Tài liệu Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái của phụ nữ nông thôn: 108 Xã hội học số 1 (85), 2004
Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái
của phụ nữ nông thôn
Joyce Halliday & Jo Little 1
Nhập đề
Những tài liệu bàn về trách nhiệm chăm sóc trẻ em của phụ nữ nông thôn có
xu h−ớng tập trung vào một trong hai nhóm sau. Nhóm thứ nhất là công trình
nghiên cứu liên quan đến sự sẵn có và việc sử dụng các thiết bị chăm sóc trẻ em của
phụ nữ nông thôn (Halliday 1997; Stone 1990). Công trình này chủ yếu mang tính
thực nghiệm, nó đặt vấn đề chăm sóc trẻ em trong cuộc tranh luận về “dịch vụ nông
thôn” nhằm nhận diện tình trạng thiếu và yếu trong việc tiếp cận và cung cấp các
dịch vụ chăm sóc. Công trình đã cung cấp những dữ liệu rất quan trọng về mặt bằng
dịch vụ chăm sóc trẻ em ở nông thôn, nh−ng nó cũng không nằm ngoài những phân
tích về cung cấp dịch vụ theo nhu cầu nhằm cố gắng lý giải những vấn đề trong chăm
sóc con cái của phụ nữ nông thôn.
Nhóm thứ hai tập trung vào bản chất vai trò của phụ nữ trong gia đình và sự
kiến tạo theo nghĩ...
9 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái của phụ nữ nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
108 Xã hội học số 1 (85), 2004
Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái
của phụ nữ nông thôn
Joyce Halliday & Jo Little 1
Nhập đề
Những tài liệu bàn về trách nhiệm chăm sóc trẻ em của phụ nữ nông thôn có
xu h−ớng tập trung vào một trong hai nhóm sau. Nhóm thứ nhất là công trình
nghiên cứu liên quan đến sự sẵn có và việc sử dụng các thiết bị chăm sóc trẻ em của
phụ nữ nông thôn (Halliday 1997; Stone 1990). Công trình này chủ yếu mang tính
thực nghiệm, nó đặt vấn đề chăm sóc trẻ em trong cuộc tranh luận về “dịch vụ nông
thôn” nhằm nhận diện tình trạng thiếu và yếu trong việc tiếp cận và cung cấp các
dịch vụ chăm sóc. Công trình đã cung cấp những dữ liệu rất quan trọng về mặt bằng
dịch vụ chăm sóc trẻ em ở nông thôn, nh−ng nó cũng không nằm ngoài những phân
tích về cung cấp dịch vụ theo nhu cầu nhằm cố gắng lý giải những vấn đề trong chăm
sóc con cái của phụ nữ nông thôn.
Nhóm thứ hai tập trung vào bản chất vai trò của phụ nữ trong gia đình và sự
kiến tạo theo nghĩa văn hóa những đặc tr−ng của phụ nữ nông thôn (Agg và Phillips
1997; Hughes 1997; Little và Austin 1996). Công trình nghiên cứu đó đã xem xét
quan niệm về vị trí trung tâm của ng−ời phụ nữ trong gia đình nông thôn, nhận định
rằng vai trò chăm sóc con cái của ng−ời phụ nữ và các quan hệ giới bao quanh nó
đ−ợc củng cố thêm bởi những khía cạnh cấu trúc nông thôn và khung cảnh làng quê.
Việc làm mẹ đ−ợc xem là một phần quan trọng (nếu không muốn nói là phần quan
trọng duy nhất) của ng−ời phụ nữ ở các vùng nông thôn, và ng−ời phụ nữ nào không
đáp ứng đ−ợc những gì mà ng−ời ta chờ đợi ở một ng−ời mẹ (dù do lựa chọn hay do
tình thế) thì th−ờng bị gạt ra khỏi khuôn mẫu chung của văn hóa nông thôn. Xã hội
nông thôn nhấn mạnh một hệ những quyền −u tiên rất rõ ràng, trong đó vai trò nuôi
dạy con cái của ng−ời phụ nữ đ−ợc cho là phải chiếm vị trí hàng đầu, và th−ờng bỏ
qua những vai trò khác, nhất là khi con cái còn nhỏ.
