Tài liệu Tìm hiểu văn hóa ứng xử với phụ nữ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du - Trần Thị Thu Hiền: 61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. MỞ ĐẤU
Có thể nói rằng, thơ chữ Hán (thể hiện qua ba
tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm
và Bắc hành tạp lục) của Nguyễn Du đã được
nghiên cứu sâu sắc trên nhiều bình diện, nhiều
lĩnh vực khác nhau bởi thơ chữ Hán của ông vô
cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, như nhiều
tác phẩm thơ chữ Hán của các tác giả cùng thời,
thơ chữ Hán của Nguyễn Du là đối tượng ẩn chứa
nhiều điều mới mẻ, bất ngờ, thú vị. Do vậy, chưa
thể có một công trình nào nghiên cứu trọn vẹn về
mảng sáng tác này của đại thi hào. Bài viết của
chúng tôi không có tham vọng đi sâu tìm hiểu hết
những nét mới mẻ ấy mà chỉ dừng lại khám phá
những đặc điểm tiêu biểu về văn hóa ứng xử với
phụ nữ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
2. NỘI DUNG
2.1. Thế nào là văn hóa ứng xử
Khái niệm văn hóa ứng xử được kết hợp bởi
hai từ văn hóa và ứng xử. Để hiểu được nội hàm
TRẦN THỊ THU HIỀN*
*Học viện Khoa học Quân sự, qkieut...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 726 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu văn hóa ứng xử với phụ nữ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du - Trần Thị Thu Hiền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. MỞ ĐẤU
Có thể nói rằng, thơ chữ Hán (thể hiện qua ba
tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm
và Bắc hành tạp lục) của Nguyễn Du đã được
nghiên cứu sâu sắc trên nhiều bình diện, nhiều
lĩnh vực khác nhau bởi thơ chữ Hán của ông vô
cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, như nhiều
tác phẩm thơ chữ Hán của các tác giả cùng thời,
thơ chữ Hán của Nguyễn Du là đối tượng ẩn chứa
nhiều điều mới mẻ, bất ngờ, thú vị. Do vậy, chưa
thể có một công trình nào nghiên cứu trọn vẹn về
mảng sáng tác này của đại thi hào. Bài viết của
chúng tôi không có tham vọng đi sâu tìm hiểu hết
những nét mới mẻ ấy mà chỉ dừng lại khám phá
những đặc điểm tiêu biểu về văn hóa ứng xử với
phụ nữ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
2. NỘI DUNG
2.1. Thế nào là văn hóa ứng xử
Khái niệm văn hóa ứng xử được kết hợp bởi
hai từ văn hóa và ứng xử. Để hiểu được nội hàm
TRẦN THỊ THU HIỀN*
*Học viện Khoa học Quân sự, qkieutuan@gmail.com
Ngày nhận bài: 22/8/2018; ngày sửa chữa: 24/12/2018; ngày duyệt đăng: 26/12/2018
TÌM HIỂU VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI PHỤ NỮ
TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
TÓM TẮT
Trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Du nói chung và mảng thơ chữ
Hán nói riêng. Tuy nhiên, các tác giả của nhiều công trình nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở việc khai
thác, khám phá, tìm hiểu về thể loại, ngôn ngữ, nhân vật mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu vấn
đề văn hóa ứng xử với phụ nữ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Do vậy, bài viết này đã bước đầu
đưa ra một vài gợi ý trong việc tìm hiểu văn hóa ứng xử với người phụ nữ trong thơ chữ Hán của ông.
Từ khóa: Nguyễn Du, phụ nữ, thơ chữ Hán, văn hóa ứng xử
của khái niệm này, nên bắt đầu từ ý nghĩa của hai từ
ghép trên.
Từ xưa đến nay có rất nhiều các học giả trong
nước và thế giới bàn về khái niệm văn hóa. Phan
Ngọc trong cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” đã
nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là mối
quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá
nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại
ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô
hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng.
Điều kiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là
văn hóa dưới hình thức dễ nhận thấy nhất, biểu
hiện thành một kiểu lựa chọn của cá nhân hay của
tộc người khác” (Phan Ngọc, 1998, tr.17-18). Tác
giả Trần Ngọc Thêm đưa ra một định nghĩa ngắn
gọn và bao quát về văn hóa: “Văn hóa là một hệ
thống hữu cơ có giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” (Trần
Ngọc Thêm, 1999, tr.25). Như vậy, văn hóa có thể
hiểu là một hệ thống được định hình và phát triển
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
trong quá trình lịch sử, bao gồm nhiều yếu tố hợp
thành như hệ giá trị, tập quán, thói quen, lối ứng
xử, các chuẩn mực xã hội; nó mang tính ổn định,
bền vững và có khả năng di truyền qua nhiều thế
hệ, là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Còn khái niệm ứng xử được hiểu như thế nào?
