Tài liệu Tìm hiểu vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam: II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với việt nam.
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các ngành kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần thực hiện tốt chính sách đối...
70 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tìm hiểu vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với việt nam.
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các ngành kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các vai trò quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu cũng như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ, đi vay, xuất khẩu.
Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo thêm gánh nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát triển được coi như một chiến lược quan trọng mà hầu hết các nước đều ứng dụng.
- Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo International Trade 1980-1993 ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển cứ xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo được 40 nghìn việc làm trong nước, còn ở các nước tư bản đang phát triển khác có thể tạo ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở nước ta nền công nghiệp còn lạc hậu, năng suất lao động thấp nên xuất khẩu 1 tỷ USD thì sẽ tạo được trên 50 nghìn chỗ làm việc trong nước.
- Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu quả sử dụng vốn thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi mới trang thiết bị hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến.
- Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước, kích thích các ngành lts phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu. Đặc biệt là sự tác động đến sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng ngày càng sử dụng có hiệu quả các lợi thế đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến giúp có thêm nguồn lức công nghiệp mới, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí lao động xã hội.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của quốc gia.
- Đẩy mạnh xuất khẩu còn có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà nhiều Công ty nước ngoài biết đến năng lực của ta và sẵn sàng thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư.
Như vậy, xuất khẩu nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà nó có thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển; trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các vấn đề bên trong của nền kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật, lao động, nguyên liệu, thị trường...
III. thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
1. Về thị trường may mặc Việt Nam.
1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. ở đây, người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1996-2000). Đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt may từ năm 1995 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến vững chắc. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 2001 sẽ đạt 650 triệu USD.
Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam
vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc)
Tên hàng
Chủng loại
1998
1999
2000
Jacket
Cat 21
8,9
9,4
11,7
T- Shirt
Cat 4
2,9
3,71
áo len
Cat 5
1,65
1,81
Quần
Cat 6
1,65
2,4
áo sơ mi nữ
Cat 7
0,91
1,49
áo khoách nữ
Cat 15
0,13
0,17
áo dài nữ
Cat 26
0,19
0,39
Váy ngắn
Cat 27
0,14
0,23
(Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.)
Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận, chỉ tính riêng năm 1999 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp (60 triệu USD), Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển (7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)...
Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào thị trường này như:
- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả thuận.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba để tái xuất vào EU.
- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập khẩu vào EU.
Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe hạn ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.
Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người 26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm 90% kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm 1999 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu á của Hoa Kỳ.
Nước
Giá trị ( tỷ USD)
Trung Quốc
6,1
Hồng Kông
5
Hàn Quốc
1,8
Đài Loan
2,3
Các nước ASEAN khác
4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1997 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1997 Mỹ bỏ cấm vận viện trợ và tháng 7/1998 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The Most Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là điều kiện chìa khoá để xâm nhập thị trường Mỹ.
Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh cho phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.
Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt 5 triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.
Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt Nam xâm nhập dế ràng hơn.
1.6. Thị trường trong nước
Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750 triệu USD/năm (10 USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp dẫn đối với bất kỳ nhà đầu tư nào.
Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu, một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà nước chỉ có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay trong tầm tay.
Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để. Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách tiếp cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ.
2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:
- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về sở hữu trí tuệ...
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở , hàng dệt may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris, Singapore, Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung tâm dịch vụ tiêu thụ...
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên một số đặc điểm sau:
+ Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu chế độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may cho Việt Nam.
+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc vào 1/7/2000 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực. Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và hàng may mặc nói riêng.
+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp (cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).
+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng may mặc đã đi vào hoạt động.
+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nước ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng.
+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước ngoài.
+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công, xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994. Đây là con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194 triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao.
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng. Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.
3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất hàng may mặc.
Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các Công ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng kể. Năm 2000 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến 2001 con số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều chỉnh những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc.
Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế kỷ. Bên cạnh đó công tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như : định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những kết cục tranh chấp đáng tiếc.
Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất, thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên trường quốc tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính, thái độ, phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.
Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song hai chiến lược đó là : chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách tốt nhất. Thực hiện chiến lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của Công ty được mọi người quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính đặc thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị trường một cách bền vững. Có câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : “Hãy tạo dựng uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty như một thói quen”.
Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nước cũng cho thấy: trong thời gian mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường.. do đó cần phải tăng cường chính sách hỗ trợ xuất khẩu từ phía Nhà nước. Các nước đã đi lên từng bước, từ chỗ nhận hàng gia công đến xuất khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất được một số lượng nhỏ với những mặt hàng may mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp nhất đạt giá trị cao mà cụ thể là các nước châu á đã làm được điều đó như: Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.. với Việt Nam hiện nay sản phẩm may mặc xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nhận gia công do đó thị trường xuất khẩu của ngành may Việt Nam thực chất là của người đặt ra công. Việc phân phối sản phẩm hoàn chỉnh đi thị trường nào là quyền của họ. Như vậy dưới hình thức này Việt Nam sẽ bị tước đi rất nhiều quyền lợi, vừa hạn chế sử dụng nguyên liệu trong nước vừa mất đi khả năng xâm nhập thị trường chưa kể đến giá trị lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó Nhà nước cần có chính sách tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm thiết thực và cấp bách.
Có nhiều nước đã thực hiện thành công bước nhảy này bằng con đường liên doanh liên kết, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc bước đầu tạo sức mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tượng sản phẩm. Phương pháp phát huy nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần được chúng ta xem xét vận dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may Việt Nam trong thị trường may thế giới.
Chương II
Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt - may VIệT NAM giai đoạn 1998-2001.
I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May ViệT Nam.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Dệt-may Việt Nam:
Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền Bắc và những năm 70 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất đất nước thì ngành mới có sự phát triển đáng kể.
Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc được thành lập trên cơ sở thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ thuật, tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền.
Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. Đến ngày 5/3/1996 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt được chuyển thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là:
- Trung tâm thương mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm hoạt động để thúc đẩy sự phát triển của ngành.
- Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt Việt Nam.
Với mô hình này, không đáp ứng được yêu cầu củng cố và phát triển ngành Dệt, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, không tạo được thế và lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời tạo cho các cơ sở phát huy lợi thế chủ động nhưng lại thiếu sự liên kết với nhau thành sức mạnh, xuất hiện việc tranh mua tranh bán cục bộ bản vị trong sản xuất kinh doanh, dẫn đến không có một sự chỉ huy thống nhất trong ngành. Do quản lí phân tán nên không đủ sức có đại diện ở nước ngoài, một cuộc triển lãm ở nước ngoài có nhiều đơn vị tham gia mặt hàng trùng lặp, giá cả chào hàng không giống nhau. Nhiều Công ty nước ngoài đã lợi dụng sơ hở về mặt tổ chức và quản lí của ta chèn ép, thủ đoạn dẫn đến thua thiệt cho nền kinh tế nói chung và cho từng cơ sở ngành dệt nói riêng.
Tiến gần đến thế kỷ 21, công nghiệp dệt may đã và đang có thêm những thuận lợi để phát triển sôi động với tốc độ ngày càng cao. Song song cùng phát triển các nguồn lực trong nước, các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang trong quá trình tích cực thay đổi về tổ chức quản lí, sắp xếp lại sản xuất theo hướng liên kết nhiều đơn vị cùng ngành nghề hoặc cùng cấp quản lí thành những Tổng Công ty, Công ty lớn : đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng cường đào tạo cán bộ quản lí kỹ thuật, tiếp thị, thiết kế mẫu mã nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Trên tinh thần này, ngày 29 tháng 4 năm 1998 Chính Phủ Việt Nam đã quyết định thành lập Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam (VINATEX) trên cơ sở thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt Nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất-xuất nhập khẩu May nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tạo được thế và lực để thúc đẩy sản xuất-kinh doanh hàng Dệt-May phát triển.
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Textile and Garment Corporation, viết tắt là VINATEX. Trụ sở chính của Tổng Công ty đặt tại 25 Bà Triệu Hà Nội. Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là một trong 18 Công ty quốc gia hoạt động theo hướng tập đoàn, chịu sự quản lí trực tiếp của Chính phủ và Bộ công nghiệp. Tổng Công ty có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do Tổng Công ty quản lý, có con dấu, có tài sản và các quĩ tập trung, được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước và nước ngoài theo luật định của Nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ Tổng Công ty.
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt, hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập khẩu), tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác nhau theo qui định của pháp luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Lựa chọn, khai thác mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược chung. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành nghề.
Các ngành nghề kinh doanh cụ thể là : Công nghiệp dệt may : sản xuất kinh doanh từ nguyên liệu vật tư, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, xuất nhập khẩu hàng dệt may gồm các chủng loại tơ, sợi vải hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn bông, len thảm đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc nhuộm, hàng công nghệ thực phẩm, nông lâm hải sản, thủ công mĩ nghệ, ô tô xe máy, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác, kinh doanh kho vận, khu ngoại quan. Thiết kế, thi công xây lắp phục vụ ngành dệt may và xây dựng dân dụng. Dịch vụ khoa học công nghệ, du lịch khách sạn, nhà hàng văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước, xuất nhập khẩu thiết bị, phụ tùng ngành dệt may, trang thiết bị văn phòng, thiết bị tạo mẫu thời trang, phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử cao su.
Với tổng số vốn khi thành lập là 1.562.500 triệu đồng, trong đó:
-Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng
-Vốn cố định : 1.015.360 triệu đồng
Hiện tại, Tổng Công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất từ kéo sợi dệt vải, hoàn tất và may mặc, một Công ty tài chính, ba xí nghiệp sửa chữa và sản xuất phụ tùng, một viện thiết kế kĩ thuật dệt may, một viện mẫu và thời trang, ba trường đào tạo công nhân. Có các chi nhánh ở thành phố Hải Phòng và Đà Nẵng và hai Công ty du lịch và dịch vụ thương mại ở Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một số đại diện ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Tổng Công ty còn có Công ty tài chính TFC là tổ chức tạo nguồn vốn cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự đổi mới tổ chức như trên có ý nghĩa kết hợp hai ngành dệt và may trước đây vốn hoạt động riêng lẻ thành một tổ chức chung để giảm dần sự cạnh tranh phân tán, manh mún trong đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời có thể tích tụ, tập trung vốn cho sự phát triển lâu dài vừa chuyên môn hoá vừa đa dạng hoá một cách cân đối, hài hoà. Trong tương lai không xa, với sự ra đời của hiệp hội Dệt May Việt Nam đã tạo mái nhà chung cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế có thể liên kết và hỗ trợ nhau tốt hơn trong sản xuất kinh doanh.