Bài viết này dựa trên một nghiên cứu thử tiến hành ở vùng nông thôn Devon
về việc cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc trẻ em. Phần đầu của bài viết phác
1 Joyce Halliday: Khoa Chính sách xã hội và Công tác xã hội, Đại học Plymouth, Anh.
Jo Little: Khoa Địa lý, Đại học Exeter, Anh.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Joyce Halliday & Jo Little 109
thảo những kết quả chủ yếu của cuộc nghiên cứu này. Kết quả đ−ợc trình bày d−ới
ba phần chính; thứ nhất, các cấp độ cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc trẻ em
chính thức; thứ hai, các mạng l−ới chăm sóc phi chính thức và mối quan hệ giữa
chăm sóc chính thức và phi chính thức; và thứ ba là sự quản lý hay sắp xếp việc
chăm sóc con cái của phụ nữ nông thôn. Tiếp đó, bài viết này xem xét những kết quả
nghiên cứu d−ới góc độ vai trò giới, quan hệ giới và ý thức hệ nông thôn. Phần này sẽ
đặt những kết quả nghiên cứu trong một thảo luận rộng hơn về những áp lực xã hội
và văn hóa đối với phụ nữ và gia đình nông thôn trong việc chăm sóc trẻ em, và cho
thấy những áp lực đó che mờ và gia cố cho những căng thẳng thực tế nh− thế nào.
Cứ liệu thực nghiệm của bài viết này đ−ợc rút ra từ cuộc khảo sát vào giữa những
năm 1990 thuộc dự án do Hội đồng Hạt Devon đặt hàng. Hội đồng muốn xem xét những
dịch vụ dành cho trẻ em trong Hạt. Mục tiêu cơ bản của nghiên cứu này là nhằm tìm
hiểu xem các gia đình nông thôn tìm cách cân đối những đòi hỏi của thời kỳ mới với việc
chăm sóc, xã hội hóa và giáo dục con cái nh− thế nào. Do đó cần tìm hiểu cả những gia
đình không sử dụng các dịch vụ chăm sóc trẻ em chính thức cũng nh− những gia đình sử
dụng nhiều loại hình dịch vụ khác nhau. Thay vì xây dựng cuộc điều tra bằng cách tiến
hành khảo sát thực địa một loạt các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa ph−ơng nh− lớp mẫu
giáo, nhà trẻ, cuộc nghiên cứu này dựa trên một mẫu ngẫu nhiên gồm những gia đình có
con d−ới 8 tuổi có đăng ký với y tế địa ph−ơng. Do đó nhóm mục tiêu là các bậc cha mẹ
hoặc ng−ời đại diện cho cha mẹ chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc trẻ em (trên
thực tế 95% những ng−ời đ−ợc phỏng vấn là ng−ời mẹ).
Thông tin thu đ−ợc thông qua các cuộc phỏng vấn có cấu trúc (với hơn 100 gia
đình) tại 3 vùng nông thôn khác nhau thuộc Devon: vùng xa Witheridge/Morchard
Bishop thuộc biên giới Bắc/Trung Devon, vùng Silverton/Thorverton đến sát phía
Bắc thành phố Exeter và khu vực ngoại vi thị trấn Okehampton phía Tây Devon.
Mỗi cuộc phỏng vấn trung bình khoảng 45 phút với nội dung xoay quanh trách
nhiệm chăm sóc trẻ em, đặc tr−ng gia đình và những hoàn cảnh cá nhân.
Thực tế tiếp cận các cơ sở chăm sóc chính thức của hộ gia đình nông thôn
Thuật ngữ “chăm sóc” trẻ em trong bài viết này đ−ợc dùng nh− là một từ viết
gọn để chỉ tất cả những yếu tố mà cha mẹ sử dụng để hỗ trợ chính mình và con cái.
Trong bối cảnh nông thôn, những yếu tố này th−ờng xoay quanh lớp mẫu giáo (chủ
yếu do những ng−ời tình nguyện đảm nhận và cung cấp một kỳ học nhập môn giáo
dục ban đầu thông qua môi tr−ờng vui chơi), lớp trông trẻ ban ngày (chủ yếu là của
t− nhân, chăm sóc trẻ cả ngày và cho trẻ làm quen với lao động), giáo dục mầm non
(vừa công vừa t−, th−ờng đ−ợc tổ chức theo kỳ học) và ng−ời giữ trẻ.
Gần đây trên toàn n−ớc Anh ng−ời ta đều đặt ra nhu cầu phát triển các dịch vụ
chăm sóc trẻ em, chủ yếu là nhằm khuyến khích phụ nữ (nhất là những ng−ời mẹ
đơn thân) tham gia vào thị tr−ờng lao động và tăng c−ờng tiếp cận giáo dục ban đầu
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái của phụ nữ nông thôn 110
cho trẻ. Hạt Devon nằm trong số 10 địa ph−ơng có các cơ sở giáo dục mầm non cho
trẻ d−ới 5 tuổi yếu nhất. Tại thời điểm khảo sát, chỉ có 27% trẻ em trong độ tuổi 3-4
tuổi học trong các lớp mẫu giáo, mầm non (16% cả ngày và 11% nửa ngày) và không
có nhà trẻ địa ph−ơng.