Theo “Từ điển tiếng Việt” do GS Hoàng Phê chủ
biên thì nghĩa của từ ứng mang hai nội dung chính
sau: thứ nhất là đáp lại, lên tiếng đáp lại lời kêu
gọi; thứ hai là mối quan hệ phù hợp tương đối với
nhau. Còn xử có nghĩa là hành động theo cách nào
đó, thể hiện thái độ với người khác trong một hoàn
cảnh cụ thể nhất định.
Bách khoa toàn thư Xô Viết có định nghĩa
khá ngắn gọn về ứng xử: “Hệ thống các quan hệ
tương tác, các phản ứng được thực hiện bởi các
vật thể sống để thích nghi với môi trường. Ứng
xử (hành vi, tập tính) của động vật và con người
được nghiên cứu bởi các ngành Tập tính học, Tâm
lý học, Xã hội học” (Theo Trần Thúy Anh, 2000,
tr.17). Như vậy, ứng xử là quan hệ tương tác, phản
ứng giữa tự nhiên, con người và cộng đồng.
Trong truyền thống văn hóa của người Việt
Nam, ông cha ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề,
giao tiếp ứng xử, văn hóa ứng xử. Ứng xử của
con người trong xã hội không diễn ra một cách
tùy tiện, ngẫu nhiên mà chúng được lặp đi lặp lại
thường xuyên bởi nhiều người trong cả không
gian lẫn thời gian và do đó, nó đã tạo thành những
khuôn mẫu. Cái khuôn mẫu ấy được coi là ứng xử
có văn hóa.
Có thể coi, văn hóa ứng xử là “cầu nối, sự đan
xen yếu tố bên trong (nội tâm) và yếu tố bên ngoài
(ngoại tâm). Nó là điểm cuối cùng của những gì
diễn biến trong tâm lí con người và là điểm bắt
đầu trong hành vi ứng xử của hành động” (Đỗ
Long, 2008, tr.74). Bản chất của văn hóa ứng xử
thể hiện thông qua các biểu tượng. Đỗ Long (2008,
tr.73) cho rằng:“Văn hóa ứng xử là một hệ thống
thái độ, hành vi được xác định để xử lý các mối
quan hệ giữa người với người trên các căn cứ
pháp luật và đạo lý nhằm thúc đẩy nhanh sự phát
triển của cộng đồng, của xã hội”. Phạm Vũ Dũng
(1996, tr.27) cũng định nghĩa: “Văn hóa ứng xử là
hệ thống tinh tuyển những nếp ứng xử, khuôn mẫu
ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng
xử giữa con người với những đối tượng khác thể
hiện qua ngôn ngữ, hành vi, nếp sống tâm sinh lí
Trong quá trình phát triển và hoàn thiện đời sống,
nó đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa trở thành
chuẩn mực của cá nhân, nhóm xã hội, toàn bộ xã
hội; phù hợp với đời sống xã hội, với đặc trưng
bản sắc của văn hóa dân tộc, một quốc gia,
được cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã
hội thừa nhận và làm theo”.
Tóm lại, văn hóa ứng xử là “hệ thống ứng xử
giữa con người và thế giới tự nhiên - vũ trụ và hệ
thống ứng xử giữa con người với nhau hay trong
xã hội loài người” (Bùi Thiết, 2000, tr.98).
2.2. Văn hóa ứng xử với phụ nữ trong thơ
chữ Hán của Nguyễn Du
Văn hóa là sản phẩm của con người, là sự thích
ứng trước thử thách mà thiên nhiên đặt ra cho con
người. Cách ứng xử đó làm thành nét văn hóa đặc
sắc trong nền văn hóa chung của nước Việt. Văn
hóa Việt được hun đúc từ trong lịch sử, gắn chặt
yếu tố cộng đồng, yếu tố cá nhân và trong quá
trình phát triển, nó được tinh lọc thành bản sắc với
những giá trị nổi bật của tinh thần dân tộc, trong
đó có tình yêu thương con người. Văn hóa ứng xử
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã phát huy
được truyền thống đó, đặc biệt là văn hóa ứng xử
với người phụ nữ.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã nêu lên nỗi
thống khổ của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến bằng một thái độ thương mến, trân trọng. Bởi
ông hiểu hơn ai hết, phụ nữ là hạng người xấu số bị
vùi dập nhiều nhất. Khi khảo sát thế giới nhân vật
trong ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng
tôi nhận thấy ông viết nhiều về những người phụ
nữ trong lịch sử Trung Hoa như: các bà vợ của
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Vua Thuấn; chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam
Quốc; Dương Quý Phi; Ngu Cơ; ba người đàn bà
ở núi Tam Liệt; Nhưng Nguyễn Du đặc biệt rỏ
nước mắt thương xót cho hai đối tượng phụ nữ,
thứ nhất là kiểu phụ nữ danh tiếng, thứ hai là kiểu
phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh. Nguyễn Du đã
từng nói: “Ngựa không chết già, liệt nữ không chết
bệnh, người có khí phách khác thường thì trời đất
không có chỗ dung” (Lê Thu Yến, 1999, tr.99).