2.Chức năng, nhiệm vụ của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam có quyền quản lí, sử dụng vốn, đất đai và các nguồn lực đã được giao theo qui định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ do Nhà nước giao. Mặt khác, Tổng Công ty có quyền giao lại cho các đơn vị thành viên quản lí, sử dụng các nguồn lực mà Tổng Công ty đã nhận của Nhà nước, điều chỉnh các nguồn lực đã giao cho các đơn vị thành viên trong trường hợp cần thiết, phù hợp với kế hoạch phát triển chung của toàn Tổng Công ty. Ngoài những quyền hạn trên, Tổng Công ty còn có những nhiệm vụ sau đây:
- Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt và hàng may theo qui hoạch và kế hoạch phát triển ngành dệt và ngành may của Nhà nước và theo yêu cầu của thị trường, bao gồm : xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu, xuất nhập khẩu phụ liệu, thiết bị phụ tùng, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước, phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước.
- Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước giao, gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao.
- Tổ chức quản lí công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, khoa học công nghệ và công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ và công nhân trong Tổng Công ty.Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn đầu tư, đào tạo trong và ngoài Tổng Công ty.
- Xác định chiến lược đầu tư, thẩm định các luận chứng hợp tác, đầu tư, liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp thành viên trình Nhà nước xét duyệt, làm chủ các công trình đầu tư mới.
- Điều tra nghiên cứu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước về cung cấp vật tư, nguyên liệu chính, thực hiện hợp tác quốc tế, kinh doanh đối ngoại, thị trường xuất nhập khẩu.
3. Hệ thống cơ cấu tổ chức, chức năng các phòng ban của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam
Hệ thống tổ chức của Tổng Công ty gồm có:
- Hội đồng quản trị, ban kiểm soát
- Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
- Các đơn vị thành viên Tổng Công ty
Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lí các hoạt động của Tổng Công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ của Nhà nước giao.
Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm tra giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên Tổng Công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật, điều lệ Tổng Công ty, các nghị quyết và quyết định của Hội đồng quản trị.
Tổng giám đốc do Thủ Tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm khen thưởng, kỉ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước Thủ Tướng Chính phủ và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng Công ty, Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng Công ty.
Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty theo phân công của Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng giám đốc phân công thực hiện.
Kế toán trưởng Tổng Công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng Công ty, có các quyền và nhiệm vụ theo qui định của pháp luật.
Văn phòng Tổng Công ty, các ban chuyên môn, nghiệp vụ có các chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lí điều hành công việc.
Đơn vị thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập và Tổng Công ty có quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với Tổng Công ty theo luật định tại điều lệ của Tổng Công ty.
Thành viên là các đơn vị hạch toán phụ thuộc: có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của Tổng Công ty chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Tổng Công ty. Được kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tổ chức và nhân sự theo phân cấp của Tổng Công ty. Quyền hạn nhiệm vụ của các đơn vị hạch toán phụ thuộc được cụ thể hoá trong điều lệ tổ chức của đơn vị này.
Tổng Công ty có 8 ban, bao gồm các ban sau đây:
- Ban tổ chức cán bộ lao động
- Ban kế hoạch đầu tư
- Ban tài chính kế toán
- Ban hợp tác quốc tế
- Ban trung tâm thông tin
- Văn phòng Tổng Công ty
- Ban khoa học công nghệ và môi trường
- Ban xuất nhập khẩu
Ban tổ chức cán bộ lao động: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong các lĩnh vực tổ chức cán bộ, đào tạo công tác lao động tiền lương và công tác thanh tra, góp phần bảo đảm cho công tác quản lí của Tổng Công ty hoạt động thông suốt và có hiệu quả.
Ban kế hoạch tài chính: Là bộ môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực kế hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng toàn Tổng Công ty.
Ban tài chính kế toán: Là cơ quan chuyên môn của Tổng Công ty tham mưu giúp ban lãnh đạo Tổng Công ty thực hiện hai chức năng chủ yếu sau:
- Quản lí các đơn vị thành viên của Tổng Công ty về tài chính, kế toán, giá cả trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, hành chính sự nghiệp.
-Tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán, giá cả và tín dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan Tổng Công ty.
Văn phòng Tổng Công ty: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực hành chính quản trị, tổng hợp, làm cầu nối giữa Nhà nước với Tổng Công ty và kinh doanh trong lĩnh vực đối nội đối ngoại, bảo đảm cho hoạt động của Tổng Công ty được tiến hành có hiệu quả.
Ban kỹ thuật đầu tư: Có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí khoa học công nghệ-môi trường và công tác chất lượng sản phẩm của Tổng Công ty.
Ban xuất nhập khẩu: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí ngành. Giúp đỡ các đơn vị thành viên trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm tạo nguồn thu và thúc đẩy sự phát triển của Tổng Công ty.
Nhiệm vụ của ban là:
-Xây dựng chiến lược phát triển và mục tiêu phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng Công ty trong từng giai đoạn.
-Nghiên cứu tình hình thị trường, giá cả, khách hàng, sự biến đổi, xu hướng phát triển của ngành Dệt-May thế giới.
-Nghiên cứu hệ thống quản lí, các chính sách và công cụ của nó như quota (giá tối thiểu, giá nhập tối đa) đối với những sản phẩm chính để Tổng giám đốc và hội đồng quản trị duyệt.
-Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện khung giá, giá đã duyệt, theo dõi tình hình giá cả thị trường để đề xuất Tổng giám đốc và hội đồng quản trị thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường.
-Xây dựng các chính sách của Tổng Công ty đối với thương nhân, khách hàng, chính sách đối với từng khu vực để Tổng giám đốc duyệt phục vụ cho công tác kinh doanh xuất nhập khẩu.
-Phối hợp với ban kế hoạch đầu tư xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu của cơ quan Tổng Công ty.
-Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tìm mọi khả năng khai thác nguồn hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức tự doanh, đổi hàng xuất nhập khẩu uỷ thác... bảo đảm kế hoạch kinh doanh của Tổng Công ty.
-Tổng hợp dự kiến nhu cầu bông xơ, nguyên liệu chính hàng năm, có kế hoạch nhập bông dự trữ chiến lược đồng thời đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
-Thực hiện tốt luật cũng như chế độ chính sách trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
-Theo dõi tổng hợp, kiểm tra tình hình thực hiện công tác pháp chế trong xuất nhập khẩu của Tổng Công ty.
( Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam - Xem trang sau)
Bảng 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt May Việt Nam
4. Đặc điểm và xu thế ngành may Việt Nam.
4.1. Đặc điểm.
Ngành may Việt nam có truyền thống lâu đời gắn bó với truyền thống nhân dân từ nông thôn đến thành thị, đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động tạo ra ưu thế cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu, hàng năm mang về cho Nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu khí và đã trở thành một ngành công nghiệp then chốt của nước ta. Đây là một ngành phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta, vì:
Một là: Sản xuất hàng may mặc cần nhiều lao động, không đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Trong khi lao động giản đơn ở nước ta thừa rất nhiều. Hơn nữa, để đào tạo một lao động trong ngành may mặc chỉ cần từ hai đến hai tháng rưỡi và lao động trong ngành may mặc thường sử dụng nhiều nữ.
Hai là: Vốn đầu tư cho một chỗ làm việc ít, đồng thời ngành may mặc có thể tạo nhiều công ăn việc làm so với các ngành khác với cùng một lượng vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chỉ cần khoảng 700-800 USD là có thể tạo ra một chỗ làm trong ngành may, so với 1500-1700 USD để cho một nông dân có thể cấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Thời hạn thu hồi vốn chỉ 3-3,5 năm.
Ba là: Thị trường rộng lớn ở cả trong và ngoài nước. ở trong nước thì đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về mặc chuyển từ “ấm” sang “đẹp”, “mốt” tức là nhu cầu hàng may mặc ngày càng tăng và nhanh biến đổi. Còn trên thế giới thì xu thế ngành may mặc phổ thông đang chuyển dần sang các nước đang phát triển do ở những nước này có lợi thế về lao động rẻ hơn những nước phát triển.
Bốn là: Nước ta có điều kiện để phát triển trồng bông, đay, thúc đẩy ngành dệt may phát triển vì nguyên liệu cung cấp trong nước thường rẻ hơn nhập khẩu.
Với những đặc điểm trên mà ngành may Việt Nam đã ngày càng phát triển, thu hút được nhiều lao động xã hội - gần 50 vạn người, chiếm 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo sự ổn định chính trị-kinh tế-xã hội, do đó được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hiện nay ngành may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng về ăn mặc của nhân dân, quốc phòng và tiêu dùng trong các ngành công nghiệp khác.
4.2. Thực trạng ngành may Việt Nam.
Do có những đặc điểm phù hợp với điều kiện nước ta, nên ngành may Việt nam và may xuất khẩu phát triển rất cao trong thời gian qua cả về mặt sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu thô và liên tục tăng, có thể thấy rõ qua bảng dưới đây:
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng qua các năm
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Kim ngạch xuất khẩu(tr.USD)
550
750
1150
1250
1350
Tốc độ tăng trưởng(%)
36
53
8,7
14,0
Đồng thời cũng là ngành mang tính xã hội cao, sử dụng mọi lao động trên khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là lao động nữ. Số lao động công nghiệp của ngành vào loại đứng đầu trong cả nước: khoảng 300 lao động chính và nhiều lao động phụ khác.
Về mặt hàng: Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang vừa có tính quốc tế vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, nhu cầu hàng may mặc lại càng phong phú và chất lượng cao hơn. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, thông qua gia công cho các nước, các doanh nghiệp may Việt Nam có điều kiện làm quen với công nghệ may các mặt hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Công nghiệp may Việt Nam tiến bộ nhanh, từ chỗ may quần áo lao động xuất khẩu, các loại quần áo đơn giản như vỏ chăn, áo gối, quần áo ngủ, quần áo học sinh... đến nay đã may được nhiều mặt hàng cao cấp được nguời tiêu dùng chấp nhận, khách nước ngoài tín nhiệm đặt hàng đi tiêu thụ tại các thị trường khó tính trên thế giới.