Việc nhận diện các dịch vụ chăm sóc trẻ em cũng cho thấy những dịch vụ nào còn
thiếu. Chẳng hạn có thể thấy, tại địa bàn khảo sát không hề có cơ sở chăm sóc cả ngày
và chăm sóc sau giờ học. Không có tr−ờng hay lớp mẫu giáo và không có những trung
tâm đáp ứng nhu cầu chăm sóc đặc biệt. Ng−ời ta không có nhiều lựa chọn ở đây. Chỉ có
13 trên tổng số 22 xã khảo sát có các nhóm hoặc cơ sở chăm sóc trẻ em chính thức.
Đ−ơng nhiên là cũng có những gia đình có thể sang các xã lân cận để tìm kiếm những
dịch vụ nhất định. Đa số (70%) những ng−ời chăm sóc thuộc mẫu nghiên cứu đang hoặc
đã từng sang những địa ph−ơng nằm ngoài mẫu khảo sát để tìm kiếm một cơ sở chăm
sóc nào đó cho con cái họ. Nhìn chung, việc phải tìm kiếm những cơ sở nằm ngoài địa
bàn khảo sát này cho thấy ng−ời ta cần những dịch vụ đặc thù hơn, th−ờng chỉ có ở các
trung tâm lớn, nh− nhà giữ trẻ ban ngày, tr−ờng mầm non, nhà trẻ của xí nghiệp.
Bảng: Việc sử dụng các dịch vụ theo đặc tr−ng của ng−ời đ−ợc hỏi
Sử dụng dịch vụ Nhà trẻ/ng−ời giữ trẻ (%) Nhóm mẫu giáo/nhóm mầm non (%)
Tổng cộng 28 47
Có con từ 3 đến 4 tuổi 86
Làm việc cả ngày 50
Làm việc nửa ngày > 15 giờ 37 30
Làm việc ≤ 15 giờ 20 50
Không làm việc 15
Tiếp tục học sau 18 tuổi 44
Nghỉ học khi 16 tuổi 23
Ng−ời nhập c− 34
Ng−ời bản xứ 8
Một hệ quả của việc cung cấp dịch vụ yếu kém này, ngay cả khi đã đ−ợc bổ trợ
bằng những nguồn lực bên ngoài, là trẻ em ít có kinh nghiệm về thời kỳ tiền-học đ−ờng.
Các gia đình trong mẫu nghiên cứu thể hiện mức độ tham gia khá cao vào những cơ sở
sẵn có. Sự tham gia đó bị quy định bởi độ tuổi của trẻ; mức độ tham gia cao nhất rơi vào
những gia đình có con trong độ tuổi tiền-học đ−ờng. Bảng d−ới đây cho thấy hầu nh− tất
cả những gia đình có một con trong độ tuổi từ 3 đến 4 đều tham gia vào những dịch vụ
nh− nhóm mầm non hoặc nhóm mẫu giáo. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy một sự phân cấp
rất rõ ràng trong việc sử dụng dịch vụ. Trong khi dịch vụ cho nhóm mầm non và nhóm
mẫu giáo đ−ợc tất cả các gia đình2 sử dụng, còn những dịch vụ nh− nhà trẻ, cô giáo giữ
2 Sự biến thiên duy nhất có ý nghĩa thống kê giữa những ng−ời trả lời cho thấy những ng−ời làm việc hơn 15
giờ/tuần ít sử dụng những dịch vụ này hơn những ng−ời làm việc ít hơn hoặc không làm việc.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Joyce Halliday & Jo Little 111
trẻ và các nhóm vui chơi không chỉ ít đ−ợc sử dụng hơn mà còn chỉ do những nhóm nhất
định đăng ký; đáng chú ý là nhóm đó hầu hết là những ng−ời nhập c−, có trình độ học
vấn cao và làm việc cả ngày. Chẳng hạn, có thể thấy những ng−ời nhập c−3 sử dụng
những dịch vụ này nhiều gấp bốn lần so với ng−ời dân bản xứ.