Quả đúng là như vậy.
2.2.1. Nguyễn Du bộc lộ thái độ (cái nhìn)
xót xa, thông cảm trước nỗi thống khổ của người
phụ nữ danh tiếng trong xã hội phong kiến
Đối với kiểu phụ nữ danh tiếng, Nguyễn Du có
cách nhìn xót xa, thông cảm, đồng cảm sâu nặng
đối với họ. Nhà thơ nhìn thấy nỗi thống khổ của
những người phụ nữ này. Bởi chính họ cũng phải
gánh chịu nhiều mất mát, đau khổ trong cuộc đời.
Dưới con mắt của Nguyễn Du, kiểu người phụ nữ
danh tiếng như hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh
(vợ Vua Nghiêu - Thuấn), Dương Quý Phi, luôn
là đối tượng được ông quan tâm.
Nguyễn Du thật sự ngưỡng mộ hành động của
hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh khi đi tìm chồng.
Hai bà ngồi khóc bên dòng sông Tương, những
giọt nước mắt nhỏ vào những cây trúc trở thành
những “vết lốm đốm”:
“Ngu Đế nam tuần cánh bất hoàn,
Nhị Phi sái lệ trúc thành ban”
(Vua Ngu Thuấn đi tuần ở phương Nam, không
trở về nữa
Hai bà Phi khóc, nước mắt rưới vào khóm trúc
thành vết lốm đốm)
(Ngô Thương tức sự - Bắc hành tạp lục)
Hành động của hai bà làm cho Nguyễn Du rất
xúc động. Trước hành động và cử chỉ cao đẹp đó,
nhà thơ đã dành cho hai bà bốn bài thơ trong tập
“Bắc hành tạp lục” (Thương Ngô tức sự, Thương
Ngô mộ vũ, Thương Ngô trúc chi ca - bài 3 và bài
8). Khi có dịp đến sông Tương, Nguyễn Du không
quên viếng hai bà bằng chén rượu và trầm ngâm
tưởng tượng ra tiếng đàn của hai bà:
“Bình ba nhật mộ Tương Đàm viễn,
Bôi tửu bằng lan điếu nhị phi”
(Tương Đàm sóng lặng đường chiều thẳm,
Rượu viếng hai bà đứng tựa lan)
(Thương Ngô mộ vũ- Bắc hành tạp lục)
Hoặc: “Ngu vương táng xứ vô khâu mộ,
Thủy diện huyền thanh tự nhị phi”
(Nơi táng vua Thuấn không thấy mồ mả,
Tiếng đàn trên mặt nước nghe như tiếng đàn
của hai bà phi)
(Thương Ngô trúc chi ca III - Bắc hành tạp lục)
Bên cạnh đó, Nguyễn Du tỏ sự thương tiếc,
kính trọng với ba người phụ nữ tiết liệt như Trương
Thị, Quách Thị và Lưu Thị đời Minh. Họ đã kiên
quyết chống lại bọn hung bạo và hi sinh để giữ
mình được trong sạch. Tấm gương đó nghìn đời
vẫn còn sáng mãi:
“Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn”
(Bia kệ nghìn năm làm rạng danh ba người đàn
bà tiết liệt,
Cương thường vạn thuở thuộc về một nhà)
(Tam liệt miếu - Bắc hành tạp lục)
Dương Quý Phi là một quý phi được vua
Đường Minh Hoàng vô cùng sủng ái, sắc đẹp
nghiêng nước nghiêng thành nhưng lại bị đổ tội
oan chỉ vì vua quan bất tài không đuổi được giặc,
cuối cùng nàng phải thắt cổ tự tử ở đèo Mã Ngôi.