Tính đến năm 1998, sản phẩm may Việt Nam đã xuất khẩu sang 46 nước, riêng thị trường EU chiếm 40%, tiếp sau là Nhật Bản 16%, Đài Loan 11%, Hàn Quốc 9%, các nước SNG 6%, các nước khác 8%. Ngoài ra còn có Nauy và Canada cấp hạn ngạch xuất khẩu hàng may cho ta. Việc có được hạn ngạch may là rất có ý nghĩa, đặc biệt là hiệp định may với EC (European community), nay đổi là EU (European Union) bởi vì:
Thứ nhất: EU là thị trường rất rộng lớn, khả năng tài chính, tiêu thụ cũng rất lớn. Một thị trường với hơn 350 triệu dân có mức sống cao, nhu cầu về hàng may mặc hàng năm lên tới 22-23 ngàn tấn vải, quả là một thị trường lý tưởng cho ngành may Việt Nam.
Thứ hai: là hiệp định may tạo ra thị trường ổn định để phát triển ngành may, trị giá hạn ngạch lên tới 300-400 triệu USD/năm. Đồng thời thị trường hạn ngạch thường hiệu quả hơn vì có giá ổn định và cao hơn. Ví dụ: giá gia công một chiếc Jackét ( cat 21) ở thị trường EC là 4,2-4,6 USD thì ở thị trường khác chỉ 2,5-2,8 USD.
Thứ ba: là phần nào khẳng định uy tín chất lượng của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường thế giới. Có hạn ngạch tức là khách hàng sẽ tìm đến chứ không chỉ người sản xuất Việt Nam đi tìm khách như trước nữa.
Ngành may Việt nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, hàng may của ta có thêm thị trường Mỹ. Tuy có những thuận lợi trong việc mở rộng thị trường nhưng thử thách đối với hàng may của ta với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng thích ứng về mẫu mốt, chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng theo thời vụ và tập quán buôn bán còn rất hạn chế. Số lượng sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu nguời tiêu dùng ở các nước phát triển chưa nhiều. Thị trường truyền thống có dung lượng lớn như Liên Xô và các nước Đông Âu chưa tìm được phương thức làm ăn thích hợp, nhất là phương thức thanh toán.
Cho đến nay, ngành may Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 200 Công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Tuy vậy, thị trường xuất khẩu vẫn không ổn định, đặc biệt là đối với thị trường phi hạn ngạch.
5. Mục tiêu và định hướng phát triển.
Theo quy luật của sản xuất hàng hoá, thị trường là yếu tố quyết định của sản xuất. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển, hoà nhập được vào thị trường may của khu vực và thế giới, trong những năm tới ngành may Việt Nam coi trọng phương châm “hướng ra xuất khẩu-coi trọng thị trường nội địa” để tổ chức sản xuất.
Sau khi mất thị trường truyền thống là Liên Xô và Đông Âu cũ, ngành may đã cố gắng khai thác thị trường mới là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, EU... song còn nhiều hạn chế. Để duy trì và phát triển sản xuất-xuất nhập khẩu, Tổng Công ty phải tổ chức tìm kiếm thị trường một cách chủ động, khắc phục tính thụ động ngồi chờ, giữ vững, khai thác, mở rộng các thị trường hiện có, nhanh chóng tìm kiếm, khai thác thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ và thị trường truyền thống cũ. Trước mắt có thể làm gia công, nhưng phải chuẩn bị các điều kiện để chuyển dần từng bộ phận, từng doanh nghiệp khi đủ khả năng sang phương thức xuất FOB.
Trong hai thập kỷ tới, ngành may Việt Nam vẫn hướng ra xuất khẩu để thu hút ngoại tệ, tự cân đối để tồn tại và phát triển, đồng thời coi trọng thị trường nội địa để làm cơ sở cho sự phát triển.
Trên thực tế hiện nay, có thể tạm chia thị trường may Việt Nam thành hai khu vực.
5.1. Thị trường nội địa.
Trên lĩnh vực này, ngành may Việt nam cũng gặp phải không ít những khó khăn khi phải thi đấu với những đối thủ trên sức mình. Vì Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức và thực hiện các điều khoản của hiệp định AFTA, thị trường nội địa là “sân chơi” của các nước trong khu vực. Trong khi ngành dệt Việt Nam đang ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực: về phần cứng ta sau bạn từ 7-8 năm, về phần mềm thì sau 15-20 năm. Như vậy, để giữ được thị trường trong nước, không để hàng các nước trong khu vực tràn vào cạnh tranh, ngành dệt may phải có những bước đi và giải pháp thích hợp trong thời gian tới.
5.2.Thị trường xuất khẩu.
Đây là thị trường có nhu cầu lớn nhưng lại có yêu cấu rất cao về chất lượng và mẫu mã, đặc biệt là thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU. Để vào được thị trường này, ngành may phải đi từng bước từ dễ đến khó, từ gia công đến xuất hàng FOB ( năm 2010 hàng vào EU là 70% FOB ) và thương mại. Với tình hình thực tế ngành may của ta hiện nay, chỉ có thể đi vào các chủng loại mặt hàng chất lượng thấp và trung bình, một số ít mặt hàng đạt đến khá. Các loại mặt hàng cao cấp của thị trường này ta chưa thể làm được và rất khó cạnh tranh. Đặc biệt vào năm 2005, thị trường Mỹ sẽ không còn hạn ngạch, với lợi thế nhân công rẻ, ngành may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường này.
Thâm nhập và tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc khó khăn phức tạp nên phải phát huy khả năng của mọi doanh nghiệp để mở rộng và phát triển thị trường. Đồng thời ngành may Việt nam cũng phải từng bước đầu tư hợp lý, tổ chức lại quản lý sản xuất để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh và uy tín trên thị trường.
Trong những năm tới, ngành may Việt Nam phải đầu tư phát triển để đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 1999-2003 là 15%/năm. Đến năm 2003 xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,2-1,3 triệu USD, tăng ba lần so với năm 1998. Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt Nam sản xuất chiếm khoảng 40-50%. Tạo việc làm cho khoảng một triệu lao động.
Đến năm 2010 xuất khẩu hàng may mặc đạt 3 tỷ USD, tăng gấp hai lần so với năm 2003. Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt nam sản xuất chiếm 60-70%. Tạo ra công ăn việc làm cho gần hai triệu lao động với mức thu nhập bình quân trên 100 USD/1tháng/1người.
II. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty Dệt- May thời kỳ 1998-2001.
Mặt hàng may mặc Việt nam trong nhiều năm qua chiếm một vị trí quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao giá trị sản lượng của toàn bộ ngành công nghiệp Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc tăng vọt từ năm 1996, là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định may mặc giữa Việt nam với EC (Europed Community). Hiệp định này đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về số lượng, chất lượng và thị trường của sản phẩm may mặc "Made in Vietnam" trên thị trường thế giới.
Nếu như năm 1996 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đạt 350 triệu USD thì năm 1997 tăng lên 554 triệu USD, chiếm 85% kim ngạch hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, chiếm khoảng 13-14% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1998 vẫn giữ tỉ trọng này nhưng về mặt giá trị đã tăng lên 750 triệu USD. Với sự ra đời của Tổng Công ty Dệt- May Việt nam trên cơ sở thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất- xuất nhập khẩu hàng may mặc đã phát huy được sức mạnh tổng hợp, tạo được thế và lực. Từ năm 1998 tới nay, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc không ngừng tăng lên và đã đứng hàng thứ hai trong danh mục hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3: Giá trị xuất khẩu hàng may Việt nam 1994-2001.
(Đơn vị: triệu USD)
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Giá trị XK toàn quốc
2.087,1
2.580,7
2.985,0
4.054,3
5.200,0
7.255,8
8.850,0
8.910,0
Giá trị XK ngành may Việt nam
116,0
180,0
350,0
550,0
750,0
1.150,0
1.250,0
1.310,0
Tỷ lệ so với XK toàn quốc (%)
5,6
7
11,7
13,6
14,4
15,8
14,1
14,7
(Nguồn: Dự án qui hoạch tổng thể ngành công nghiệp Dệt- May đến năm 2010, tr. 17.)
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam phải kể đến hàng Dệt-May. Tuy đứng ở vị trí thứ hai sau dầu thô, nhưng đây là mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Năm 2000 tỷ lệ xuất khẩu hàng Dệt-May chiếm 14,1% so với toàn quốc đến năm 2001 tỷ lệ này tăng lên 14,7% mặc dù bị ảnh hưởng không ít bởi cơn khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á. Đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Tổng Công thuốc thú y, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Điều này góp phần giải quyết việc làm, tích cực đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
1. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo mặt hàng.
Trong những năm qua, Tổng Công ty Dệt-May Việt nam thực hiện kinh doanh đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, khách hàng có xu hướng tăng lên. Tổng Công ty có khả năng tạo nguồn hàng với khối lượng lớn và đang mở ra một hướng kinh doanh mới phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế trong nước và thế giới.
Các hình thức xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty chủ yếu là xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu trả nợ, liên doanh với các đơn vị để xuất, giao hàng đổi thiết bị, mua bán đứt đoạn. Các nhóm mặt hàng chủ yếu bao gồm:
- Nhóm mặt hàng mặc thường ngày: sơ mi, quần âu, áo váy...
- Nhóm mặt hàng lót nam, nữ
- Nhóm mặt hàng thường dùng ở nhà: các loại bộ ngủ nam, nữ; vỏ chăn, ga, gối.
- Nhóm quần thể thao: quần áo vải thun, quần áo bò (Jean)
- Nhóm thời trang hiện đại (quần áo mode)
- Nhóm trang phục đặc biệt: quân đội, bảo hộ lao động cho các loại ngành nghề.
Các nhóm hàng trên với nhiều chất liệu vải và phụ liệu, với tay nghề tốt, khéo léo nên sản phẩm xuất khẩu ra đạt yêu cầu về chất lượng của khách hàng.
Bảng 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu qua các năm
Mặt hàng
1999
2000
2001
Tr. USD
% TKN
Tr. USD
% TKN
Tr. USD
% TKN
1. Sơ mi
108,871
14,25
236,028
20,52
257,043
20,56
2.Jacket và áo khoác các loại
118,459
15,79
225,742
19,63
241,978
19,36
3. Quần các loại
58,630
7,82
110,483
9,61
157,142
12,57
4. Dệt kim các loại
57,799
7,71
92,421
8,03
107,664
8,6
Sau mỗi đợi xuất hàng, Tổng Công ty đều tổ chức hạch toán kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ ở các công đoạn xem có đúng, đầy đủ, chính xác không để kịp thời phát hiện, bổ sung thiếu sót. Do vậy, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc liên tục hoàn thiện và phát triển. Có thể thấy rõ hơn sự biến động tăng giảm của từng sản phẩm qua các năm qua (Bảng 4).