Có thể thấy việc gia đình tìm kiếm những dịch vụ chăm sóc trẻ em bên ngoài
môi tr−ờng sống của mình ở mỗi loại hình gia đình đều rất khác nhau. Những gia
đình chỉ dựa vào các dịch vụ do địa ph−ơng cung cấp th−ờng là ng−ời bản xứ, ng−ời
chăm sóc thôi học ở tuổi 16 và khó tiếp cận các ph−ơng tiện giao thông. Sự phụ thuộc
vào những dịch vụ chăm sóc tại địa ph−ơng cũng rất khác nhau ở mỗi vùng. Nh− ở
Witheridge là vùng biệt lập nhất trong 3 điểm nghiên cứu, 2/5 số gia đình đ−ợc hỏi
chỉ sử dụng các dịch vụ chăm sóc tại địa ph−ơng. Khoảng cách đến các dịch vụ quy
định sự khác nhau trong tiếp cận dịch vụ, giảm cơ hội tham gia của một bộ phận dân
c− vào nhiều hoạt động chăm sóc trẻ em.
Mạng l−ới chăm sóc phi chính thức: mối quan hệ giữa chăm sóc chính
thức và phi chính thức
Do các cơ sở chăm sóc trẻ em chính thức khá nghèo nàn nh− đã nêu trên, không
có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều bậc cha mẹ ghi nhận rằng họ đã nhận đ−ợc sự hỗ trợ
rất lớn từ phía họ hàng và bè bạn. 3/4 số ng−ời đ−ợc hỏi nhờ họ hàng chăm sóc con
cái, và 1/2 phải nhờ cậy bạn bè. Họ hàng th−ờng giúp những việc liên quan đến lao
động, trông trẻ và mua sắm; còn bạn bè th−ờng đ−ợc nhờ đến trong những tr−ờng
hợp bất th−ờng hoặc khẩn cấp. Những lý do giải thích cho việc nhờ cậy họ hàng và
bạn bè chăm sóc con cái cho thấy hai nhóm này đ−ợc xem là những nhóm chăm sóc
riêng biệt so với những cơ sở chăm sóc trẻ em chính thức hay những dịch vụ phải trả
công nh− đã nói ở trên. Thực ra ng−ời trả lời th−ờng khó phân biệt xem tại sao họ lại
thích nhờ họ hàng chăm sóc con cái hơn là những cơ sở chăm sóc chính thức khác, họ
cho rằng đó là điều quá hiển nhiên và dễ chấp nhận đến nỗi ng−ời ta chẳng cần phải
đặt thành vấn đề.
Những lý do phổ biến nhất giải thích cho việc nhờ cậy các thành viên trong gia
đình là vì giữa họ có quan hệ họ hàng, bởi vì họ đ−ợc tin cậy để làm điều đó và bởi vì
gia đình muốn thực hiện vai trò đó. T−ơng tự nh− vậy với nhóm bạn bè, sự tin cậy và
việc họ không phải là một cơ sở chăm sóc chính thức là những lý do giải thích cho
việc nhờ cậy bạn bè chăm sóc con trẻ. Tuy nhiên, một điều cũng rất hiển nhiên khi
ng−ời ta phải viện đến sự giúp đỡ của họ hàng và bè bạn là vì thiếu những dịch vụ
đặc thù và cũng bởi họ phải trả tiền khi gửi con đến các nhóm hoặc thiết chế khác.
Sự phức tạp của những sắp xếp chăm sóc con cái trong gia đình cho thấy một
sự thỏa hiệp nhất định trong hộ gia đình. Hầu hết (91%) hộ gia đình thuộc mẫu điều
3 Đ−ợc xác định bởi thời gian c− trú, những nơi ở tr−ớc đây, có đi học ở tr−ờng học của địa ph−ơng không
và có họ hàng sống gần đó không.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái của phụ nữ nông thôn 112
tra đều có cả hai ng−ời lớn (bố và mẹ). Nh−ng, nh− đã l−u ý ở phần tr−ớc, việc chăm
sóc con nhỏ trong gia đình vẫn chủ yếu do ng−ời phụ nữ đảm nhận. Phần lớn (95%)
số ng−ời chăm sóc chủ yếu đ−ợc hỏi đều là ng−ời mẹ, mặc dù đây không phải là trách
nhiệm của riêng họ. Phần đông những ng−ời trả lời (68%) đều có một công việc đ−ợc
trả l−ơng mà 1/5 trong số họ không tham gia làm việc h−ởng l−ơng bởi vì họ có gia
đình, và 2/5 trong số họ phải dành thời gian cho những công việc khác.