Người đời mắng chửi và nguyền rủa Quý Phi, xem
nàng là tội nhân của đất nước. Trong khi cả triều
đình “đều như phỗng đứng” thì Nguyễn Du lại là
người lên tiếng minh oan cho người con gái họ
Dương và những mỹ nhân ngày xưa mắc tội làm
“khuynh thành vong quốc”:
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
“Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành”
(Chỉ vì cả triều đều như phỗng đứng,
Mà nghìn năm còn đổ tội oan cho sắc đẹp
nghiêng thành)
(Dương Phi cố lý - Bắc hành tạp lục)
Tình cảm của Nguyễn Du không chỉ dừng lại
ở chỗ thông cảm mà còn đi đến chỗ đồng cảm với
những người phụ nữ phải gánh chịu nhiều mất
mát, đau khổ trong đời. Cuộc đời nhà thơ cũng đã
trải qua nhiều đau khổ, do vậy, hơn ai hết ông hiểu
những nỗi bất hạnh mà cuộc đời gây ra cho mình
cũng như những người phụ nữ khác. Nguyễn Du
đã viết về họ bằng những vần thơ chân thành, giản
dị. Điều đó cho thấy tác giả có con mắt tinh tế, tấm
lòng “nghĩ suốt nghìn đời” và tâm hồn nhạy cảm
với mọi số phận con người trong xã hội.
2.2.2. Nguyễn Du thể hiện thái độ nâng niu,
trân trọng trước tài năng và nhan sắc của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến
Một đặc điểm nổi bật trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận
đó là thơ Nguyễn Du đã bày tỏ tiếng lòng đặc biệt
thương cảm đối với người phụ nữ tài hoa nhưng
bất hạnh. Câu chuyện “hồng nhan bạc mệnh” của
các mỹ nhân là vấn đề có căn cứ từ thực tại ở xã
hội phong kiến. Câu chuyện này, ngoài Nguyễn
Du cũng còn nhiều tác giả khác quan tâm. Song
có lẽ Nguyễn Du là người quan tâm đặc biệt nhất.
Bởi trong thơ của mình, ông không chỉ quan tâm
đến cái đẹp của người phụ nữ như một thứ nhan
sắc người đời thường nghĩ đến mà quan trọng hơn,
ông xem cái đẹp ở người phụ nữ như một thân
phận, một hiện hữu, một nhân vị giữa cuộc đời.
Tuy hình ảnh người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa
xuất hiện trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du không
nhiều nhưng sự xuất hiện của họ luôn để lại ấn
tượng và sự ám ảnh trong lòng người đọc. Đó là
nàng Tiểu Thanh trong “Độc Tiểu Thanh ký”, là
cô Cầm trong “Long Thành Cầm giả ca”, là người
ca nữ đất La Thành trong “Điếu La Thành ca giả”.
Không dừng lại ở chỗ chỉ miêu tả, than vãn,
thương cảm cho hoàn cảnh sầu thảm, bi đát, khốn
cùng của những người phụ nữ đẹp, tài hoa hơn
người mà đồng thời với việc tái hiện bi kịch cuộc
đời của họ, Nguyễn Du luôn bộc lộ thái độ trân
trọng, nâng niu nhan sắc và tài năng của người phụ
nữ. Trong thi phẩm của Nguyễn Du, người đọc
hôm nay có thể nhận thấy ông luôn đề cao vấn đề
dân chủ, bình đẳng đối với phái đẹp. Phải chăng vì
thế, những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du viết về
người đẹp là những bài thơ hay nhất trong di sản
thơ chữ Hán của ông. Bởi mỗi bài thơ đều lắng sâu
những suy tư, trăn trở của thi nhân về thân phận
con người bị đọa đầy trong một xã hội mà mọi giá
trị đều bị đảo lộn.
Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du chúng ta thấy
nàng Tiểu Thanh trong “Độc Tiểu Thanh ký”, cô
Cầm trong “Long Thành Cầm giả ca”, người ca nữ
không tên đất La Thành trong “Điếu La Thành ca
giả”, mỗi người mang một vẻ đẹp khác nhau. Chỉ
qua một vài nét chấm phá, vẻ đẹp ngoại hình của
những người phụ nữ trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du hiện lên thật quyến rũ. Đó là vẻ đẹp phong
nhã, kiêu sa, trong sáng ở cô Cầm đang độ tuổi
hoa niên:
“Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân”
(Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước khuôn mặt
hoa đào,
Má hồng vì men rượu, dáng ngây thơ, rất dễ thương).