Qua bảng trên cho thấy, tình hình xuất khẩu các mặt hàng may mặc nói chung có triển vọng tốt, chẳng hạn đối với mặt hàng sơ mi năm 1999 giá trị đạt hơn 100 triệu USD, chiếm 14,52% tổng kim ngạch thì năm 2000 đã tăng lên hơn 200 triệu USD, chiếm 20,52% và năm 2000 là 20,56%. Trong cơ cấu hàng may mặc xuất khẩu trên thì xu hướng hàng may mặc sẵn có xu hướng tăng lên nhiều bởi Tổng Công ty ngoài việc thực hiện xuất khẩu còn thực hiện làm hàng trả nợ cho các nước SNG và Đông Âu. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự hỗ trợ của các đối tác, Tổng Công ty không ngừng đầu tư đổi mới trang thiết bị, dây truyền công nghệ, thay thế các thiết bị cũ, lạc hậu, lắp đặt các thiết bị hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm đa dạng (sơ mi, jacket, đồ thể thao...) từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường. Đặc biệt đối với mặt hàng sơ mi nam cao cấp đã có mặt và đứng vững trên thị trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Bắc Mỹ.
Đối với mặt hàng dệt kim, những năm trước kia có giá trị xuất khẩu rất lớn, do khi đó chưa đòi hỏi kỹ thuật cao cấp và nhu cầu ở các nước bạn hàng rất lớn. Còn hiện nay, hàng dệt kim đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, trên thị trường lại có nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt. Do đó mặt hàng này hiện nay xuất khẩu chủ yếu là để trả nợ . Bên cạnh đó, mặt hàng này phần lớn là được xuất sang các nước SNG, vì vậy khi các nước này tan rã, thì thị trường cho mặt hàng này bị thu hẹp nhanh chóng. Nếu như năm 1996 xuất khẩu chiếm 39,1% thì từ năm 1998 đến nay chỉ đạt từ 7 đến 8%.
Trên đây là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Tổng Công ty. Hiện nay Tổng Công ty đang tiếp tục củng cố và tiến tới nâng cao tỉ trọng hàng dệt kim, hoàn thiệnvà phát triển hàng may mặc, đảm bảo chất lượng cao, chủng loại đa dạng phong phú, giá thành giảm dần.
Bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại cần giải quyết. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cao nhưng hình thức xuất khẩu hàng gia công là chủ yếu, do đó hiệu quả chưa cao (75-80% là gia công xuất khẩu). So với các nước nói chung, mặt hàng may mặc của ta chưa cạnh tranh được (trong đó có Trung Quốc, Thái Lan). Một trong những mục tiêu phấn đấu của Tổng Công ty là từng bước giảm gia công, tăng bán sản phẩm hoàn chỉnh. Để thực hiện được mục tiêu này, Tổng Công ty hướng ưu tiên đầu tư cho khâu kéo sợi, dệt vải, in, nhuộm để tạo ra nhiều loại vải có chất lượng cao (hiện nay, vải đủ tiêu chuẩn chỉ có 10-15% nhu cầu chủng loại) và đầu tư vào sản xuất phụ liệu, khâu thiết kế mẫu mã, nhãn mác và phải đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng mua sản phẩm hoàn chỉnh của Việt Nam. Năm 1999 toàn Tổng Công ty xuất khẩu sản phẩm theo điều kiện FOB được khoảng 30%, năm 2000 đã tăng lên 40%. Đây là một cố gắng lớn của Tổng Công ty.
2. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường .
Thâm nhập tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tổng Công ty Dệt-May Việt nam. Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc luôn được Tổng Công ty chú trọng nhằm mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Đến nay Tổng Công ty đã có quan hệ buôn bán với trên 40 nước. Tổng Công ty đang củng cố vị thế và mở rộng thị trường hơn nữa. Giá trị hàng may mặc không ngừng tăng lên qua các năm.
Bên cạnh đó, nhu cầu hàng may mặc không ngừng tăng lên ở các nước trên thế giới vì sau nhu cầu ăn là nhu cầu về mặc. Tổng khối lượng lưu chuyển hàng hoá này chiếm tỉ trọng lớn trong cán cân thương mại quốc tế, chỉ đứng sau khoáng sản tài nguyên và chế tạo máy, điện tử. Khi trình độ khoa học kỹ thuật của con người ngày càng phát triển ở mức độ cao sẽ dẫn tới sự phân hoá thế giới về sản xuất. Các nước phát triển sẽ chuyển sang các ngành công nghiệp hiện đại, nhường chỗ cho các nước đang phát triển trong công nghiệp sản xuất hàng may mặc. Nhu cầu may mặc cũng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, mẫu mã, chất liệu phong phú hơn, đặc biệt xã hội càng văn minh lịch sự bao nhiêu thì yêu cầu về mặc lại càng được chú ý cầu kỳ bấy nhiêu. Nhận biết được các yếu tố đó đã giúp cho Tổng Công ty trong hoạt động xuất khẩu đạt được những kết quả đáng khích lệ. Để hiểu rõ hơn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty sang các thị trường trong thời gian qua, ta hay xem xét qua bảng 5 dưới đây:
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường chủ yếu 1998-2001
Thị trường
1998
1999
2000
Tr. USD
% TKN
Tr. USD
% TKN
Tr. USD
% TKN
TT có hạn ngạch
Trong đó:
- EU
310
41,3
420
36,52
650
52
- Canada
17,85
2,38
15,97
1,39
12,89
1,03
- Nauy
9,53
1,27
5,82
0,51
4,93
0,39
TT Phi hạn ngạch
Trong đó:
- Thuỵ Sĩ
27,6
3,68
8,64
0,75
8,51
0,68
- Hungary
57,5
7,70
102,59
8,93
105,58
8,44
- Ucraina
37,21
4,97
119,12
10,35
121,3
9,7
- Séc
39,87
5,32
189,22
16,45
69,07
5,53
- Nga
50,53
6,74
43,75
3,8
39,87
3,19
- Nhật
59,28
7,90
79,85
6,94
29,54
2,36
- Hàn quốc
36,71
4,89
9,87
0,9
8,75
0,7
- Đài loan
47,66
6,35
25,69
2,23
30,42
2,43
- Hồng Kông
29,21
3,89
97,54
8,48
112,37
9,04
- Mỹ
5,48
0,73
9,74
0,85
14,28
1,14
- Các nước khác
21,57
2,88
22,2
1,90
42,49
3,41
Tổng
750
100
1150
100
1250
100
Qua bảng số liệu trên cho thấy, hàng may mặc xuất khẩu của Tổng Công ty chiếm tỉ trọng lớn ở các thị trường Nga, Nhật, EU, Séc, Ucraina, Hungary. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở các thị trường trên vẫn chưa thật ổn định.
Trong số các thị trường có hạn ngạch, thì EU là thị trường lớn nhất của Tổng Công ty. Đây là một thị trường đông dân (350 triệu người) lại có sức tiêu dùng vải cao (17 kg/ 1 người). Yêu cầu về hàng may mặc đặc biệt cao. Nhu cầu tiêu dùng để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10- 15% giá trị sản phẩm, còn 80- 90% là theo mốt, nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm may là chính.
Trong ba năm 1998, 1999, 2000, quota xuất khẩu hàng may mặc Việt nam vào EU không ngừng tăng lên. Điều đó chứng tỏ chất lượng hàng may mặc đã ngày một cao hơn. Nhưng so với các nước có quota vào EU thì số lượng của ta còn rất nhỏ bé (mới chỉ chiếm 0,7% tổng kim ngạch nhập hàng may mặc vào EU) và chỉ bằng 5% đối với Trung Quốc, 10- 20% so với các nước ASEAN. Tuy nhiên, ta cũng còn gặp nhiều khó khăn như nhiều mặt hàng lớn thì bị hạn chế về số lượng như Jacket, áo sơ mi mới chỉ đạt 50% công suất của ngành. Số hạn ngạch còn hạn chế: Hiệp định Việt nam- EU 1996- 1998 qui định 151 cat. Giá trị xuất khẩu năm 1998 đạt 310 triệu USD, năm 1999 ký lại còn 54 cat (nhóm hàng xuất khẩu) đã nâng kim ngạch xuất khẩu lên 410 triệu USD. Năm 2000 Hiệp định này ký lại rút xuống còn 29 cat, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU lên 650 triệu USD chiếm 52% tổng kim ngạch xuất khẩu. Số nhóm hàng xuất khẩu (cat) mà EU dành cho hàng may mặc Việt Nam càng giảm thì số chủng loại mặt hàng may Việt Nam càng có cơ hội thâm nhập vào thị trường EU nhiều hơn.
Ngoài ra, EU còn dành một số ưu đãi về thuế quan (GSP) đối với mặt hàng may mặc do Việt Nam sản xuất. Song do nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nước còn yếu kém, chưa có mẫu mã phù hợp với thị hiếu và chưa có bạn hàng mua bán trực tiếp ở các nước trong khối EU... nên hầu hết phải thông qua gia công cho các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... Gia công đơn thuần làm cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc không hiệu quả, bị thua thiệt nhiều mặt, không tận dụng được ưu đãi quota mà EU dành cho ta. Đối với thị trường EU, kim ngạch xuất khẩu có tăng lên, xong không đáng kể. Các thị trường Canada, Nauy bị thu hẹp do hàng của Tổng Công ty không cạnh tranh được với hàng của các nước khác. Chẳng hạn như mặt hàng sơ mi, Trung Quốc phát triển hơn ta rất nhiều.
Đối với nhóm thị trường phi hạn ngạch, nhìn tổng thể thì kim ngạch xuất khẩu tăng đều trên các thị trường Hungary, Ucraina, Hồng Kông, Mỹ nhưng trên một số thị trường khác thì xuất khẩu lại giảm, chẳng hạn như: Nga, Đài loan, Thuỵ sĩ, đặc biệt là thị trường Nhật giảm rất nhanh trong năm2000. Sở dĩ vì có tình trạng trên là vì ở các thị trường Séc, Hungary phần lớn là hàng trả nợ. Trên thị trường Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu đổi hàng thuỷ điện Yaly, thuỷ điện Yaly nợ Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu hàng may mặc sang Ucraina, Yaly trả tiền cho Tổng Công ty, do đó khối lượng tiêu thụ sang những thị trường này là tương đối lớn.
Mặt khác, đây là các thị trường dễ tính, phù hợp với trình độ và quen thuộc của Tổng Công ty nên dễ thực hiện, tuy nhược điểm đồng tiền trên thị trường SNG và một số nước Đông Âu còn biến động lớn.