Mặc dù mặt bằng chung của hoạt động làm kinh tế đáng chú ý nh− vậy, nh−ng
chỉ có 1/5 phụ nữ làm việc cả ngày. Cũng cần l−u ý rằng gần một nửa (45%) phụ nữ
chỉ làm việc vào ban ngày và một tỷ lệ t−ơng tự làm việc theo yêu cầu công việc, làm
tối, làm đêm hay làm bất cứ khi nào có việc. Thời gian làm việc kết hợp với chăm sóc
con cái th−ờng là rất dài, ng−ời phụ nữ phải làm trăm thứ việc không tên; và đi làm
trong trạng thái mất ngủ hoặc không có thời gian rảnh rỗi là cách sắp xếp công việc
duy nhất của họ.
Không thể xem những ng−ời phụ nữ tích cực tham gia vào thị tr−ờng lao động
là những ng−ời thách thức hay chối bỏ vai trò cơ bản của mình là chăm sóc con cái.
Khuôn mẫu làm việc của họ khác hẳn với nam giới, đa số nam giới không chỉ làm
việc toàn thời gian (91%) mà thời gian làm việc của họ cũng dài hơn. Đó là còn ch−a
kể một tỷ lệ khá lớn nam giới làm việc vào cuối tuần. Đối với phần đông các gia đình
có con nhỏ, ng−ời bố th−ờng không có mặt ở nhà vào các bữa ăn sáng, ăn tối hay giờ
đi ngủ. Nh− vậy, chăm sóc con cái không chỉ là địa hạt chủ yếu của phụ nữ mà còn là
một trách nhiệm mà họ phải đảm đ−ơng một mình.
Nhiều ng−ời phụ nữ cũng ủng hộ giả định cho rằng công việc chỉ chiếm vị trí thứ
yếu so với vai trò chăm sóc con cái. Hơn một nửa những ng−ời làm công ăn l−ơng
không muốn chuyển nghề, mà nguyên do là vì sự yên ấm của con cái và vì vai trò làm
mẹ của họ. 16% những ng−ời phụ nữ khác nhấn mạnh rằng dù cho họ không hài lòng
lắm với công việc hiện tại thì họ cũng không muốn chuyển nghề khi con cái còn nhỏ.
Một trong những ví dụ đáng chú ý nhất về sự lựa chọn giữa chăm sóc con cái và
công việc: nhiều phụ nữ đi làm đêm để có thể chăm con vào ban ngày. Đây là một
cách thức mà họ th−ờng làm, đổi lại, họ không có thời gian rảnh rỗi hay thời gian
ngủ, nh−ng họ vẫn coi đó là điều hết sức bình th−ờng.
Thảo luận: Làm mẹ, kiến tạo nông thôn và cơ sở chăm sóc
ở trên chúng tôi đã nói về những kết quả nghiên cứu thực địa, trong phần này
chúng tôi sẽ cố gắng đặt những kết quả nghiên cứu đó trong một bối cảnh rộng hơn,
đó là những giải thích về đời sống phụ nữ nông thôn- nhất là những đặc tr−ng làm
mẹ của phụ nữ nông thôn.
Làm mẹ ở nông thôn
Chăm sóc con cái là vai trò cơ bản của phụ nữ nông thôn, điều này đã đ−ợc
chứng minh khá rõ. Ng−ời phụ nữ chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc lựa chọn cơ sở
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Joyce Halliday & Jo Little 113
chăm sóc con cái và họ phải ứng phó với bất cứ vấn đề gì có thể xảy ra cho con cái do
chúng không đ−ợc chăm sóc đầy đủ. Nh−ng điều đáng ngạc nhiên là vai trò chăm sóc
con cái lại là của riêng các bà mẹ. Các cuộc phỏng vấn đã cho thấy những phức tạp
trong sắp xếp công việc và trách nhiệm gia đình, và nó còn cho thấy tình trạng vắng
mặt th−ờng xuyên của ng−ời bố trong chăm sóc con cái hàng ngày. Chúng ta hầu
nh− không biết gì về những thỏa thuận công việc (mà chẳng biết có những thỏa
thuận đó hay không) trong gia đình, nh−ng rõ ràng là cuộc nghiên cứu cho thấy sự
thiếu vắng ng−ời đàn ông trong gia đình nh− là một điều mà ng−ời phụ nữ “đã quen
rồi” và rằng chăm sóc con cái trong những hoàn cảnh nh− thế là chuyện th−ờng nhật
và không có gì phải bàn cãi.
