảng 90 lao động, bằng 0,036%, cho thấy đây là ngành kém hấp dẫn và nhu cầu tiếp nhận không nhiều. Lĩnh vực có số lượng lao động tập trung cao nhất phải nói đến là Công nghiệp, khoảng 115.442 lao động, chiếm 47,11% trong tổng số lao động các ngành nghề. Ngoài ra Xây dựng là ngành có số lượng lao động làm việc đứng thứ hai, khoảng 60.250 lao động, chiếm 24,58%. Bên cạnh đó, các ngành khác chiếm một lượng lao động cũng khá đông, khoảng 45.212 lao động, chiếm 18,45%. Số liệu cũng cho thấy, các ngành Công nghiệp, xây dựng có số lượng lao động tập trung đông, chủ yếu ở các nước: Lào, Malaysia, Hàn quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Libya. Các nước còn lại là không đáng kể. 2.3 Thành công và hạn chế trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. 2.3.1 Những thành công. Thực tiễn cho thấy công tác xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời gian qua là một hoạt động mang tính kinh tế - xã hội, đóng một vai trò quan trọng, thiết thực trong chương trình quốc gia về giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Qua đó được thể hiện và ghi nhận trong các điểm sau: 2.3.1.1 Xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm. Thực tế cho thấy, thông qua các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hàng năm Việt Nam đã đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trung bình khoảng 30.630 người/năm(1) Số liệu được tính từ năm 1996 đến tháng 10 năm 2003. . Trong đó, năm 1996 đưa đi được 12.660 người, năm 97 là 18.470 người bằng 145,89% so với năm 96, năm 98 là 12.240 người bằng 66,27% so với năm 97, năm 99 là 21.810 người bằng 178,18% so với năm98, năm 2000 là 31.500 người bằng 144,4% so với năm 99, năm 2001 là 37.000 người bằng 117,4% so với năm 2000, năm 2002 là 46.122 người bằng 123,65% so với năm 2001, năm 2003 dự kiến đưa đi 50.000 người bằng 108,4% so với năm 2002. Tuy nhiên tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2003 số lao động ta đưa đi đã vượt quá con số lao động dự kiến xuất khẩu trong năm, bằng 143,23% so với năm 2002, đưa tổng số lao động Việt nam đang làm việc ở nước ngoài lên khoảng 40 vạn tại 40 nước và vùng lãnh thổ với 30 nhóm ngành nghề thuộc các lĩnh vực: Xây dựng, Cơ khí, Điện tử, Dệt may, Chế biến hải sản, Vận tải biển, Đánh bắt hải sản, Dịch vụ, Chuyên gia y tế, Giáo dục, Nông nghiệp… Song song với việc giải quyết việc làm cho chính người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chính xuất khẩu lao động cũng là tác nhân tích cực kích cầu trong sản xuất và tiêu dùng trong nước. Với hơn 4,6 vạn lao động dưa đi trong năm 2002, đã kéo theo giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động trong nước do mua sắm tư trang: đồ may mặc, giầy dép, va ly, túi xách tay… chỉ riêng chi phí cho tư trang trước khi xuất cảnh, xuất khẩu lao động đã đóng góp cho sản xuất trong nước khoảng hơn 25 tỷ đồng(2) Báo lao động xuân 2003. , chưa kể đến chi phí cho đi lại, vân chuyển bằng hàng không. Bên cạnh đó, sau khi hết hạn trở về, một số bộ phận người lao động dựa vào vốn tự kiếm được và kinh nghiệm nghề nghiệp của mình tự hành nghề, lập xưởng sản xuất, lập trang trại, mua sắm tàu thuyền đánh bắt hải sản… tự quản lý, sản xuất, kinh doanh tạo thêm nhiều việc làm cho người khác. Như vậy bằng xuất khẩu lao động, đã góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận không nhỏ người lao động trong nước, làm giảm được sức ép thất nghiệp, ở nông thôn cũng như thành thị. 2.3.1.2 Xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập cho người lao động và ngoại tệ cho đất nước. Người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thường có thu nhập cao, khoảng từ 6 - 10 lần so với thu nhập từ việc làm trong nước. Bình quân thu nhập cầm tay(1) Kể cả tiên lương làm thêm giờ. của người đi xuất khẩu lao động khoảng 400USD/tháng. Ước tính từ năm 1996 đến nay, số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế mới đã chuyển về nước khoảng 220 triệu USD/năm. Ngoài ra, còn có khoảng 20 vạn lao động đang làm việc ở nước ngoài gồm những nước đi lao động theo hiệp định cũ (1980 - 1990), những người sang Liên Xô cũ và Đông Âu làm việc theo nhiều hình thức khác nhau đã chuyển về nước khoảng 1 tỷ USD/năm. Đời sống của người đi xuất khẩu lao động được cải thiện và cũng là giải pháp nhanh nhất để xoá đói giảm nghèo. 2.3.1.3 Xuất khẩu lao động góp phần tiết kiệm chi phí đào tạo, nâng cao tay nghề và phát triển nguồn nhân lực. Trong điều kiện hiện tại, thời gian đổi mới nền kinh tế của Việt Nam chưa lâu, điều kiện kinh tế nước nhà còn hạn hẹp, hàng năm nhà nước phải bỏ ra hàng chục nghìn tỷ đồng kinh phí cho đào tạo nghề nghiệp và nâng cao tay nghề cho người lao động. Hàng loạt các trung tâm, các trường trung học dạy nghề được mở ra xong vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tế nên ta chưa có điều kiện để đào tạo cho hầu hết mọi đối tượng lao động trong nước. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu lao động ngoài mục đích giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập cho người lao động còn có một số nhiệm vụ quan trọng khác là: qua lao động ở nước ngoài, người lao động tiếp thu kinh nghiệm quản lý, sản xuất tiên tiến, nâng cao, trình độ tay nghề, nghiệp vụ của mình cũng như rèn luyện tác phong và kỷ luật công nghiệp, kể cả trình độ ngoại ngữ, góp phần cải thiện và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Sau khi về nước chính họ sẽ trở thành một nguồn lao động có kỹ năng, trình độ nghề nghiệp cao… bổ sung vào lực lượng lao động có trình độ cho các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp trong nước… 2.3.1.4 Xuất khẩu lao động góp phần củng cố các mối quan hệ và hội nhập Quốc tế. Ngoài những giá trị thiết thực mang lại cho đất nước, xuất khẩu lao động còn góp phần tích cực, quan trọng trong việc củng cố các mối quan hệ tại những nơi lao động ta đến làm việc. Thông qua người lao động, công nhân các nước cùng làm việc và người dân bản xứ có thể tìm hiểu về đất nước, con người cũng như truyền thống văn hoá Việt Nam. Từ đó làm cho các mối quan hệ ngày càng trở nên gắn bó mật thiết hơn. Ngoài các mối quan hệ của người lao động ra thì các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa nhà nước với nhà nước cũng không ngừng được cải thiện. Do vậy xuất khẩu lao động một mặt đem lại những lợi ích kinh tế, xã hội to lớn, nhưng mặt khác lại góp phần củng cố các mối quan hệ hợp tác cũng như hội nhập quốc tế. 2.3.2 Những tồn tại và hạn chế trong quá trình thực hiện xuất khẩu lao động trong những thời kỳ qua. 2.3.2.1 Những hạn chế về chính sách xuất khẩu lao động. Ngoài những kết quả tích cực đã đạt được trong thời gian qua, công tác xuất khẩu lao động Việt Nam vẫn còn chưa tương xứng với yêu cầu và tiềm năng vốn có của ta do những nguyên nhân đã và đang tồn tại sau: Về quản lý Nhà nước. Hệ thống các văn bản pháp luật còn thiếu một số chính sách, cơ chế cụ thể để điều chỉnh và quản lý chặt chẽ xuất khẩu lao động như chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, nhất là tiếp cận các thị trường mới, chính sách tín dụng cho người lao động khi tham gia xuất khẩu, chính sách miễn giảm thuế… nên dẫn tới việc kém thu hút mọi tầng lớp tham gia xuất khẩu. Việc tổ chức quản lý chưa chặt chẽ, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ quan chức năng. Các Bộ ngành, Địa phương chưa quan tâm quản lý, chỉ đạo các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực thuộc. Vẫn còn tồn tại tình trạng cạnh tranh không lành mạnh: Tranh giành đối tác bằng cách phá giá giữa các doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động và lợi ích quốc gia. Chưa phát hiện và xử lý kịp thời tình trạng dẫn dắt, “cò mồi” tiêu cực, lừa đảo diễn ra trên nhiều địa bàn gây xôn xao dư luận. Chưa đầu tư thoả đáng cho khâu phát triển thị trường: Nhà nước, các Bộ, Ngành, Địa phương chưa thực sự quan tâm, đầu tư tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia như đầu tư xuất khẩu hàng hoá, mà đáng lẽ nó phải được quan tâm và đầu tư hơn nữa. Khả năng tiếp cận với nước ngoài của ta đã còn yếu, thị phần của ta còn rất nhỏ bé so với thị phần của các nước có lao động xuất khẩu khác. Thủ tục hành chính còn rườm rà: Việc thực thi công vụ của một số cán bộ ở địa phương, chưa thực sự tận tâm, thậm chí có nơi còn gây khó dễ, tốn kém, tiêu cực cho người lao động nhất là ở khâu xác nhận thủ tục giấy tờ lý lịch tư pháp và thủ tục xin cấp hộ chiếu. ở nước ngoài còn thiếu một hệ thống tùy viên lao động tại những địa bàn có nhiều lao động làm việc hoặc có khả năng tiếp nhận lao động. Công tác thông tin tuyên truyền về xuất khẩu lao động còn hạn chế dẫn đến tình trạng phần đông người lao động bị thiếu thông tin nên khả năng người lao động tự liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp xuất khẩu lao động là khó khăn, dẫn tới tình trạng là doanh nghiệp cần tuyển người thì không có trong khi đó người cần đi xuất khẩu lao động thì không biết đâu có nhu cầu để mà đến tuyển nên không ít trường hợp đáng tiếc người lao động bị kẻ xấu lừa đảo đã xảy ra gây tâm lý hoang mang cho người lao động và xã hội. Về các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn thụ động, trông chờ vào đối tác, thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm về quản lý lao động, thị trường. Chưa chấp hành nghiêm túc các quy định hiện hành về chế độ tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng, công khai tài chính, quản lý và bảo vệ người lao động ở nước ngoài. Việc tuyển chọn lao động tại một số doanh nghiệp còn quá vòng vèo, phải qua nhiều khâu trung gian, thậm chí cả “cò mồi” làm cho người lao động phải chịu nhiều chi phí trái với quy định. Về chất lượng nguồn lao động và công tác đào tạo. Phần lớn chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của ta còn thấp so với yêu cầu của chủ sử dụng lao động, nhất là ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất hiện đại. Một số loại lao động kỹ thuật nước ngoài có nhu cầu tuyển dụng nhưng ta vẫn chưa có đủ để đáp ứng. Một bộ phận người lao động của ta còn chưa ý thức rõ được mối quan hệ chủ – thợ, ý thức kỷ luật lao động và chấp hành hợp đồng đã ký kết kém, nhiều trường hợp đã tự bỏ hợp đồng lao động trốn ra ngoài sống và lao động bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lao động và thị trường lao động của Việt Nam. Về trách nhiệm của các Bộ, Ngành và Địa phương. Thực tế đã chứng minh, trong một thời gian dài, các Bộ, Ngành và Địa phương chưa liên kết một cách chặt chẽ trong việc phối kết hợp cùng với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý, kiểm tra, thanh tra cũng như chấn chỉnh lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực thộc trong việc chấp hành pháp luật, quy định về xuất khẩu lao động và tổ chức thực hiện hợp đồng để uốn nắn hoặc xử lý kịp thời các vi phạm, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động và trật tự an ninh xã hội. 2.3.