Trên thị trường Nga, mặc dù giá trị hàng xuất khẩu năm 1999, 2000 có giảm đi nhưng không đáng kể vì trên thị trường này xuất khẩu chủ yếu là hàng đổi hàng và để trả nợ. ở Đài Loan, Nhật Bản thì con số này chỉ ở mức khiêm tốn, chiếm khoảng 1,7%. Đây là thị trường to lớn và hấp dẫn mà Tổng Công ty cần khai thác hiệu quả hơn nữa.
Ngoài các thị trường trên, Mỹ là thị trường mới mẻ đối với Tổng Công ty. Qua ba năm từ 1998-2000 thị trường Mỹ đã liên tục được mở rộng và tăng lên tuy nhiên chưa lớn lắm. Đây là một thị trường đầy triển vọng đối với Tổng Công ty. Mỹ-một thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế giới, dân số đông (hơn 360 triệu người), mức tiêu thụ hàng may mặc gấp rưỡi EU (27kg/ 1 người). Từ sau khi quan hệ Việt-My bình thường hoá, hai nước đã đặt quan hệ Đại sứ, bãi bỏ cấm vận, tuy chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và tối huệ quốc MFN, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc giữa Tổng Công ty với Mỹ luôn tiến triển tốt đẹp.
Trong khuôn khổ đàm phán WTO từ 1/1/1998 thì trong vòng 10 năm nữa hàng rào hạn ngạch hàng dệt may bị bãi bỏ và thuế sẽ giảm trung bình 9%. Các nước có xu hướng sản xuất hàng dệt may đang điều chỉnh lại chiến lược phát triển ngành dệt may nước họ, chuẩn bị đọ sức quyết liệt tại thị trường Mỹ không hạn ngạch vào năm 2005, đặc biệt là đối với những nước có lợi thế nhân công rẻ sẽ ồ ạt xuất hàng may mặc vào Mỹ. Tổng Công ty Dệt May Việt nam do xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ còn quá nhỏ bé (0,037% tổng kim ngạch nhập năm 1998) nên cần có chiến lược tiếp thị, phát triển các mặt hàng may mặc phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng, và thị hiếu của thị trường Mỹ, đầu tư đón trước thời cơ để có thể thâm nhập mạnh mẽ vào được thị trường khổng lồ này.
Có thể nói rằng những thành công của Tổng Công ty trong thời gian qua không chỉ thể hiện bằng những con số, mà còn phải kể đến thị trường mở rộng, mặt hàng đa dạng, phong phú, tạo ra uy tín đối với các đơn vị kinh doanh trong và ngoài nước, đây mới là tài sản vô hình quí giá không dễ gì đạt được.
3. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam.
Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty là một đòi hỏi bức thiết đối với công tác quản lý cũng như đối với Tổng Công ty nhằm hướng Tổng Công ty quan tâm khai thác tiềm năng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, tăng cường tích luỹ để đầu tư tái kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Có rất nhiều chỉ tiêu để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty. Song đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc thì chỉ tiêu lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hai chỉ tiêu quan trọng nhất.
3.1. Cơ sở hình thành lợi nhuận của Tổng Công ty từ hoạt động xuất khẩu.
Để có thể phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất khẩu một cách rõ ràng, chính xác cần thiết phải xem xét những khoản mục nào tạo nên chi phí, lợi nhuận trước và sau thuế được hình thành như thế nào. Cơ sở hình thành lợi nhuận của tổng Công ty có thể được tóm tắt như sau:
P = [( R - C ) - T ] + B
Trong đó:
R: Tổng doanh thu từ hợp đồng xuất khẩu: Giá trị hợp đồng
C: Tổng chi phí hợp lý, hợp lệ bao gồm:
- Giá vốn hàng hoá: giá mua và chi phí thu mua
- Tiêu hao nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu
- Khấu hao tài sản cố định
- Tiền công, tiền lương
- Lệ phí hải quan, thuê tàu, bảo hiểm hàng hoá
- Chi phí quản lý, tiền lãi ngân hàng
- Chi phí liên quan trực tiếp đến lưu thông hàng hoá xuất khẩu ở trong nước:
+ Bốc xếp, vận chuyển
+ Chi phí bảo quản, đóng gói bao bì
+ Chi phí giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng
- Các chi phí được coi là hợp lệ
T: Thuế các loại, bao gồm:
- Thuế doanh thu
- Thuế sử dụng vốn ngân sách cấp (gọi tắt là thuế vốn)
- Thuế lợi tức tính theo công thức sau:
Trước năm 1999:
Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- thuế vốn + Lợi tức khác) * thuế suất lợi tức
Năm 2000 đến nay:
Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- lợi tức khác) * thuế suất lợi tức
B: Các khoản lợi tức khác:
Bao gồm:
- Các khoản lợi tức khác phải nộp thuế:
+ Lãi tiền gửi ngân hàng
+ Lãi từ hoạt động kinh doanh cho thuê động sản, bất động sản
+ Lãi từ hoạt động kinh doanh phụ khác
+ Lãi từ các hoạt động tài chính khác
+ Chênh lệch thanh lý , chuyển nhượng tài sản cố định
- Các khoản lợi tức khác không phải nộp thuế
+ Lãi từ góp vốn liên doanh
+ Lợi nhuận góp hoặc mua cổ phiếu, cổ phần
P: Thực lãi của Tổng Công ty từ hoạt động xuất khẩu
Phần lãi này được chia làm 3 quĩ theo qui định của Nhà nước và thuộc quyền sử dụng của Tổng Công ty trong phạm vi 3 quĩ đó là: quĩ phát triển sản xuất, quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi.
Trong thực tế khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta phải chú ý đến tương quan giữa tỉ giá hối đoái chính thức được công bố trên thị trường và tỉ giá hàng xuất khẩu.
Tỉ giá hàng xuất khẩu là số nội tệ phải bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ ví dụ là (Mx)
Khi nhà sản xuất hoàn thành thủ tục giao hàng, sẽ thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ. Số lượng ngoại tệ thu về là giá trị của hợp đồng xuất khẩu gọi là doanh thu hoạt động xuất khẩu (Rx). Như vậy, để thu được Mx đơn vị ngoại tệ thì Tổng Công ty phải chi phí (Mx*Rx) đồng nội tệ, đó chính là các khoản chi phí ở mục b.
Số lượng ngoại tệ Mx thu về được đổi thành đồng nội tệ theo tỉ giá hối đoái trên thị trường là Mtt và (Mtt*Mx) đồng nội tệ. Vì vậy lợi nhuận hoạt động xuất khẩu là:
LNx = Mtt*Rx - Mx*Rx = (Mtt - Mx)* Rx
Lợi nhuận xuất khẩu chỉ dương hay nhà xuất khẩu chỉ có lợi khi tỉ giá hối đoái của thị trường Mtt lớn hơn tỉ giá hàng xuất khẩu Mx. Khi Mtt = Mx thì nhà xuất khẩu hoà vốn.
3.2. Tổng lợi nhuận.
Tổng lợi nhuận thường được biết đến là lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, được tính bằng doanh thu trừ đi chi phí.
Tổng lợi nhuận có thể được xem xét dựa vào bảng sau:
Bảng 6: Tình hình tài chính của Tổng Công ty năm 1998-2001.
(Đơn vị: Triệu VND)
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
- Doanh thu
- Chi phí
- Lợi nhuận trước thuế
- Nộp thuế
- Lợi nhuận sau thuế
- Lợi nhuận khác
83.905
81.119
2.786
1.253
1.533
161583
155.926
5.657
2.340
3.317
465
198770
192327
6.443
245.302
237.807
Thực lãi
1.533
3.782
3.866
4.623
Qua bảng trên cho thấy, tỷ trọng chi phí trên tổng doanh thu lần lượt qua các năm là: 96,7%; 96,5%; 96,8%. Tỷ trọng trước thuế tương ứng với 3 năm đó là: 3,32%; 3,5%; 3,24%.
Như vậy tỷ trọng của lợi nhuận trước thuế trong tổng doanh thu là tương đối ổn định đạt mức trung bình là 3,35% trong thời kỳ 1998-2000. Doanh thu qua các năm không ngừng tăng lên. Năm 1999 so với năm 1998 đã tăng thêm được 77678 triệu đồng, năm 2001 tăng thêm so với năm 2000 là 31187 triệu đồng.
Như đã đề cập ở trên, lợi nhuận trước thuế sau khi trừ đi các khoản nộp ngân sách thu được khoản lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế cộng thêm các khoản lợi tức khác của Tổng Công ty thu được thực lãi, mà thực lãi sau đó sẽ được trích lập thành ba quĩ theo qui định của Nhà nước. Vì vậy, sẽ là không đầy đủ khi đánh giá hiệu quả kinh tế theo lợi nhuận nói chung mà chỉ phân tích lợi nhuận trước thuế.
Tỷ trọng nộp ngân sách trong tổng lãi gộp qua các năm 1998,1999, 2000,2001 tương ứng là: 45%; 41,4%; 40%, 42% trung bình là 42,1%. Tỷ trọng của lợi nhuận sau thuế trong tổng lợi nhuận tương ứng là: 51,1%; 58,6%; và 60%, 61% trung bình là 57,9%. Những con số trên đây cho thấy mức độ nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước của Tổng Công ty. Phần lợi nhuận sau thuế có tỷ trọng trung bình trong tổng lãi gộp từ hoạt động kinh doanh là: 57,9%, trong đó tổng chi phí là 2,01%, trong tổng doanh thu nói chung là 1,94%. Như vậy trong thời kỳ 1998-2001 vừa qua, hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty tương đối ổn định, luôn đảm bảo nghĩa vụ đầy đủ đối với Nhà nước.
Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận trước thuế thời kỳ 1998-2001 là 58,47% so với tốc độ tăng trưởng trung bình của tổng doanh thu cùng kỳ là 57,8%. Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận sau thuế trong thời gian này là 66,46%, của nộp ngân sách là 48,44%.
Xét về số tuyệt đối thì tổng lãi gộp chưa lớn, hay phần nộp ngân sách và lợi nhuận sau thuế còn nhỏ bé nhưng rõ ràng lợi nhuận trước và sau thuế tăng đều đặn và đạt từ 58- 66%, cùng với mức tăng trưởng doanh thu là 57,8%. Đó là một dấu hiệu tích cực, phản ánh quá trình tích cực của Tổng Công ty trong suốt thời kỳ 1998-2001 đã đạt được hiệu quả kinh tế cao, không những mang lại lợi nhuận ngày càng cao cho Tổng Công ty mà còn tăng thu ngân sách cho Nhà nước.
3.3. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, doanh thu, và vốn kinh doanh.