Những cứ liệu tr−ớc đây có xu h−ớng nhấn mạnh sự phân chia vai trò giới
truyền thống này trong việc chăm sóc con cái, xem đó là trọng tâm để thiết lập các
quan hệ xã hội nông thôn. Ng−ời ta th−ờng không phản đối những quan điểm bảo
thủ về vai trò của phụ nữ và cho rằng việc chăm sóc con cái chủ yếu (hoặc thậm chí
hoàn toàn) là việc của phụ nữ. Sự thừa nhận này không hẳn là dành riêng cho “nông
thôn” mà có lẽ nó tồn tại ở những môi tr−ờng mà ở đó biến đổi xã hội diễn ra chậm
chạp và có tính tuân thủ cao.
Có lẽ khó có thể chứng minh một khía cạnh thuần tuý “nông thôn” trong khuôn
mẫu về trách nhiệm chăm sóc con cái của phụ nữ (và nam giới), nh−ng chúng ta cũng
không thể bỏ qua việc mọi phụ nữ (bất kể giai cấp, thâm niên sống, v.v.) cho rằng vai
trò của họ chịu ảnh h−ởng bởi những đặc tr−ng tự nhiên và xã hội của vùng nông
thôn. Điều này có vẻ hợp với những kết quả nghiên cứu tr−ớc đó (xem Little 2001)
cho thấy phụ nữ ở cả nông thôn và đô thị đều ghi nhận tính chất bảo thủ và truyền
thống hơn trong quan niệm về giá trị gia đình và vai trò giới ở nông thôn.
Họ hàng ở nông thôn với việc chăm sóc trẻ em
Việc nhờ cậy các thành viên gia đình nh− là những ng−ời chăm sóc th−ờng
xuyên hoặc đột xuất cho thấy nhiều ý nghĩa không chỉ liên quan đến tính thiết thực
của việc chăm sóc trẻ em ở nông thôn (nh− đã minh họa ở trên) mà còn liên quan đến
những kỳ vọng và giả định về quan hệ giới và đặc tr−ng phụ nữ. Hơn nữa, có thể cho
là trong quan hệ giữa họ hàng và chăm sóc trẻ em thì tính nông thôn giả định là có
ảnh h−ởng rất rõ.
Trách nhiệm của các thành viên gia đình trong việc chăm sóc trẻ em cũng thể
hiện tính chất giới rõ rệt. Khi cho rằng “gia đình” cần có vai trò chăm sóc con cái thì
ng−ời trả lời chủ yếu ám chỉ ng−ời phụ nữ; trong số những ng−ời họ hàng giúp chăm
trẻ thì 40% là mẹ đẻ hoặc mẹ chồng/vợ, 27% là bố mẹ đẻ và bố mẹ chồng/vợ, 18% là
chị em gái và chỉ có 1% là bố đẻ hoặc bố chồng/vợ. Đặc tr−ng làm mẹ của phụ nữ ở
đây vẫn đ−ợc duy trì d−ới hình thức của những ng−ời bà, ng−ời cô, ng−ời dì; nó hàm
ý rằng phụ nữ là một lựa chọn tất yếu và “tự nhiên” cho việc chăm sóc con cái; và khi
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái của phụ nữ nông thôn 114
thiếu mẹ thì một ng−ời họ hàng nữ sẽ là sự lựa chọn tiếp theo tốt nhất. Còn có một
giả định khác cho rằng việc chăm sóc cháu trao cho ng−ời bà một vai trò chính thống
trong gia đình cũng nh− ngoài cộng đồng, bởi nó tái lập đặc tính làm mẹ của họ.
Một số ng−ời đ−ợc hỏi cho rằng việc họ hàng giúp chăm sóc con trẻ gắn với sự
cấu thành xã hội của cộng đồng nông thôn. Nông thôn đ−ợc xem là nơi mà những liên
hệ gia đình bền chặt vẫn còn tồn tại nh− là một phần của các mối quan hệ xã hội
hàng ngày. Việc có ng−ời bà con ở gần để trông cậy đ−ợc coi là một đặc tr−ng rất
riêng của nông thôn (điều này không dễ gì có đ−ợc ở các vùng đô thị). Do đó sự gần
gũi về địa lý của họ hàng ở nông thôn đ−ợc củng cố thêm bởi một mong đợi về sự trợ
giúp vốn gắn chặt với những cấu trúc của cộng đồng nông thôn. Mối liên hệ giữa tính
nông thôn và trợ giúp gia đình còn đ−ợc khẳng định bởi những ng−ời (th−ờng là
những ng−ời mới nhập c−) không có bà con thân thích trong làng; đối với họ, khi
thiếu các quan hệ họ hàng thì một cái làng không thể là một “cái làng thực sự” đ−ợc.