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế. Thủ tục hành chính còn rườm rà. Chưa có sự phối kết hợp linh hoạt chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành và Địa phương. Nhận thức của nhà quản lý còn giản đơn, chủ quan, chậm tổng kết rút kinh nghiệm để nhanh chóng thích ứng với tình hình mới. Chưa thực sự chú trọng tới hoạt động Marketing phát triển và mở rộng thị trường ở nước ngoài cũng như tạo nguồn lao động trong nước phục vụ xuất khẩu. Chương 3 một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới 3.1 Dự báo thị trường, cơ hội, thách thức và khả năng tiếp cận của lao động Việt Nam trong thời gian tới. 3.1.1 Về tình hình thị trường lao động Quốc tế. Trong những năm gần đây, vì những lý do khách quan khác nhau, thị trường sức lao động thế giới vẫn tồn tại và sẽ còn tiếp tục tồn tại trong một thời gian dài. Trước những biến động phức tạp do sự vận động, đổi mới không ngừng của cơ cấu nền kinh tế thế giới dẫn đến việc di chuyển vốn đầu tư và chính sách xuất nhập khẩu sức lao động của các nước cũng có nhiều thay đổi. Do vậy nên thị trường sử dụng lao động nước ngoài trong khu vực và trên thế giới trong những năm qua và thời gian gần đây đã có những thay đổi căn bản về nhu cầu sử dụng cũng như chất lượng và cơ cấu lao động tiếp nhận. Điều này, được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất: Hầu hết các nước tiếp nhận lao động nước ngoài đều thường xuyên quan tâm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tập trung đầu tư đổi mới và hiện đại hoá công nghệ sản xuất. Đòi hỏi cần phải có đội ngũ lao động có trình độ, chất lượng tương ứng để vận hành và sản xuất. Do vậy đã dẫn tới một hệ quả là: Làm giảm đáng kể nhu cầu về sử dụng lao động giản đơn của nước ngoài nên giá thuê nhân công cũng sẽ bị giảm theo. Thứ hai: Vì mục tiêu siêu lợi nhuận và do giá thuê nhân công nội địa cao, hầu hết các nước phát triển đã và đang chuyển dịch đầu tư vốn và công nghệ sản xuất sang các nước có trình độ, công nghệ sản xuất kém hơn và giá nhân công, dịch vụ thấp hơn. Thứ ba: Thị trường lao động quốc tế vẫn có và tiếp tục có nhu cầu lớn về sử dụng nguồn lao động nước ngoài. Tuy nhiên phần lớn chỉ tập trung chủ yếu vào một số các lĩnh vực là: Lao động giản đơn (lương thấp). Lao động nặng nhọc (môi trường làm việc kém vệ sinh). Lao động dịch vụ và giúp việc gia đình. Lao động kỹ thuật cao và chuyên gia trong một số ngành sản xuất kinh doanh, kể cả chuyên gia phần mềm tin học… Lao động trên biển gồm Sỹ quan, Thuỷ thủ vận tải biển và Lao động đánh bắt hải sản. Thứ tư: Các nước đang phát triển có lao động dư thừa sẽ tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nên sự cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động ngày càng trở nên gay gắt. 3.1.2 Về tình hình cụ thể của từng thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới. 3.1.2.1 Thị trường khu vực Đông Nam á. Thị trường khu vực Đông Nam á là một thị trường gần gũi về khoảng cách địa lý, có nhiều điểm tương đồng về phong tục tập quán, hơn nữa Việt Nam lại là thành viên của hiệp hội tổ chức các nước ASEAN. Sự hợp tác giữa nước ta với các nước trong khu vực có nhiều thuận lợi và có chiều hướng phát triển khá tốt đẹp. Thị trường này được chia làm hai nhóm: Nhóm các nước tiếp nhận lao động nước ngoài gồm: Malaysia, Singapore, Brunei, Lào và Campuchia. Nhóm xuất khẩu lao động gồm: Philippin, Thái Land, Indonesia và Myanmar. Ngoại trừ thị trường Lào, các nước còn lại thường có chính sách ưu tiên tiếp nhận lao động theo đạo Hồi và có quan hệ lao động truyền thống. Tuy nhiên, tình trạng này đã được cải thiện bước đầu do các nước tiếp nhận lao động đã có chính sách tiếp nhận thí điểm lao động Việt Nam, đặc biệt là thị trường Malaysia. Cho đến nay, thị trường Malaysia đã kết thúc tiếp nhận thí điểm lao động Việt Nam và đang bước vào giai đoạn tiếp nhận chính thức. Dự kiến nếu không có biến động khách quan, hàng năm thị trường này tiếp nhận khoảng 100.000 lao động/năm. 3.1.2.2 Thị trường khu vực Đông Bắc á. Là một trong những khu vực có quy mô tiếp nhận lao động nước ngoài rất lớn và là nơi tập trung lao động của hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực. Điều đáng chú ý là cả 3 thị trường lao động: Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đều được các nước xuất khẩu lao động đặc biệt quan tâm, khai thác triệt để. Các thị trường này chủ yếu tiếp nhận lao động nước ngoài cho các lĩnh vực: Công nghiệp, xây dựng, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản, giúp việc gia đình(1) Tên trong ngành thường gọi là (Ôsin). , thu nhập cao, điều kiện làm việc, phong tục tập quán phù hợp với Việt Nam. Quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ – thuật giữa nước ta với khu vực này đang ở trong giai đoạn phát triển tốt đẹp. Điều này được thể hiện qua việc họ đã nhận một số lượng lớn lao động của Việt Nam, chiếm khoảng hơn 40% đứng đầu trong số các nước có lao động xuất khẩu vào thị trường này và hiện đang có khả năng tiếp nhận thêm nhiều lao động trong thời gian tới. 3.1.2.3 Thị trường khu vực Trung Đông. Các nước nằm trong khu vực này hàng năm, có nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài rất lớn khoảng từ 9 – 10 triệu lao động. Tập trung chủ yếu vào các nước như: ả rập Sau đi, Tiểu Vương quốc ả rập thống nhất (UAE), Cô Oét, Li Băng, Irắc… Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ các cuộc chiến tranh Irắc vừa qua đã làm cho khả năng tiếp nhận lao động nước ngoài của các nước trong khu vực bị trững lại. Tuy nhiên, một khi chiến tranh kết thúc và đi vào ổn định thì các nước này lại có khả năng tiếp nhận trở lại với số lượng lao động lớn hơn, đặc biệt là thị trường Irắc do phải tái thiết lại đất nước sau chiến tranh. Đặc điểm và yêu cầu của thị trường này: Đa dạng về ngành nghề: công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, may mặc, giúp việc gia đình... Điều kiện làm việc khắt khe, khí hậu và môi trường sinh hoạt khắc nghiệt, Lương thấp nhưng lại phải chịu nhiều loại thuế. Phong tục tập quán: Đạo Hồi, phong tục nghiêm ngặt, khắt khe, hà khắc. Quan hệ ngoại giao giữa nước ta với các nước vùng Vịnh chưa phát triển. 3.1.2.4 Thị trường khu vực Châu Phi. Hiện tại, thị trường này có khả năng tiếp nhận lao động nước ngoài chủ yếu là thông các dự án xây dựng. Những nước có khả năng tiếp nhận lao động chủ yếu vẫn là Lybia và Angieri. - Tại thị trường Libya: Ta có thể tiếp tục duy trì và mở rộng thêm số lượng lao động ta cung ứng cho các hãng thầu nước ngoài, đồng thời tìm kiếm nhận thầu hoặc thầu phụ công trình. - Tại thị trường Angieri: Vẫn có nhu cầu tiếp nhận chuyên gia Ytế, giáo dục, nông nghiệp sử dụng tiếng pháp. Tại đây còn có rất nhiều công trình xây dựng lớn đang và sẽ được đấu thầu. Nếu các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam nhận thầu thì lao động của Việt Nam mới có khả năng tiếp cận vào thị trường này với số lượng lớn thông qua hình thức nhận thầu trên. - Các nước Châu Phi khác: Angola, Congo, Madagasca, Senegal… trước đây nhận lao động của ta trong các lĩnh vực: Y tế, giáo dục, nông nghiệp, tuy số lượng tiếp nhận không nhiều nhưng họ vẫn có nhu cầu tiếp nhận trở lại một khi tình hình chính trị của các nước ổn định trở lại. 3.1.2.5 Thị trường các khu vực trên Biển. Nhu cầu sĩ quan và thủy thủ vận tải biển, thuyền viên đánh bắt thủy hải sản ngày một gia tăng ở Châu Âu, Châu Mỹ và cả ở Châu á. Đây là loại hình lao động đặc thù, yêu cầu trình độ tay nghề cao và dầy dặn kinh nghiệm, chịu đựng được gian khổ, kỷ luật nghiêm ngặt, khả năng chịu đựng cao. Tuy nhiên, thu nhập lại khá cao, ổn định nhưng thời gian lao động lại không ổn định, công việc nặng nhọc, thường xuyên lênh đênh trên biển, ít có điều kiện tiếp xúc với cộng đồng nên rất dễ đưa người lao động đến chỗ buồn tẻ, nhàm chán công việc… Có thể nói đây cũng là một thị trường đầy triển vọng đối với lao động Việt Nam trong thời gian tới. 3.1.2.6 Thị trường các khu vực khác. Các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu cũ. Các nước Liên Xô và Đông Âu cũ hiện đang có hàng chục vạn người Việt Nam sinh sống và làm việc. Một bộ phận trong số này đã tạo điều kiện cho thân nhân của họ sang làm ăn, buôn bán. Cần phải có những chính sách ổn định và phát triển theo hình thức cá nhân. Các nước trong khối EU. Các nước trong khối EU chỉ có chủ trương sử dụng lao động trong cộng đồng với các yêu cầu về chất lượng lao động rất cao, hơn nữa mới chỉ có 3 nước là Anh, Đức, Pháp hiện đang có chủ trương chính sách thu hút và tiếp nhận lao động lập trình viên quốc tế. Đức là nước đầu tiên, mở cửa tiếp nhận khoảng 20.000 lập trình viên và hiện đang cần tiếp nhận 1,5 triệu lao động lành nghề nước ngoài cho các lĩnh vực: Tin học, xây dựng, công nghiệp nặng và chuyên viên ytế. Pháp đã có Đạo luật cho phép lao động các nước Thuộc địa cũ như Việt Nam, Lào, Campuchia… đến lao động tại Pháp mà không phải gặp trở ngại gì. Nhờ đạo luật này mà lao động Việt Nam đã tiếp cận được, nhưng số lượng đưa đi vẫn còn hạn chế. Hiện tại, lao động của Việt Nam ta chưa có khả năng thâm nhập rộng ra thị trường các nước trong EU. Theo dự báo của các chuyên gia thì, để đảm bảo cơ cấu lao động như hiện nay, các nước thuộc khối EU từ nay cho tới năm 2025 phải tiếp nhận thêm khoảng 159 triệu lao động. Như vậy thì lao động của ta có thể tiếp cận thị trường này sớm trong lĩnh vực công nghệ tin học nếu như Việt Nam có những ưu sách, chiến lược đầu tư và tiếp cận ngay từ bây giờ. Khu vực Bắc Mỹ và các khu vực do Mỹ uỷ trị. Đây là thị trường rộng lớn, tương đối chặt chẽ và