3.1.1. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc) được tính theo công thức:
* 100%
Dc =
Tổng lợi nhuận
Tổng chi phí
Trong đó tổng lợi nhuận được tính là tổng lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp, là phần còn lại của doanh thu sau khi đã bù đi các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, nếu tính doanh lợi theo chi phí dựa trên ba nhân tố là lãi gộp, lợi nhuận trước thuế, thực lãi của Tổng Công ty thì không những biết được rằng một đồng chi phí bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lãi gộp mà còn cho biết trong phần lãi gộp đó bao nhiêu đồng trở về ngân sách Nhà nước, bao nhiêu là phần lãi thực tế của Tổng Công ty. Phân tích như vậy sẽ có giá trị so sánh hơn rất nhiều.
Bảng 7: Doanh lợi theo chi phí thời kỳ 1998-2001
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
Tổng chi phí
81.119
155.926
192.327
237.807
Lợi nhuận trước thuế
2.786
5.657
6.443
7.495
Lợi nhuận sau thuế
1.533
3.317
3.866
4.623
Thực lãi
1.533
3.782
3.866
4.623
Dc (theo lợi nhuận trước thuế)
3.4
3,6
3.4
3,5
Dc (theo lợi nhuận sau thuế)
1.9
2,1
2,0
2,0
Dc (theo thực lãi)
1.9
2.4
2,0
2,0
Về nội dung, các số liệu ở các cột tương ứng với các năm có ý nghĩa như nhau vì thế chỉ cần chú giải một cột, ví dụ như năm 1999. Trong năm 1999:
Một đồng chi phí bỏ ra có thể thu về 0,036 (3,6%) đồng lãi gộp.
0,036 đồng lãi gộp đó có 0,024 đồng thực lãi của Tổng Công ty.
0,036 đồng đó có 0,015 đồng quay lại ngân sách Nhà nước
Như vậy từ một đồng chi phí bỏ ra năm 1999, Tổng Công ty thu về được 0,036 đồng lợi nhuận trước thuế, nộp 0,015 đồng cho ngân sách Nhà nước, thu về là 0,021 đồng lợi nhuận sau thuế và 0,024 đồng thực lãi của Tổng Công ty. Sở dĩ số thực lãi và lợi nhuận sau thuế không thống nhất với nhau vì Tổng Công ty còn có các khoản lợi tức khác cộng thêm vào lợi nhuận sau thuế mới có được thực lãi. ởđây, các khoản lợi tức khác được tính vào thực lãi của Tổng Công ty không phải là lợi tức từ hoạt động kinh doanh nhưng chỉ tồn tại khi Tổng Công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đó không phải là các khoản lợi nhuận thu về từ chênh lệch doanh thu và chi phí, nhưng lại có nguồn gốc từ chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, các khoản lợi nhuận này được đưa vào tính tỷ suất lợi nhuận để có giá trị phân tích cao hơn.
Qua bảng trên có thể thấy rằng các khoản chi phí của Tổng Công ty để tiến hành hoạt động xuất khẩu nhìn chung là tiết kiệm. Tỉ lệ lợi nhuận trước và sau thuế thu về từ mọi hoạt động chi phí là tương đối cao. Bản thân doanh lợi theo chi phí này phản ánh mức độ tiết kiệm các khoản chi phí và cũng là một khiá cạnh quan trọng đánh giá hiệu quả kinh doanh. Trên góc độ của chỉ tiêu này nhận thấy hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu trong thời kỳ 1998-2001 là tương đối cao. Kết quả tích cực đó tạo nên nền tảng vững chắc để Tổng Công ty có thể mở rộng cả về chiều sâu chiều rộng trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc trong tương lai.
3.3.2. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (Dr) được tính theo công thức:
Lợi nhuận
Dr = * 100%
Doanh thu
Xét lợi nhuận của năm 1999:
Trong một đồng doanh thu có 0.035 đồng lợi nhuận. Trong 0.035 đồng đó có 0.015 đồng quay lại ngân sách Nhà nước, 0.02 đồng là lãi sau thuế của Tổng Công ty. Phần lãi sau thuế này cộng thêm với phần góp thêm của các lợi tức. Còn lại 0.023 đồng lợi nhuận thực tế.
Bảng 8: Doanh lợi theo doanh thu thời kỳ 1998-2001.
Năm Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
Tổng doanh thu
83.905
161.583
198.790
245.302
Lợi nhuận trước thuế
2.786
5.657
6.443
7.495
Lợi nhuận sau thuế
1.533
3.317
3.866
4.623
Thực lãi
1.533
3.782
3.866
4.63
Dr (Tính theo lợi nhuận trước thuế) (%)
3,3
3,5
3,2
3,24
Dr (Tính theo lợi nhuận sau thuế) (%)
1.8
2,0
1,9
1,97
Dr (Theo thực lãi)
1,8
2,3
1,9
1,97
Như vậy, từ một đồng doanh thu Tổng Công ty có 0.035 đồng lợi nhuận trước thuế, 0.02 đồng lợi nhuận sau thuếvà 0.023 đồng lợi nhuận thực tế. Thực tế cho thấy, doanh lợi theo doanh thu cho biết khả năng sinh lời từ một đồng doanh thu, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí phản ánh mức độ tiết kiệm chi phí, khả năng sinh lợi của một đồng chi phí. Tuy nhiên, nếu chỉ có doanh lợi theo chi phí và doanh thu cao thì chưa đủ để kết luận về hiệu qủa kinh doanh, mà cần thiết phải xem xét lợi nhuận trong mối quan hệ với các nguồn lực của doanh nghiệp, đặc biệt là vốn kinh doanh.
3.3. Doanh lợi tính theo vốn kinh doanh.
Vốn lưu động thường chiếm hơn 80% tổng vốn của một doanh nghiệp thương mại. Việc sử dụng luân chuyển vốn lưu động có quan hệ nhân qủa, chặt chẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động kinh doanh.
Doanh lợi theo vốn lưu động (Dv) được tính theo công thức sau:
Lợi nhuận
Dv = * 100%
Obq
Obq: Là số dư bình quân của vốn lưu động trong thời gian tính lợi nhuận.
Obq được tính như sau:
-Trong một tháng:
Odk + Ock
Obq =
2
Odk: Dư đầu kỳ vốn lưu động
Ock: Dư cuối kỳ vốn lưu động
- Trong một quí:
Obq: Là tổng bình quân số dư vốn lưu động của các tháng trong kỳ.
- Trong một năm:
Obq: Là tổng bình quân của 12 tháng hay bốn quí.
Xác định số dư vốn lưu động đầu kỳ và cuối kỳ căn cứ vào số dư đầu kỳ và dư nộp cuối kỳ trên các tài khoản theo dõi tài sản lưu động và vốn lưu thông thể hiện bằng tiền và hàng hoá trên sổ sách báo cáo kết quả của phòng kế toán của Tổng Công ty.
Xét năm 1999 ( Bảng 9 ):
Doanh lợi theo vốn lưu động bình quân là 0.25 cho biết từ một đồng vốn lưu động bỏ ra trong năm có thể thu về bình quân 0.25 đồng lợi nhuận trước thuế. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, Tổng Công ty có thể thu về bình quân là 0.25 đồng lợi nhuận sau thuế.
Doanh lợi tính theo vốn lưu động bình quân là khá ổn định trong ba năm 1998-2000, với mức trung bình là 19.3 % nếu là lợi nhuận chưa trừ thuế và 11.3% với lợi nhuận sau thuế. Như vậy, chúng ta có thể thấy hiệu quả sinh lợi từ vốn lưu động là rất cao. Đây là một chỉ tiêu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Tổng Công ty.
Bảng 9: Doanh lợi theo vốn lưu động năm 1998-2001.
(Đơn vị: Triệu VNĐ và %)
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
Số dư bình quân vốn lưu động
26.310
25.267
25.755
28.602
Lợi nhuận trước thuế
2.786
5.657
6.443
7.495
Lợi nhuận sau thuế
1.533
3.317
3.866
4.623
Dv theo lợi nhuận trước thuế (%)
10,6
22,4
25,0
25,3
Dv theo lợi nhuận sau thuế (%)
5,8
13,1
15,0
15,2
3.4. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Vốn lưu động là một nguồn lợi quan trọng nhất và đáng kể nhất bên cạnh vốn nhân lực của các doanh nghiệp thương mại nói chung, của Tổng Công ty xuất khẩu Dệt-May Việt Nam nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì thế là một dấu hiệu quyết định hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh.
Bảng 10: Chu chuyển vốn lưu động năm 1998-2001.
Năm
1998
1999
2000
2001
Tổng doanh thu (Tr.VNĐ)
83.905
161.583
198.770
245.302
Số dư bình quân vốn lưu động (Tr.VNĐ)
26.310
25.267
25.755
28.602
Tốc độ chu chuyển (vòng)
3,2
6,4
7,7
7,9
Thời gian chu chuyển (ngày)
112,5
56,3
46,8
49,0
Xét năm 1999:
Tổng mức luân chuyển vốn lưu động (doanh số) đạt 161.583 triệu đồng. Số dư bình quân vốn lưu động trong năm là 25.267 triệu đồng, tốc đọ chu chuyển đạt 6,4 vòng, thời gian mỗi lần chu chuyển là 56,3 ngày.
Xét cả thời kỳ 1998-2001, tốc độ chu chuyển vốn lưu động bình quân là 5,8 vòng, thời gian chu chuyển trung bình là 62,1 ngày, có thể nhận thấy các hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty thực hiện khá nhanh, vốn lưu động thực hiện có hiệu quả, luân chuyển liên tục trong thời gian trung bình chưa đầy ba tháng.
4. Vấn đề đối tác và mức độ cạnh tranh của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam trên thị trường thế giới hiện nay.
Trong 15 nước đạt kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới trong những năm gần đây chúng ta xem xét tới một số đối tác đang phát triển ở gần Việt Nam như Trung Quốc, Thái lan, ấn Độ, Mailaixia, Bawngladet...Tốc độ tăng Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, ấn Độ, Mailaixia, Bawngladet... Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng may mặc của các nước này những năm qua rất cao. Indonexia nhiều năm tăng trên 40%, Băngladet 40%, Trung Quốc 35%, Thái Lan 27%, Mailaixia 20%.