(Long Thành Cầm giả ca- Bắc hành tạp lục)
Hay vẻ đẹp của nàng ca nữ đất La Thành. Nàng
đẹp như một cành hồng thắm từ cõi tiên sa xuống,
sắc đẹp làm rung động cả sáu khu trong thành:
“Nhất chi nùng diễm há Bồng Doanh
Xuân sắc yên nhiên động lục thành”
(Một cành hoa hồng thắm từ cõi tiên sa xuống
Sắc xuân đẹp tươi làm rung động cả sáu khu
trong thành)
(Điếu La Thành ca giả - Thanh Hiên thi tập)
65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Nhưng cuộc đời lại bạc mệnh. Nàng chết trẻ,
lúc sống đã không rửa được nghiệp phấn son,
chết đi còn để lại tiếng gió trăng. Nguyễn Du xót
thương cho người con gái ấy:
“Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh
Trủng trung ưng tự hối phù sinh
Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh”
(Thiên hạ, ai là người thương kẻ bạc mệnh?
Dưới mồ chắc cũng hối hận cho kiếp phù sinh
Nghiệp chướng phấn son lúc sống đã không rửa sạch
Sau khi chết chỉ để lại tiếng trăng gió)
(Điếu La Thành ca giả - Thanh Hiên thi tập)
Còn với nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du chỉ
nhắc đến hình ảnh “Tây hồ hoa uyển” cũng làm
người đọc mấy trăm năm sau xúc động, nhớ đến
một vẻ đẹp phong lưu, ngọc ngà, kiều diễm được
lưu truyền trong dân gian như huyền thoại. Thế
nhưng những người phụ nữ tài hoa ấy có khi nào
được sống hạnh phúc?
Có một vấn đề gần như là quy luật của muôn đời
trong cuộc sống (nhất là trong xã hội phong kiến)
đó là người đàn bà đẹp bao giờ cũng gian truân. Vì
vậy, đã xuất hiện trong nhân gian những cụm từ
“hồng nhan đa truân”, “hồng nhan bạc mệnh” như
một tâm thức hiện sinh ám ảnh biết bao người, nhất
là đối với phụ nữ. Người đẹp, đặc biệt là người tài
sắc luôn chịu một số phận gian nan, bi kịch mà cái
bi kịch rõ nhất là luôn bị lệ thuộc vào người khác
theo những nguyên tắc lễ giáo khắc nghiệt đến phi
lý của tư tưởng Nho giáo đó là “tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Ở nhà thì theo
cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì
theo con). Vì thế, người phụ nữ hoàn toàn không
chủ động được cuộc sống của mình, họ không có
quyền lựa chọn cho mình cách sống, cách ứng xử,
hay thậm chí là không có quyền làm chủ thân xác
và tâm hồn của mình. Trong khi xã hội phong kiến
vốn được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Nho
giáo coi khinh vai trò của người phụ nữ, nhất là
những mỹ nhân thì Nguyễn Du cảm nhận nhan sắc
của những người phụ nữ mà ông tình cờ gặp gỡ
trong cuộc đời với một tấm lòng trân trọng, nâng
niu. Những phụ nữ mà thi nhân không hề quen biết
đã lưu lại trong cảm thức của ông những nét đẹp
độc đáo - đó là vẻ đẹp thiên phú mà không phải ai
cũng có: vừa e ấp, dịu dàng vừa rực rỡ, cuốn hút,
quyến rũ đến mê hồn (Quan niệm này nhất quán
trong các sáng tác cả chữ Nôm và chữ Hán của
Nguyễn Du mà “Truyện Kiều” là đỉnh cao).
Song những người phụ nữ mà chúng ta bắt gặp
trong mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du không
chỉ đẹp ở ngoại hình, họ còn là những phụ nữ
mang vẻ đẹp nội tâm, là những người thực sự có
tài năng nghệ thuật. Mỗi người có một tài riêng:
Tiểu Thanh có tài thơ, cô Cầm có tài đàn, cô gái
đất La Thành có tài ca hát. Và đặc biệt, tài năng
của những người phụ nữ này trong cái nhìn của
Nguyễn Du luôn xuất sắc hơn người. Câu danh
ngôn “Sự thông minh và tinh tế ở người đàn bà
là thứ nhan sắc không bao giờ tàn phai”, có lẽ rất
xứng đáng dành tặng cho những người đẹp trong
thi phẩm của Nguyễn Du.