rõ ràng về luật pháp, thu nhập đảm bảo. Đã và đang có một vài hợp đồng đưa lao động sang một số vùng lãnh thổ do Mỹ ủy trị nên rất có khả năng thí điểm và mở rộng trong thời gian tới. Tuy nhiên, lao động mà hai thị trường này tiếp nhận sẽ chủ yếu là lao động có trình độ cao, đặc biệt là chuyên gia công nghệ cao. Theo số liệu thống kê(1) Giáo trình Kinh doanh Thương mại Quốc tế trang “83” Trường ĐH Quản lý và Kinh doanh Hà Nội. năm 96 – 97, thị trường Mỹ thiếu 1.700 chuyên gia công nghệ cao, năm 98 thiếu 450.000 và năm 99 thiếu 850.000. Con số lao động thiếu hụt này đang gia tăng và còn tiếp tục gia tăng cao trong nhiều năm tới. Có thể cho rằng, đây cũng là một thị trường mục tiêu đầy tiềm năng đối với lao động Việt Nam trong tương lai. 3.1.3 Những cơ hội, thách thức và khả năng tiếp cận của lao động Việt Nam. Trước những biến động phức tạp kể cả về kinh tế lẫn chính trị trên thế giới và xu thế Toàn cầu hoá trong những năm qua đã tác động mạnh mẽ tới chính sách, xuất khẩu lao động của các nước có lao động xuất khẩu, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, những tác động này cũng sẽ mang đến cho xuất khẩu lao động Việt Nam nhiều cơ hội tốt, tạo điều kiện để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu lao động của mình. Bên cạnh đó, không phải là không có những khó khăn, thách thức nhất định, làm ảnh hưởng tới việc đẩy mạnh và mở rộng hợp tác trao đổi lao động giữa Việt Nam và các nước tiếp nhận trong khu vực cũng như trên thế giới. 3.1.3.1 Những cơ hội. Với lợi thế lớn về nguồn nhân lực: quy mô đứng thứ 120 trong gần 200 nước trên thế giới. Dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo, thông minh, nhanh nhẹn, khéo tay, cần cù chịu khó và có trình độ học vấn tương đối cao so với lao động của các nước cùng xuất khẩu. Hơn nữa, hình ảnh người lao động Việt Nam được giới chủ đánh giá rất cao so với lao động của các nước khác. Bằng những ưu điểm nổi trội này, chúng ta hoàn toàn có thể có khả năng đáp ứng được xu hướng cũng như nhu cầu khá khắt khe về lao động chất lượng cao, hiện tại cũng như trong thời gian tới nếu như chúng ta có những bước chuẩn bị hợp lý ngay từ bây giờ. 3.1.3.2 Thách thức. Do phải chịu áp lực rất lớn từ sự suy giảm kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, đã làm cho nhu cầu về lao động giản đơn giảm đáng kể, dẫn tới nhiều cơ hội việc làm ngoài nước của lao động giản đơn Việt Nam sẽ không còn. Hơn nữa lợi thế về giá nhân công Việt Nam rẻ đang bị mất dần(2) Xem phụ lục 2. và những hạn chế về thể lực, trình độ ngoại ngữ, ý thức kỷ luật lao động của lao động Việt Nam kém ngày càng trở nên là yếu điểm lớn so với lao động cùng loại của các nước. Để có thể có được việc làm phù hợp với trình độ, tất yếu dẫn đến cạnh tranh và sự cạnh tranh này càng trở nên gay gắt giữa lao động giản đơn của ta với lao động giản đơn của các nước. Đòi hỏi chúng ta phải có những đối sách khắc phục hợp lý và kịp thời. 3.1.3.3 Khả năng tiếp cận của lao động Việt Nam. Qua những phân tích, dự báo trên đây, đối chiếu với tình hình thực tại của lao động xuất khẩu Việt Nam cho thấy: khả năng tiếp cận các thị trường (EU, Bắc Mỹ, Singapore…) của lao động Việt Nam không phải là không có, nhưng không phải là trong ngày một ngày hai. Chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được mọi yêu cầu cũng như những tiêu chuẩn khắt khe của họ đặt ra, xong để làm được điều này vẫn còn phải phụ thuộc vào chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho các thị trường trên như thế nào mà thôi. Tuy nhiên, trước mắt và trong một vài năm tới, lao động của ta sẽ vẫn tiếp tục tập trung duy trì và mở rộng chủ yếu ở thị trường Đông Bắc và Đông Nam á. Trong đó thị trường (Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia) vẫn được coi là những thị trường chính đối với lao động Việt Nam, ít nhất là trong thời gian hiện tại. 3.2 Phương hướng xuất khẩu lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong những năm tới. 3.2.1 Phương hướng nhiệm vụ. Xuất khẩu lao động là nhiệm vụ Kinh tế, Chính trị có ý nghĩa chiến lược, là nhu cầu khách quan của nền kinh tế nước ta và xu thế toàn cầu hoá đồng thời, cũng là vấn đề bức xúc trước mắt về lao động và việc làm. Để có thể mở rộng xuất khẩu lao động với quy mô lớn, có chất lượng và hiệu quả cao trong những năm tới, công tác xuất khẩu lao động cần phải quán triệt và tổ chức thực hiện theo những định hướng sau: 3.2.1.1 Đầu tư mạnh cho xuất khẩu lao động trên các lĩnh vực. Phát triển thị trường. Đào tạo nguồn nhân lực, chuyên gia có kiến thức, trình độ tay nghề, ngoại ngữ. Bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước và doanh nghiệp xuất khẩu lao động. 3.2.1.2 Thực hiện đa dạng hoá. Đa dạng hoá về thị trường xuất khẩu lao động. Đa dạng hoá về cơ cấu ngành nghề xuât khẩu. Đa dạng hoá các hình thức và thành phần tham gia xuất khẩu lao động: Cung ứng lao động, hợp tác liên doanh, nhận thầu công trình, cho phép một số doanh tư nhân có đủ khả năng tham gia thực hiện xuất khẩu lao động. 3.2.1.3 Hoàn thiện thủ tục hành chính. Cải cách, hoàn thiện triệt để, tạo mọi điều kịên tốt nhất cho người lao động và doanh nghiệp, để giảm bớt những khó khăn về thời gian và tiền bạc của người lao động khi tham gia xuất khẩu. 3.2.1.4 Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu. Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, người lao động, Bộ, Ngành, Địa phương, Đơn vị… tổ chức đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu về tay nghề, ngoại ngữ, pháp luật… 3.2.1.5 Về mức phí xuất khẩu lao động. Tiếp tục sửa đổi đối với các chi phí đóng góp của người lao động trước khi đi và có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ tối đa cho những lao động thuộc diện đặc biệt: gia đình chính sách, người nghèo… nhằm làm giảm tối thiểu chi phí ban đầu và thu hút tối đa lực lượng lao động cho xuất khẩu trong nhân dân, đặc biệt là lao động ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. 3.2.2 Mục tiêu. Phấn đấu tăng quy mô xuất khẩu lao động từ năm 2010 trở đi luôn có khoảng 1 triệu lao động và chuyên gia có mặt và làm việc thường xuyên ở nước ngoài thay vì khoảng gần 40 vạn lao động đang làm việc tại hơn 40 quốc gia như hiện nay. Đến năm 2005 phấn đấu có khoảng từ 40 – 50 vạn lao động có mặt và làm việc ở nước ngoài. Trước mắt dự kiến trong năm 2003 phấn đấu xuất khẩu 5 vạn lao động và sẽ gia tăng dần về số lượng lao động đưa đi trong những năm sau lên 100.000 người/năm, để từ sau năm 2005, mỗi năm ta có thể đưa đi được từ 150.000 – 200.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. 3.3 Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam. 3.3.1 Kiến nghị đối với quản lý Nhà nước. 3.3.1.1 Hoàn thiện hệ thống các Văn bản pháp luật về xuất khẩu lao động. Nhà nước cần ban hành, sửa đổi và bổ sung một số cơ chế, chính sách là: Cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp: Tái đầu tư cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động từ nguồn thuế doanh thu phải nộp trong 5 năn để đầu tư phát triển thị trường và đào tạo nguồn xuất khẩu lao động. Hỗ trợ doanh nghiệp từ quỹ đầu tư phát triển cho mở rộng thị trường mới, đấu thầu các gói thầu lớn tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Hỗ trợ doanh nghiệp về đào tạo cán bộ quản lý. Cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu lao động áp dụng chi phí môi giới theo thông lệ quốc tế, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của thị trường tiếp nhận lao động và doanh nghiệp thoả thuận, cùng đóng góp. Nhà nước quy định và hướng dẫn khung, mức tối đa cho từng thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động tìm kiếm thị trường. Chính sách đối với người lao động đi xuất khẩu lao động: Ban hành chính sách tín dụng hỗ trợ đặc biệt cho người nghèo đi lao động xuất khẩu. Nhà nước phải có cơ chế cho vay với mức lãi suất thấp, hoặc bảo lãnh của cơ quan, chính quyền địa phương, tổ chức chính trị xã hội cho người nghèo vay vốn để họ trang trải những chi phí ban đầu. Sửa đổi và bổ sung chính sách và bảo hiểm xã hội cho người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hướng những người đã tham gia bảo hiểm xã hội thì tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội, đối tượng còn lại tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tiếp nhận lao động và chuyên gia hoàn thành hợp đồng về nước hoặc khuyến khích họ đầu tư vào sản xuất kinh doanh dịch vụ. Giảm phí chuyển tiền và miễn thuế đối với những mặt hàng tiểu nghạch cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng do người lao động mang về. Cấp hộ chiếu có ký hiệu riêng cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài dưới mọi hình thức và quản lý theo một quy trình riêng. 3.3.1.2 Thống nhất quản lý chặt chẽ trong xuất khẩu lao động. Nhà nước cần phải có những chính sách nhất quán, quản lý chặt chẽ mọi hình thức xuất khẩu lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và nâng cao uy tín của người lao động Việt Nam trên trường quốc tế. Đầu tư đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cán bộ quản lý nhà nước để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý và mở rộng thị trường trong tình hình mới. Đối với những nước có nhiều lao động Việt Nam đến làm việc, nhất thiết phải có Đại diện của doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước, để phối kết hợp quản lý lao động, nghiên cứu, phát triển thị trường… Tích cực thực hiện thí điểm, cho phép một số doanh nghiệp tư nhân được hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia trong khuôn khổ của pháp luật, dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, nhằm đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu lao động và chuyên gia. Tăng cường trách nhiệm của các Bộ, Ngành, Đoàn thể, Địa phương trong việc phát triển thị trường và xây dựng, quản lý các Doanh nghiệp xuất khẩu lao động. 3.3.1.3.1 Bộ Ngoại giao. Thông qua các hoạt động ngoại giao, đưa vấn đề hợp tác lao động vào nội dung chương trình làm việc tại các cuộc gặp gỡ, đàm phán song phương, đa phương giữa các nhà nước, đưa vào các Hiệp định, Văn kiện hợp tác Kinh tế – Văn hoá và Khoa học kỹ thuật. Chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thu thập thông