Thị trường hàng may mặc ở các nước phát triển đòi hỏi chất lượng sản phẩm rất cao. Để chiếm lĩnh thị trường này, các nhà sản xuất phải tuân theo các tiêu chuẩn chất lượng đó. Họ có những cơ quan kiểm nghiệm và phòng thí nghiệm hiện đại để kiểm tra chất lượng trước khi xuất. ở những nước này, thường áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 và nhãn hiệu CE đối với hàng may mặc xuất khẩu (CE là nhãn hiệu của cộng đồng Châu Âu, bảo đảm phẩm chất hàng hoá phù hợp với yêu cầu pháp lý của Châu Âu). Những điều này, Việt Nam chưa có khả năng thực hiện một cách đồng loạt ở các đơn vị sản xuất do hạn chế về khả năng tài chính, trình độ công nghệ ...Tuy nhiên trong quy trình công nghệ của tổng Công ty, các nhà sản xuất đã áp dụng hai biện pháp quản lý:
- Kiểm tra “on line” (kiểm tra trên dây chuyền) nhằm ngăn ngừa tận lỗi ở sản phẩm may ngay từ khi chúng được coi là bán thành phẩm.
- Triệt để giữ vệ sinh công nghiệp ở khâu sản xuất.
Với các nước như Thái Lan, Indonexia luôn tích cực tìm kiếm những thị trường không hạn ngạch. Nhiều khi thị trường Mỹ, Châu Âu bị đình trệ hoặc không cạnh tranh nổi với Trung Quốc ở thị trường này, Công ty may Thái Lan, Indonexia đã tìm những nước không hạn ngạch để xuất khẩu như Nhật Bản, Hà Lan, Đài Loan, Trung Đông, các nước Châu Phi và thật trớ trêu cả Việt Nam. Chúng ta không ngừng tìm kiếm thị trường ngoài nước nhưng chính tại thị trường nội địa hàng may mặc Việt Nam đã không cạnh tranh nổi với hàng ngoại nhập lậu và trốn thuế mặc dù chất lượng hàng may mặc Việt Nam không kém gì hàng ngoại nhập. Vừa qua do cơn lốc khủng hoảng tài chính trong khu vựe hàng may mặc xuất khẩu của Tổng Công ty vào thị trường Nhật, Đài Loan giảm đáng kể do đồng Việt Nam bị mất giá, không cạnh tranh nổi với các đồng tiền khác trong khu vực.
Hiện nay, ấn độ và Indonexia đã lập kho hàng xuất khẩu của mình ngay tại cảng Châu Âu ( như cảng Rotterdam) để bám sát lịch giao hàng. Đó là vấn đề tối cần thiết để có thể cạnh tranh được với những nhà giao hàng khác. Indonexia cũng thành lập trung tâm mậu dịch và phân phối của mình ở Rotterdam, trung tâm có quan hệ chặt chẽ với các cảng biển, sân bay và giữ vai trò “cửa mở” vào Châu Âu, đưa hàng may mặc xuất khẩu vào thị trường này. trung tâm cũng đứng ra lo địa điểm cho các cuộc trưng bày triển lãm và các mục đích thương mại khác. Indonexia còn lập thêm những trung tâm tương tựu ở những địa điểm quan trọng khác ở Châu âu. Hiện nay Tổng Công ty mới có các kho hàng tại một số nước là bạn hàng truyền thống như Đức, Nga...hàng may mặc xuất khẩu của tổng Công ty chủ yếu là hàng gia công dệt may Việt Nam đã tổ chức hội thảo về thị trường Mỹ và Nhật Bản đây là hai thị trường chiến lược của Tổng Công ty trong thời gian tới, đồng thời Tổng Công ty cũng cử nhiều đoàn cán bộ tham gia họi thảo triển lãm, tham quan, khảo sát tại các nước Nhật bản, trung quốc, EU, Mỹ ... để tìm hiểu thị trường và kiếm thêm khách hàng.
Các nước ở khu vực Châu á đã xúc tiến mậu dịch trong nội bộ khu vực. Đó là một bộ phận của chiến lược đối trọng với sự xuất hiện của các khối mậu dịch ở các khu vực khác. Kinh nghiệm rõ nhất về mặt này thuộc các nước ASEAN. Họ thực hiện được một điều là: Phần lớn khối lượng hàng may của nội bộ ASEAN là của các nước ASEAN chuyển khẩu qua Singapore.
Các nước ASEAN đã thông qua “chế độ ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung” (CEPT). Từ tháng 1/1996 đã giảm dần thuế quan của 15 nhóm hàng công nghệ và nông sản chế biến (trong đó có hàng may mặc) trong nội bộ các nước ASEAN. Mục tiêu sẽ giảm thuế ưu đãi xuống còn từ 0-5%. Đây là một động lực thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Tổng Công ty trong thời gian tới. Nhận thức rõ những ưu điểm và hạn chế của Tổng Công ty đệt may Việt Nam đang đặt ra cho mình những mục tiêu lớn, dự báo tốc độ tăng trưởng > 10% trong giai đoạn 2003-2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so với nhiều ngành công nghiệp khác đồng thời cũng đặt ra cho tổng Công ty nhiều thách thức lớn.
Iii. đánh giá chung những thành tựu và hạn chế của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
1. Về mặt khách quan
Những năm qua, hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty đã có những thuận lợi nhất định. Với thực tại nền kinh tế nước ta trong xu thế mở cửa, hội nhạp với khu vực và quốc tế đã tạo đã phát triển cho Tổng Công ty. Với một loạt các sự kiện như việc Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, việc ký kết với liên minh Châu Âu, gia nhập ASEAN, AFTA... đã góp phần tích cực trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty đối với các nước Châu á. Bên cạnh đó, việc Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam và xu thế trong một vài năm tới Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc. Hơn nữa, theo hiệp định hàng dệt (ATC) ký tại vòng đàm phán thương mại đa biên tháng 4/1997 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho hiệp định đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005, tất cả hàng dệt may phải được hoà nhập trở lại theo những nguyên tắc thương mại thông thường của WTO và như vậy hàng rào hạn ngạch hàng may mặc vào Mỹ sẽ được loại bỏ và thuế trung bình sẽ giảm 9%. Đây là một thời cơ để có thể đi vào thị trường đầy tiềm năng này. Nhờ những cơ hội trên mà trong suốt thời kỳ 1998-2001 hàng may mặc xuất khẩu không ngừng tăng lên, đặc biệt là hạn ngạch xuất khẩu vào EU luôn tăng tạo ra một thị trường vững chắc cho Tổng Công ty. Do biết vận dụng những cơ hội về chính sách mở cửa của Chính Phủ vì vậy cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực vừa qua không làm ảnh hưởng lớn đến sản lượng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty so với năm 2000, 2001 sản lượng xuất khẩu hàng may mặc vẫn tăng khoảng 8% nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn không đạt được mức kế hoạch do nguyên nhân chính là do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực làm sức mua của các bạn hàng lớn như Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc... giảm mạnh.
Ngoài ra, nguồn hàng may mặc chủ yếu phải thu mua, gia công ở các cơ sở sản xuất dẫn tới giá thành cao, không chủ động, hạh chế hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc thu gom khối lượng hàng xuất khẩu thường gặp nhiều khó khăn.
Ngành may chủ yếu là may gia công cho nước ngoài nên kim ngạch xuất khẩu lơn nhưng thực thu ngoại tệ thấp, chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch. Thị trường xuất khẩu không ổn định, bị động, bị ép giá... Có tới 85% sản phẩm may là làm gia công, chỉ còn 10-15% sử dụng vải trong nước. Thị trường nội địa còn để cho sản phẩm ngoại chiếm phần lớn.
Đặc biệt, đối với thị trường phi hạn ngạch, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vẫn chưa ổn định chủ yếu là do:
+ Hàng hoá của ta sản xuất chưa phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng.
+ Phương thức hoạt động chủ yếu là gia công xuất khẩu.
+ Việc tổ chức mạng lưới thông tin, tiếp thị ở nước ngoài chưa được triển khai thống nhất.
+ Một số thị trường chưa được hưởng các quy chế ưu đãi.
+ Còn thiếu hiểu biết về thủ tục, tập quán và luật lệ của các nước và khu vực trên toàn thế giới.
Do xu hướng tự do hoá thương mại, nên hàng may mặc bên ngoài tràn vào nước ta từ nhiều nguồn: Hàng nhập lậu, trồn thuế, hàng SIDA... giá rất rẻ, tràn ngập thị trường trong nước làm cho sản xuất hàng may mặc trong nước bị thu hẹp. Hơn nữa, ngành may còn gặp nhiều khó khăn ở cả đầu vào và đầu ra. ở đầu vào, nguyên kiệu trong nước ( ngành Dệt) chưa đáp ứng được do chất lượng vải thấp nên phải nhập khẩu, vì vậy rất bị động thường không đồng bộ và bị hạn chế nhiều mặt về thời gian (nếu xuất sản phẩm quá 90 ngày thì phải chịu thuế nhập khẩu). Giá gia công những năm gần đây không tăng, thậm chí còn giảm. Chẳng hạn như giá gia công một áo sơ mi năm 1995 là 10 nghìn đồng thì giảm xuống còn 5 nghìn đồng năm 1997; áo Jaket từ 80 nghìn đồng xuống còn 30 nghìn đồng, thậm chí gia công lại chỉ còn 20 nghìn ...Năng suất ngành may còn thấp (một công lao động ở ta chỉ làm được 10 áo sơ mi thấp hơn 27 áo ở nước ngoài). ở đầu ra, đối với EU có đến một nửa thị trường tiêu thụ bị khống chế bằng hạn ngajch. Hạn ngạch 2001-2003 với sơ loại sản phẩm lên tới 54 nhóm so với 20 nhóm của các nước ASEAN khác. Thị trường không hạn ngạch gần đây giảm như Nhật, thị trường Mỹ chưa sử dụng quy chế tối huệ quốc nên vẫn chịu thuế suất cao. Đối với thị trường trong nước cũng đang bị hàng nhập lậu trốn thuế cạnh tranh gay gắt.
Về mặt quản lý vĩ mô, một số chính sách hiện hành vẫn chưa thực sự tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc, như hiện tượng thuế trùng thuế, không cạnh tranh được với giá thành, giá bán trên thị trường. Chính phủ chưa có ưu đãi về vốn vay hoặc miễn giảm thuế cho đầu tư phát triển ngành Dệt-May nên các dự án đầu tư mới, vốn lớn không dám triển khai vì không tính toán trả được lãi vay và vốn.
Vấn đề tỷ lệ xuất khẩu quy định tại giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ đạo trong các cơ quản lý Nhà nước sao cho công bằng và hợp lý.
Bên cạnh những khó khăn tồn tại, Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam cũng phải đương đầu với không ít những thách thức mới.
Cùng với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thực hiện viẹc cắt giảm thuế quan CEPT của khối mậu dịch ASEAN (AFTA), đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đặt ra những thời cơ và thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó những cố gắng nỗ lực trong việc điều hành hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, xuất khẩu may nói riêng.