2.2.3. Nguyễn Du thể hiện niềm khao khát về
quyền được sống, được tự do, bình đẳng, hạnh
phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Xưa nay, khi bàn về trước tác của Nguyễn Du,
nhiều học giả cho rằng chính những bài thơ chữ
Hán của thi nhân đã cho hậu thế thấy phần sâu
kín nhất trong tâm tư, tình cảm của ông. “Tất cả
những nỗi đau thương u uất như thể dồn lại, về
cuộc đời, về con người, về các triều đại kế tiếp
nhau, đã hình thành nên trong nhân sinh quan của
Nguyễn Du một ý thức thường trực, một cảm hứng
bi thiết về sự mong manh của đời người, của số
phận” (Trương Chính, 1978, tr.25). Chúng tôi cho
rằng nhận định trên là hoàn toàn xác đáng. Tuy
nhiên xem xét những bài thơ chữ Hán của Nguyễn
Du về đề tài người đẹp, thiết nghĩ cần phải bàn
rộng thêm một số giá trị khác như bên cạnh tiếng
lòng xót thương thân phận người phụ nữ thì tiếng
nói thể hiện quan niệm về quyền dân chủ, bình
đẳng cho họ đã hiện diện trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du như thế nào?
66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du
từng gây ra nhiều tranh luận, nhất là về vấn đề
tư liệu và hướng nghiên cứu. Để hiểu bài thơ này
người đọc thường phải gắn nó cùng câu chuyện
như một huyền thoại về cuộc đời của một giai nhân
họ Phùng tên Tiểu Thanh mà chúng ta đã từng biết.
Như vậy, khác với cô Cầm và ca nữ đất La Thành
là những người sống cùng thời, Nguyễn Du từng
gặp đó đây trên mọi nẻo đường, Tiểu Thanh là
người đẹp mà Nguyễn Du chỉ được ngưỡng vọng
qua trang sách. Ở đây không nên quá quan trọng
việc xem xét Tiểu Thanh có thật hay không có
thật, sống trước Nguyễn Du ba trăm năm hay mấy
trăm năm như nhiều người đã tranh luận, theo tôi
bi kịch của nàng Tiểu Thanh chỉ là cái cớ nghệ
thuật để Nguyễn Du giãi bày quan điểm của ông
về kiếp người mong manh trong cõi trần ai đầy bất
trắc, nhất là thân phận của những người phụ nữ
vừa có nhan sắc vừa có tài năng. Nguyễn Du tưởng
nhớ Tiểu Thanh và ngưỡng mộ nàng là bởi nàng
đoan trang, kiều diễm, cao quý, ngọc ngà, nhưng
hơn hết còn bởi nàng là một phụ nữ thông minh,
thơ phú tài hoa, tâm hồn phong phú. Di cảo thơ
của nàng còn sót lại như tiếng vọng xa xăm kể về
câu chuyện bi thương của cuộc đời nàng. Thương
tiếc Tiểu Thanh, xót xa cho nỗi oan khổ của nàng,
Nguyễn Du đã thốt lên:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.”
(Những mối hận cổ kim, khó mà hỏi trời được.
Ta tự coi mình như người cùng một hội với kẻ
mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã)
(Độc Tiểu Thanh ký - Thanh Hiên thi tập)
Nguyễn Du tự coi nàng Tiểu Thanh là người
cùng “một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng”. Chưa
dám bàn đến vấn đề Nguyễn Du đấu tranh vì
quyền dân chủ, tự do, bình đẳng cho phụ nữ nhưng
rõ ràng ở đây sự cảm thông, chia sẻ với nỗi đau
khổ, oan trái mà người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp
phải gánh chịu đã đạt đến độ kết tinh sâu sắc về
tư tưởng: đó là tư tưởng nam nữ bình đẳng, bình
quyền. Không hề ngần ngại trước quan niệm “nam
tôn nữ ti”, Tố Như tiên sinh đã nâng đỡ Tiểu Thanh
- một phụ nữ yếu đuối, bất hạnh lên ngang bằng
với chính mình, coi Tiểu Thanh như người tri âm,
tri kỷ, đồng điệu với mình.
Xuất phát từ bi kịch của nàng Tiểu Thanh để
suy ngẫm và bộc bạch quan điểm của bản thân về
thế thái nhân tình, quên mình để nghĩ cho người,
phải chăng đó chính là hồn cốt làm nên hệ giá
trị nhân văn sâu sắc trong sự nghiệp lớn lao của
Nguyễn Du. Cho nên hai câu cuối của bài thơ vẫn
là sự tiếp nối dòng cảm hứng đau đáu khát vọng
của thi nhân:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Không biết hơn ba trăm năm sau
Thiên hạ có ai là người khóc Tố Như?)