tin, tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường lao động, tham gia quản lý nhà nước về lao động tại địa bàn. Phối Kết hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức khảo sát thị trường, xây dựng các Hiệp định hoặc các thoả thuận khung về hợp tác với lao động với các nước có nhu cầu tiếp nhận lao động, đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu lao động khảo sát, thẩm định các đối tác hợp tác. 3.3.1.3.2 Bộ Tài chính. Cần ban hành chính sách tái đầu tư thuế doanh thu xuất khẩu lao động cho các doanh nghiệp. Phối hợp cùng các Bộ, Ngành, Địa phương xây dựng quỹ phát triển thị trường lao động ngoài nước. Phối Kết hợp cùng với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định phí môi giới trong xuất khẩu lao động phù hợp với thông lệ quốc tế, tuỳ theo tình hình thị trường. 3.3.1.3.3 Ngân hàng. Tiếp tục triển khai và phát triển các chính sách, cơ chế tín dụng cho vay ưu đãi và tạo mọi điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho người nghèo, các đối tượng chính sách khi đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. 3.3.1.3.4 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Phối Kết hợp cùng với Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài lập kế và tổ chức triển khai kế hoạch khai thông quan hệ lao động, nhằm mở rộng thị trường lao động ngoài nước và xử lý các vấn đề liên quan tới lợi ích của người lao động và quốc gia. Nghiên cứu chính sách Bảo hiểm xã hội đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Phối hợp với các Bộ, Ngành, Địa phương, Đoàn thể, các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, tổ chức công tác đào tạo nguồn lao động và chuyên gia chất lượng cao. Tổ chức kiểm tra, thanh tra thường xuyên các hoạt động xuất khẩu lao động tại các doanh nghiệp, các tổ chức tham gia xuất khẩu lao động, nhằm phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các vi phạm thuộc quan hệ lao động. 3.3.1.3.5 Bộ Công an và Bộ Tư pháp. Tiếp tục cải cách thủ tục trong việc xác nhận Hồ sơ trong thời gia quy định cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài: + Xác nhận lý lịch tư pháp, phiếu làm Hộ chiếu ở cấp cơ sở. + Thủ tục, Hồ sơ xuất cảnh của thuyền viên. + Cấp Hộ chiếu với ký hiệu riêng cho lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Phối hợp với các Bộ, Ngành và Địa phương có liên quan kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật thuộc quan hệ dân sự. 3.3.1.3.6 Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chỉ đạo tăng cường chất lượng đào tạo ngoại ngữ ngay từ cấp học phổ thông, tạo cơ sở tốt về ngoại ngữ cho nguồn nhân lực khi tham gia xuất khẩu lao động. 3.3.1.3.7 Bộ Y tế. Chỉ đạo các Bệnh viện tăng cường nâng cao chất lượng khám sức khoẻ cho người đi xuất khẩu lao động. Thống nhất mức phí khám sức khoẻ và tổ chức khám chính xác, chặt chẽ, thuận tiện, kịp thời cho người lao động. 3.3.1.3.8 Bộ Văn hoá Thông tin. Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền đảm bảo khách quan, chính xác, có tác dụng thúc đẩy và phát triển xuất khẩu lao động, đảm bảo bí mật kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao động. 3.3.1.3.9 Các Bộ, Ngành, Đoàn thể và Địa phương có doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trên cơ sở hoạt động có hiệu quả và khả năng phát triển. Tăng cường quản lý, kiểm tra, thanh tra, nhằm ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hành vi, vi phạm trong hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp trực thuộc và tại địa bàn quản lý của mình. Thành lập quỹ phát triển thị trường lao động ngoài nước tại các Bộ, Ngành, Địa phương nhằm hỗ trợ cho các doanh ngiệp phát triển thị trường, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tham gia đấu thầu ở nước ngoài để tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Đầu tư đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ đáp ứng mở rộng thị trường và quản lý hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia. Chấn chỉnh, sắp xếp lại các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động tại các Bộ, Ngành, Địa phương theo hướng rà soát lại hoạt động của các doanh nghiệp, những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và các quy định về xuất khẩu lao động tiếp tục được đầu tư phát triển và ngược lại. Từng Bộ, Ngành, Tỉnh, Thành Phố, phải sắp xếp lại các đầu mối xuất khẩu lao động, đồng thời phải có biện pháp, cơ chế quản lý, xử lý thích đáng, kịp thời đối với các doanh nghiệp vi phạm và chọn lựa, bổ sung cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ tốt cho doanh nghiệp. Tăng cường quản lý, kiểm tra, thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trực thuộc trong việc ký kết, tổ chức thực hiện hợp đồng và chấp hành pháp luật, quy định về xuất khẩu lao động để kịp thời chấn chỉnh hoặc xử lý kịp thời các hành vi, vi phạm của doanh nghiệp, nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động và trật tự an ninh xã hội. 3.3.1.4 Tăng cường pháp chế và quản lý trong xuất khẩu lao động. Ban hành cơ chế, chính sách khen thưởng, xử phạt nghiêm minh đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động, đồng