Có một sự khác biệt rất rõ trong các hình thức chăm sóc phi chính thức giữa
việc nhờ họ hàng và nhờ bạn bè. Những ng−ời nhập c− th−ờng là những ng−ời nhờ
cậy đến bạn bè nhiều hơn. Đó không chỉ là do thiếu các dịch vụ chăm sóc chính thức
mà còn vì họ không có các liên hệ họ hàng trong làng. Việc nhờ cậy bạn bè chăm sóc
con cái cũng phụ thuộc vào khả năng tiếp cận các mạng l−ới trong làng- một đặc
tr−ng lại một lần nữa thể hiện đặc tr−ng giới. Phụ nữ có vẻ dễ dàng tiếp cận các
mạng l−ới xã hội trong làng hơn nam giới và những hình thức chăm sóc trẻ em phi
chính thức giữa bạn bè cũng th−ờng đ−ợc dàn xếp trong những mạng l−ới này trên cơ
sở phi thể thức. Điều này càng củng cố trách nhiệm của ng−ời mẹ trong việc chăm
sóc con cái và góp phần loại nam giới ra khỏi những sắp xếp phi chính thức này.
Chăm sóc con cái và việc làm
Nghiên cứu tr−ờng hợp cung cấp bằng chứng cho thấy những lựa chọn việc làm
của phụ nữ th−ờng bị đóng khung trong những dàn xếp để chăm sóc con cái. Chăm
con và những trách nhiệm gia đình khác giả định tr−ớc vai trò hàng đầu của phụ nữ
là ng−ời chăm sóc chủ yếu. Những ng−ời đ−ợc hỏi đều có chung một niềm tin rằng
công việc tr−ớc tiên phải phù hợp với những sắp xếp dành cho chăm sóc con cái. Điều
này càng đặc biệt đúng khi ng−ời phụ nữ đứng tr−ớc những cơ hội làm việc lâu dài,
mà họ phải tạm hoãn hoặc từ chối để dành thời gian chăm con.
Một điều thú vị là không hề có sự bàn cãi nào xung quanh cái “quyền −u tiên”
chăm sóc con cái và xung quanh việc ng−ời phụ nữ phải đảm đ−ơng trách nhiệm này.
Nhìn chung ng−ời phụ nữ vẫn có quan niệm hết sức truyền thống về quan hệ giữa
công ăn việc làm và chăm sóc con cái, và công việc chỉ đ−ợc tính đến sau khi con cái
họ đủ lớn. Sự thống nhất này tìm thấy ở tất cả những ng−ời phụ nữ đ−ợc hỏi, không
phân biệt giai cấp, quy mô gia đình, v.v. Cá biệt có những tr−ờng hợp ng−ời mẹ tiếp
tục đi làm sau khi sinh con thì họ cũng luôn cảm thấy có lỗi vì đã để con ở nhà, và
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Joyce Halliday & Jo Little 115
còn thấy mình bị cô lập vì đã chọn việc làm chứ không ở nhà trông con.
Một vai trò của tính nông thôn nữa trong việc dàn xếp giữa việc làm và chăm
con liên quan đến trải nghiệm của đứa trẻ trong đời sống nông thôn. Nhiều ng−ời
đ−ợc hỏi gắn đặc tính chăm sóc con cái của ng−ời mẹ với những cơ hội mà đứa trẻ có
thể có do cộng đồng và môi tr−ờng nông thôn đem lại. Ng−ời mẹ cảm thấy khi họ tự
tay chăm sóc con cái, chúng sẽ đ−ợc h−ởng những lợi ích từ các mạng l−ới xã hội phi
chính thức trong làng, bởi vì cả mẹ và con đều có thể tham gia vào những sự kiện và
hoạt động xã hội của làng nhiều hơn so với những đứa trẻ phải đến nhà trẻ.
Kết luận
Trong bài viết này chúng tôi cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa một h−ớng tiếp
cận “dịch vụ” trong đó nhận diện những khuôn mẫu chăm sóc trẻ em ở nông thôn; và
một h−ớng tiếp cận “văn hóa” trong đó trực tiếp đặt vấn đề chăm sóc trẻ em trong
nhận thức về các quan hệ giới truyền thống gắn với tính nông thôn và giả định về vai
trò hàng đầu của ng−ời phụ nữ là làm mẹ.