(Độc Tiểu Thanh ký - Thanh Hiên thi tập)
Đã có nhiều ý kiến khi bàn về hai câu kết trên.
Tuy nhiên, trong tột cùng của nỗi cô độc, không
tìm đâu người tri âm, tri kỷ, Nguyễn Du hướng
đến một dự báo: Mai sau liệu có ai là người khóc
cùng ông những điều đáng khóc? Khóc cùng ông
nỗi đau về thế thái nhân tình? Khóc cùng ông về
những đau khổ bất công, đọa đày phi lý mà con
người (đặc biệt là những giai nhân yếu đuối, mong
manh, xinh đẹp, tài hoa như nàng Tiểu Thanh, hay
những thi nhân một đời chỉ biết sáng tạo và trân
quí cái đẹp như ông) phải gánh chịu? Tại sao một
người con gái xinh đẹp, đức hạnh, tài hoa như Tiểu
Thanh lại phải chết oan ức đến vậy? Với ý nghĩa
ấy, thông điệp mà bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của
Nguyễn Du ký thác cho đời sau có thể coi là một
thông điệp vươn đến tầm tư tưởng nhân văn sâu sắc
của nhân loại. Mà tư tưởng nhân văn sâu sắc ấy là
các vấn đề mà cả nhân loại đã, đang và sẽ tiếp tục
bàn luận, đó là quyền được làm vợ, được hưởng
cuộc sống hạnh phúc không bị trói buộc, lệ thuộc
vào đàn ông và quyền được bình đẳng, dân chủ,
tự do trong mọi sáng tạo dành cho người phụ nữ.
Nếu qua số phận bi kịch của người đẹp Tiểu
Thanh, bên cạnh tiếng kêu thương cho số phận bất
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
hạnh của nàng, Nguyễn Du hé lộ cho chúng ta thấy
tiếng nói khát khao về quyền bình đẳng, tự do,
dân chủ và hạnh phúc cho người phụ nữ thì trong
“Long Thành Cầm giả ca” và “Điếu La Thành ca
giả” ông lại có một góc nhìn khác về thân phận của
những người đẹp, có tài năng hơn người.
Khác với Tiểu Thanh, cô Cầm và người ca nữ
đất La Thành là những kỹ nữ. Trong quan niệm
của xã hội, loại người này bị coi là “xướng ca vô
loài”, luôn hứng chịu những thiệt thòi, bị xem
thường, khinh miệt, coi rẻ. Song trong con mắt của
Nguyễn Du, họ là những nghệ sĩ tài hoa điêu luyện
chứ không phải đơn thuần chỉ là những kẻ mua vui
cho thiên hạ.
Trong lần đầu gặp gỡ tình cờ nhưng Nguyễn
Du đã nhận ra “chất ngọc” của người đẹp đất Long
thành, ông trân trọng ví cô như “báu vật vô giá đất
Trường An”:
“Độc thiện Nguyễn Cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
Tự thị thiên thượng gian đệ nhất thanh”.
(Riêng thạo ngón đàn Nguyễn Cầm
Người trong thành ai cũng gọi là cô Cầm.
Nàng học được khúc “Cung phụng” trong cung
triều trước
Đó là những khúc nhạc hay nhất, tưởng như từ
trên trời đưa xuống trần gian)
(Long Thành Cầm giả ca - Bắc hành tạp lục)
Nguyễn Du đã đặc tả một cách tài tình ngón
đàn tuyệt diệu của kỹ nữ Long Thành trong một
đêm tiệc lớn của các tướng lĩnh Tây Sơn. Tiếng
đàn của nàng là sự tuyệt vời nơi thượng giới cũng
như trong chốn nhân gian:
“Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm”
(Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc đêm khuya
Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt khi
ốm đau)
(Long Thành Cầm giả ca - Bắc hành tạp lục)
Trong cảm thức của Nguyễn Du, đây là tiếng
đàn độc đáo, nó là sự kết tinh của trí tuệ mẫn tiệp
tuyệt vời và tâm hồn phong phú, tiếng đàn lắng
đọng bao cung bậc thăng trầm của cảm xúc diệu
kỳ, vừa tinh tế, vừa da diết nồng nàn, vừa bay bổng
thiết tha. Chính vì tiếng đàn “tuyệt kỹ” như vậy
nên nó mê hoặc lòng người, có sức quyến rũ lạ
thường khiến cho:
“Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ Lăng thiếu niên bất túc dạo”.