thời cũng phải xử lý nghiêm khắc, thậm chí buộc phải đưa về nước đối với các trường hợp không thực hiện tốt các cam kết hợp đồng và bỏ trốn khỏi doanh nghiệp ra sống lưu vong và làm việc bất hợp pháp. xử lý nghiêm đối với người lao động có hành vi vi phạm pháp luật: tự phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài lao động bất hợp pháp, coi thường kỷ luật lao động… gây hậu quả xấu đối với doanh nghiệp và nhà nước. Các trường hợp tự phá vỡ hợp đồng bỏ trốn ra ngoài sống lưu vong và lao động bất hợp pháp cần thiết phải có biện pháp ngăn chặn sau: + Kết hợp tổng hợp các biện pháp răn đe, tuyên truyền pháp luật đối với người lao động trước khi đi. + Phối kết hợp cùng chủ sử dụng lao động quản lý bản gốc Hộ chiếu và các giấy tờ liên quan khác của người lao động trong thời gian lao động ở nước sở tại. + quản lý chặt chẽ tiền lương của người lao động bằng cách không trực tiếp trả cho người lao động mà chuyển thẳng về doanh nghiệp. + Kết hợp cùng với các cơ qua hữu quan truy tìm đối với những lao động phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài sống lưu vong và lao động bất hợp pháp. Khi bắt được phải đưa ngay về nước để xử lý kịp thời hoặc xử lý tại nước sở tại nếu pháp luật nước đó quy định. + Đối với những trường hợp cố tình vi phạm gây hậu quả xấu, cần phải cương quyết xử lý bằng pháp luật và biện pháp kinh tế, cấm vĩnh viễn không được phép tái xuất khẩu lao động dưới bất cứ hình thức nào... Ban hành cơ chế, chính sách bồi thường đặc biệt đối với lao động bị lừa đảo hoặc bị đưa về nước mà không phải lỗi do người lao động gây ra. Đối với doanh nghiệp khi có lao động bị trả về nước: + Trước hết doanh nghiệp cần tìm hiểu, điều tra làm rõ lý do người lao động bị buộc phải về nước để có biện pháp xử lý cũng như bồi thường kịp thời. 3.3.1.5. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính về xuất khẩu lao động. Cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính ở cấp địa phương về xác nhận lý lịch tư pháp, phiếu xác nhận làm thủ tục Hộ chiếu… tránh phiền hà cho người lao động. Các thủ tục hồ sơ xuất cảnh của ngươi lao động phải theo nguyên tắc “một cửa”, thời hạn không kéo dài quát 5 ngày kể từ khi tiếp nhận hồ sơ của người lao động. Tổ chức thực hiên việc khám sức khoẻ cho người lao động phải thuận tiện, kịp thời, có cơ chế chịu trách nhiệm về vật chất đối với kết luận sức khoẻ của người lao động. 3.3.2 Đối với quản lý Doanh nghiệp. Vì đây là lực lượng nòng cốt, có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của hoat động xuất khẩu lao động và chuyên gia Việt Nam. Do đó đứng về phía Nhà nước, cần phải có những chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển phù hợp và tương xứng với vai trò của nó. Trước hết, cần phải trú trọng tới một số vấn đề sau: Tích cực đầu tư đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên liên tục, nâng cao trình độ, năng lực và bố trí cán bộ có phẩm chất chuyên môn tốt, đáp ứng nhiệm vụ mở rộng thị trường và quản lý xuất khẩu lao động và chuyên gia của doanh nghiệp. Tự chủ động nghiên cứu, khảo sát, tìm kiếm thị trường ký Kết hợp đồng với nước ngoài theo điều kiện chuẩn đối với từng thị trường và khu vực. Yêu cầu người lao động chủ động khám sức khoẻ nhằm phát hiện kịp thời bệnh tật trước khi tham gia xét tuyển. Tổ chức tuyển chọn trực tiếp đúng người, đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn… Cương quyết không tuyển lao động qua các trung gian, cò mồi lao động. Công khai các điều kiện về tuyển chọn, chi phí, đồng thời doanh nghiệp cần phải phối kết hợp với các chính quyền địa phương và các cơ quan đoàn thể, các ban nghành ở cơ sở, để tuyển chọn được những lao động có phẩm chất đạo đức tốt. Ưu tiên các đối tượng con em, gia đình chính sách, người nghèo đủ tiêu chuẩn, góp phần ổn định thường xuyên nguồn cung cấp lao động cho công tác xuất kẩu không bị gián đoạn do thiếu nguồn. Trú trọng tới việc đầu tư, tổ chức đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động trước lúc đi theo đúng nội dung, chương trình mà nhà nước đã quy định. Tổ chức chặt chẽ lực lượng lao động trước khi đưa đi, đồng thời phải tăng cường quản lý và xử lý kịp thời các vướng mắc, chanh chấp lao động trong quá trình người lao động làm việc ở nước ngoài, đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia xuất khẩu lao động. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tài chính, chế độ đăng ký thực hiện hợp đồng và chế độ thông tin báo cáo… 3.3.3 Đối với người lao động. Chủ động đến bệnh viện có uy tín khám và kiểm tra sức khoẻ, nhằm phát hiện kịp thời bệnh tật trước khi tham gia xét tuyển tránh lãng phí tiền bạc, thời gian. Tự chủ động tìm kiếm, liên hệ với cơ sở xuất khẩu lao động tin cậy, chủ động đầu tư, nâng cao nhận thức và ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm để có trình độ tay nghề, ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu, tìm hiểu pháp luật, chuẩn bị các điều kiện cần và đủ cho mình để tham gia xuất khẩu lao động một cách có hiệu quả. Nghiêm chỉnh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKQ72.doc
Tài liệu liên quan