Rõ ràng là đối với nhiều gia đình nông thôn, và nhất là đối với phụ nữ nông
thôn, việc chăm sóc con cái đòi hỏi họ phải điều chỉnh và dàn xếp liên tục. Sự điều
chỉnh đó phản ánh những giá trị và kỳ vọng của cộng đồng, gia đình và của cá nhân
gắn với quan hệ giới, nhu cầu của trẻ và nguyện vọng của những thành viên khác
trong gia đình. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng phụ nữ tiếp tục chịu gánh nặng của
những dàn xếp và điều chỉnh này, không chỉ trong bản thân việc chăm con mà còn
trong nguyện vọng cũng nh− lựa chọn của họ cho cuộc sống của chính mình. Do đó họ
phải luôn tự điều chỉnh công việc cũng nh− cơ hội giải trí của mình để thích ứng với
công việc và khả năng chăm sóc con hạn chế của chồng.
Đối với những gia đình phụ thuộc vào thu nhập từ công việc của ng−ời mẹ,
những lựa chọn xung quanh việc chăm con phải điều tiết không chỉ về chi phí cho
bản thân việc chăm sóc mà còn làm sao để ng−ời phụ nữ có thể tham gia vào thị
tr−ờng lao động. Và nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi phụ nữ tham gia vào thị tr−ờng
lao động, họ th−ờng phải sắp xếp những công việc hàng ngày vô cùng phức tạp (mà
th−ờng là kiệt sức). Tuy nhiên, để hiểu mối quan hệ phức tạp giữa việc cung cấp dịch
vụ chăm sóc trẻ em, quan hệ giới ở nông thôn và −u tiên trong vai trò làm mẹ của
ng−ời phụ nữ thì cần phải gắn nó với phân tích thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình.
Nh− vậy, nghiên cứu việc chăm sóc trẻ em cần gắn với những nghiên cứu hiện nay về
nghèo khổ và sự loại trừ trong nghiên cứu nông thôn.
Tài liệu tham khảo
1. Agg, J. and M. Phillips (1997) Neglected gender dimensions of rural restructuring. In P.
Boyle and K. Halfacree eds, Migration into ruralareas: theories and issues (Wiley: London)
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Tìm hiểu thực tế chăm sóc con cái của phụ nữ nông thôn 116
2. Devon County Council (1994) Submission to the Local Government Commission (Exeter:
Devon County Council)
3. Devon Early Years Development and Childcare Partnership (1999) Devon Early Years
Development and Childcare Plan 1999-2000 (Audit of Provision) (Devon Early Years
Development and Childcare Partnership)
4. Devon Early Years Development and Childcare Partnership (2001) Strategic and
Implementation Plan 2001/2004 (Devon Early Years Development and Childcare
Partnership)
5. Department of Health (1993) Children’s day care facilities at 31st March 1993, England
(London Government Statistical Service)
6. Dunn, J. et al. (1998) Developing indicators of rural disadvantage (London: Rural
Development Commission)
7. Gordon, D. and R. Forrest (1995) People and place 2: social and economic distributions in
England (Bristol: School for Advanced Urban Studies)
8. Halliday, J. (1997) Children’s services and care: a rural view. Geoforum 28, pp.103-119
9. Hansard (1995) Reported in Education, 19.1.96. pp.21-23
10. Hughes, A. (1997) Rurality and cultures of womanhood. In P. Cloke and J. Little eds,
Contested countryside cultures: otherness, marginalisation and rurality (London:
Routledge)
11. Jefferies, A. et al. (1992) A pilot inquiry into parent’s views of the needs of families with
children under five in Devon County (Plymouth: University of Plymouth)
12. Little, J. (2001) Gender and rural geography (London: Pearson)
13. Little, J. and K. Ross (1991) Women and employment in rural areas. Rural Development
(Salisbury: Commission, Research Report No. 10, RDC)
14. Little, J. and P, Austin (1996) Women and the rural idyll. Journal of Rural Studies 12, pp.
101-111
15. Little, J. (1997) Employment marginality and women’s self-identity. In P. Cloke and J.
Little eds, Contested countryside cultures: otherness, marginalisation and rurality
(London: Routledge)
16. Statham, J. and C. Cameron (1994) Young children in rural areas: implementing the
Children Act. Children and Society 8(1), 17-30
17. Stone, M. (1990) Rural childcare (Salisbury: Rural Development Commission, Research
Report No. 9, RDC)
Nguồn: Amongst Women: Exploring the Reality of Rural Childcare,
Sociologia Ruralis, Vol.41, No. 4, 10/2001, tr. 423-437.
L−ợc dịch: Đặng Thị Việt Ph−ơng
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so1_2004_joyce_3987.pdf