(Các quan Tây Sơn trong tiệc thảy đều nghiêng ngả
Suốt đêm vui chơi không biết chán
Phía tả, phía hữu đua nhau gieo thưởng
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn
Vẻ hào hoa của họ lấn lướt cả bậc vương hầu
Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng thì không đáng kể).
(Long Thành Cầm giả ca - Bắc hành tạp lục)
Nàng Cầm được những người Tây Sơn quí
trọng, hâm mộ chính là nhờ tài đàn những bản nhạc
“hay nhất ở trên trời cũng như giữa cõi người”.
Ngón đàn ấy không tàn phai theo năm tháng. Nó
luôn trường tồn. Nhưng không phải lúc nào cũng
có những khách tri âm hiểu và trân trọng. Nguyễn
Du đau lòng “bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi
xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay” là vì vậy!
Sự ngưỡng mộ đối với tài năng cô Cầm đạt đến độ
đồng cảm, tri âm sâu sắc của Nguyễn Du cho thấy
ở ông xuất hiện một tư duy khác xa với nhiều kẻ
đương thời. Với Nguyễn Du bên cạnh nhan sắc, tài
năng của người phụ nữ cũng là một hệ giá trị để
khẳng định thân phận của họ. Những phụ nữ có tài
năng xuất chúng cũng hoàn toàn xứng đáng được
hưởng sự vinh danh của xã hội và cộng đồng; tài
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
năng không phân biệt giới tính, đẳng cấp sang hèn.
Nguyễn Du đã tạc vào lòng người đọc hình ảnh
người đẹp gảy đàn đất Long Thành như một biểu
tượng của cái Đẹp và Tài năng con người.
3. KẾT LUẬN
Có thể nói, phụ nữ kết tinh trong mình nhiều vẻ
đẹp nhưng xã hội phong kiến lại quá khắt khe đối
với họ, Nguyễn Du đã lên tiếng thay họ đòi công
bằng, đòi quyền sống và đòi quyền được thừa nhận
tài năng. Điều làm nên một nhà thơ lớn Nguyễn
Du là ông đã đưa hình ảnh người phụ nữ vào trung
tâm của thơ để ca ngợi, trân trọng, để nâng họ lên
và hơn hết là để bảo vệ, bênh vực và đòi quyền
sống cho họ. Và ngày nay, khi đọc thơ chữ Hán
của Nguyễn Du, chúng ta thấy rõ hơn tính nhân
văn cao cả trong thơ ông, đó là tinh thần đấu tranh
cho quyền sống, quyền làm người của những mỹ
nữ tài hoa nhưng bạc mệnh. Trong quan niệm nghệ
thuật của Nguyễn Du, những mỹ nữ ấy đã hiện hữu
không phải chỉ bởi nhan sắc tuyệt trần mà còn là
người đa tài, đa cảm, đa tình, biết yêu cái đẹp dẫu
bi kịch đến đâu vẫn luôn khát khao hướng đến tự
do trong tình yêu và cuộc sống. Như vậy, những
nét ứng xử với người phụ nữ trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du có thể được xem là nét đẹp của văn hóa
truyền thống Việt Nam góp phần làm nên vẻ đẹp
nhân văn nổi bật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du./.
Tài liệu tham khảo:
Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB
Hội Nhà văn, Hà Nội.
Trần Thúy Anh (2000), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của
người Việt châu thổ Bắc Bộ qua một số ca dao tục
ngữ, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Trương Chính (giới thiệu, 1978), Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, NXB Văn học, Hà Nội.
Phạm Vũ Dũng (1996), Văn hóa giao tiếp, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
Đỗ Long (2008), Tâm lí học với văn hóa ứng xử, NXB
Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
Trần Văn Nhĩ (2015), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB
Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
Bùi Thiết (2000), Cảm nhận về văn hóa, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán
Nguyễn Du, NXB Thanh niên TP. Hồ Chí Minh.
UNDERSTANDING THE CODES OF BEHAVIOR TOWARDS WOMEN
IN NGUYEN DU’S HAN POETRY
TRAN THI THU HIEN
Abstract: Previously there were many studies on the composition of Nguyen Du in general and
the poetry in Han script in particular. However, the authors of those studies have only explored the
genres, languages and characters in the poems, in which no one has been able to deepen the study
of codes of behavior in terms of dealing with women in Han poetry by Nguyen Du. This article will
provide some initial suggestions for understanding the codes of behavior towards women in Nguyen
Du’s Han poetries.
Keywords: Nguyen Du, women, Han poetry, codes of behavior
Received: 22/8/2018; Revised: 24/12/2018; Accepted: 26/12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_17_01_2019_61_68_tran_thi_thu_hien_1336_2136247.pdf