Hiện nay, hiệp định mới được ký kết với EU cho giai đoạn 2001-2003 có tăng lên nhưng thực tế ngành may Việt Nam vẫn dư thừa từ 20-25% năng lực. Trong khi tình hình kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc đang có những diễn biến phức tạp với những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, do vậy sức mua trong nước sẽ trì trệ, thậm chí giảm. Theo nguồn tin thương mại Nhật Bản, nhập khẩu quần áo năm 2000 đã giảm 13% về sản lượng và 5% về giá trị so với năm 1999. Năm 2001, nhập khẩu quần áo tiếp tục giảm xuống còn 20% về số lượng. Trong số các thị trường xuất khẩu lớn nhất phi hạn ngạch của Tổng Công ty thì Nhật bản là thị trường lớn nhất. Hiện tượng thị trường xuất khẩu của Tổng Công ty bị trì trệ, cơ cấu cung cầu không cân đối này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty, đòi hỏi Tổng Công ty phải có biện pháp kịp thời để ổn định và thức đẩy sự phát triển hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của mình.
Mặt khác, do cơn bão tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam á đã làm một số nước phải phá gái hoặc thả nổi đồng tiền nước họ, do vậy cạnh tranh xuất khẩu hàng may mặc vào EU, Mỹ sẽ rất ác liệt. Khi đầu tư, mở rộng sản xuất Tổng Công ty cần thấy rõ để tính toán đầy đủ các yếu tố rủi ro nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Hơn nữa, nước ta đã là thành viên đầy đủ của ASEAN và thực hiện các điều khoản của hiệp định AFTA, tiến trình giảm thuế nhập khẩu là không thể đảo ngược. Xu thế hội nhập thế giới ngày càng cao nên việc lựa chọn và định hướng đầu tư đúng, có hiệu quả đang đặt ra rất bức thiết. Đón nhạn thời cơ đồng thời dám chấp nhận thử thách, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần phải có những bước đi và giải pháp phù hợp trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Cạnh tranh gay gắt song không có nghĩa là không dám cạnh tranh, đây là một bài toán khó đối với Tổng Công ty. Đặc biệt Tổng Công ty đang phải đương đầu với những đối thủ trên sức mình trong lĩnh vực hàng may mặc cả về thị trường trong và ngoài nước. Chẳng hạn như Trung Quốc, một nước láng giềng của ta có hoạt động xuất khẩu hàng may mặc rất phát triển. Hàng may mặc Trung Quốc tràn ngập trên thị trường Việt Nam với những ưu thế hơn hẳn cả về chất lượng và giá cả. Năm 2000, hàng may mặc xuất khẩu chiếm hơn 1/4 tổng xuất khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc đã mở rộng xuất khẩu sang các thị trường Liên Xô cũ và các nước Châu Phi-đây vốn là những thị trường dễ tính đối với hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam. Liệu Tổng Công ty sẽ đối phó ra sao để cạnh tranh với một đối thủ tầm cỡ như vạy để có thể duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của mình.
Với những thách thức đó, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần phải cân nhắc và chuẩn bị thị trường xuất khẩu thật chu đáo mới có thể có cơ hội thắng lợi trong cạnh tranh quốc tế.
2. Về mặt chủ quan
Tuy mới được thành lập, nhưng Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam đã không ngừng vươn lên, khẳng định chỗ đứng của mình ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. Với một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, am hiểu thị trường đồng bộ và phối hợp chặt chẽ giữa khâu ở công đoạn từ giao dịch đàm phán với khách hàng đến ký kết các điều khoản trong hợp đồng, bảo đảm được chất lượng và tiến bộ giao hàng gắn với thời gian nhập khẩu nguyên phụ liệu. Tổng Công ty lại có ưu thế về nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, tiên tiến, qua đó tạo được thế ổn định trong kinh doanh. Tổng Công ty rất có uy tín, được Nhà nước và Bộ thương mại tin cậy nên Tổng Công ty luôn được ưu đãi trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc. Mặt khác, do Tổng Công ty được Bộ gia cho làm hàng trả nợ và ký kết được hợp đồng gia công nên kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc luôn ổn định và ở mức cao. Hiện nay, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là Tổng Công ty có giá trị xuất khẩu trong các Tổng Công ty trực thuộc Bộ công nghiệp (56%) và cũng là một trong những Tổng Công ty có xuất siêu lớn nhất của ngành công nghiệp.
Tổng Công ty cũng nhận biết thế mạnh của từng đơn vị trực thuộc, các phòng ban, phân công nhiệm vụ cụ thể, nguồn hàng may mặc chất lượng cao, đảm bảo hợp lý về sản lượng và giá cả. Với những đóng góp của ngành may trong thời gian qua đã chứng minh cho khả năng phát triển mạnh mẽ của ngành.
Đến nay, Tổng Công ty đã khẳng định được vị thế của mình bằng việc phát triển với tốc độ nhanh, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, tạo nguồn ngoại tệ cho đất nước, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế, nhanh chóng hội nhập vào quốc tế và khu vực, từng bước thiết lập nền công nghiệp chuyên ngành trên phạm vi toàn quốc. Những thành tựu đạt được đó góp phần không nhỏ vào công việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Tổng Công ty cũng còn có những hạn chế như:
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may với may trong việc khai thác năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn có tình trạng cạnh tranh nội bộ , thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng).
- Thị trường xuất khẩu còn dựa nhiều vào quato và hạn ngạch Nhà nước, sức cạnh tranh hàng may mặc còn yếu nên thị trường nội địa không đủ sức cạnh tranh với hàng nhập ngoại, hàng của các Công ty 100% vốn nước ngoài.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, còn nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ, một số đơn vị chưa mạnh dạn đầu tư. Việc quản lý sản xuất, quản lý thiết bị. Quản lý lldj, vệ sinh môi trường...còn nhiều việc phải củng cố lại. Chưa có sự liên kết giữa các đơn vị thuộc Tổng Công ty với các ngành khác, với địa phương dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm trong nước sản xuất ra đảm bảo chất lượng nhưng vẫn còn nhập, quá trình cổ phần hoá triển khai còn chậm chưa đạt được tiến độ như mong muốn...
Nhìn lại những năm qua, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện vô cùng khó khăn do ảnh hưởng còn thiên tai, hạn hán, bão lụt...đặc biệt gần đây do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam vẫn đảm bảo được nhịp độ tăng trưởng khá, ổn định sản xuất, không ngừng đầu tư phát triển...tuy vậy vẫn còn tồn tại một số hạn chế không thể tránh khỏi nhưng đay cũng là một thành tựu đáng ghi nhận của toàn Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
Chương III
Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam trong thời gian tới.
I. Triển vọng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty trong thời gian tới.
1. Mục tiêu và định hướng phát triển của Tổng Công ty:
1.1. Một số quan điểm cơ bản phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam.
a/ Công nghiệp Dệt-May phải được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta những năm tiếp theo:
Trong bốn năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đều tăng và đã vươn tới đứng thứ hai (sau dầu khí) trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ vào khoảng 10% trong giai đoạn 1999-2003 và trên 10% giai đoạn 2003-2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so với nhiều ngành công nghiệp khác. Như vậy, trong những năm tiếp theo cảu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành dệt may phải được ưu tiên phát triển.
b/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm.
Công nghiệp hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn vinh của một quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế cảu một sản phẩm. Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế thông qua việc tăng cường năng lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiến tiến và công nghệ cao.
Từ nhận thức đó, công nghiệp Dệt-May phảu được ưu tiên phát triển theo hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm.
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước nhu cầu hàng tiêu dùng sẽ tăng lên nhưng không đơn giản tăng về số lượng các mặt hàng cao cấp cũng tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu hập tăng lên, tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm tương đối, còn tỷ lệ tiêu dùng cho các như cầu khác cũng sẽ tăng lên trong đó có nhu cầu về may mặc. Như vậy, cũng với việc tăng dan số và tăng thu nhập, trong những năm tới thị trường trong nước sẽ là tiền đề phát triển cho công nghiệp sản xuất tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May nói riêng.
Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp nhạn thành công có sự dịch chuyển kinh tế từ các nước phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ xâm nhập vào các thị trường quốc tế mới, ngành Dệt-May càng cần phải được trang bị lại theo hướng hiện đại. Có như vậy mới có thể đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao, càng đa dạng của thị trường trong và ngoài nước
Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi bức xúc ngành phải có kế hoạch hiện đại hoá từng bước, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp thu công nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu.
c/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu với thay thế nhập khẩu.
Hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là kinh nghiệm cuả nhiều nước công nghiệp mới (NICs) và ở nước ta cũng đã được xác nhận. Đó là một chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới ngày nay. Chúng ta phải tận dụng các lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên để đẩy mạnh nhịp độ phát triển của các ngành và sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, xem đây là mục tiêu hàng đầu. Xuất khẩu càng nhiều, kinh tế phát triển càng nhanh, có hiệu quả và bền vững, đồng thời càng có thêm khả năng thay thế hiệu quả, không mâu thuẫn với hướng về xuất khẩu.
Ngành Dệt-May Việt Nam là một trong những ngành có khả năng làm đuợc điều đó. Thực tế những năm qua cho thấy, chiến lược hướng về xuất khẩu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không ngừng tăng lên. Nhờ nguồn ngoại tệ thu được, ngành có điều kiện phát triển tái đầu tư để hiện đại hoá, đẩy mạnh sản xuất.
Song song với xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với số dân đông và sức mua ngày càng lớn là đối tượng rất quan trọng mà công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May nói riêng phải đáp ứng cho được các nhu cầu cơ bản, từ những sản phẩm dệt may bình thường, phù hợp với đa số người dân lao động đến các sản phẩm cao cấp hơn phục vụ những nhóm người có thu nhập cao. Để làm được điều này, vấn đề quyết định là phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế giới, trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu qủa.
Trước mắt cần có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, những người làm công tác nghiên cứu, lựa chọn ra những mặt hàng thích hợp đang được nhập khẩu nhiều mà năng lực sản xuất và trình độ kỹ thuật, công nghệ của các doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng. Sau đó, các doanh nghiệp trong nước phối hợp với nhau tập trung vào sản xuất các mặt hàng này.
Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu ở giá cả. Mặc dù chất lượng có kém hơn song do thắng áp đảo về giá nên họ chiếm lĩnh được thị trường rộng lớn ở khu vực nông thôn.
Đó là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất bằng nhiều cách để tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh được.
d/ Phát triển công nghiệp Dệt-May phải gắn liền với sự phát triển của ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta.
Trong chiến lược phát triển kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TM073.doc