Tài liệu Tìm hiểu lớp từ ngữ biểu thị hoạt động tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Nam Bộ: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
42
TÌM HIỂU LỚP TỪ NGỮ BIỂU THỊ HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG
DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
Investigating the class of words expressing folk religion
activities in Southern Vietnam
TS. Trần Thị Phương Lý(1), SV. Phan Hoàng Tấn(2)
(1),(2) Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Tín ngưỡng là một hiện tượng tinh thần phản ánh những ước vọng thiêng liêng của con người trong
cuộc sống, có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển những phong tục, tập quán, lễ hội, giữ vị trí
quan trọng trong cấu thành bản sắc văn hoá dân tộc. Để biểu thị tín ngưỡng dân gian, người Việt đã
xem ngôn ngữ là công cụ để gọi tên, giao tiếp và phục vụ cho nhu cầu tâm linh của họ. Bài viết này
khảo sát, phân tích đặc điểm cấu tạo của các nhóm từ ngữ biểu thị hoạt động tín ngư...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu lớp từ ngữ biểu thị hoạt động tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
42
TÌM HIỂU LỚP TỪ NGỮ BIỂU THỊ HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG
DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
Investigating the class of words expressing folk religion
activities in Southern Vietnam
TS. Trần Thị Phương Lý(1), SV. Phan Hoàng Tấn(2)
(1),(2) Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Tín ngưỡng là một hiện tượng tinh thần phản ánh những ước vọng thiêng liêng của con người trong
cuộc sống, có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển những phong tục, tập quán, lễ hội, giữ vị trí
quan trọng trong cấu thành bản sắc văn hoá dân tộc. Để biểu thị tín ngưỡng dân gian, người Việt đã
xem ngôn ngữ là công cụ để gọi tên, giao tiếp và phục vụ cho nhu cầu tâm linh của họ. Bài viết này
khảo sát, phân tích đặc điểm cấu tạo của các nhóm từ ngữ biểu thị hoạt động tín ngưỡng dân gian của
người Việt ở Nam Bộ trong tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành Hoàng. Thông qua đó, chúng
tôi góp phần khám phá ý nghĩa, vai trò của nhóm từ biểu thị tín ngưỡng trong hệ thống từ vựng tiếng
Việt cũng như lí giải đặc trưng văn hoá dân tộc của con người nơi đây.
Từ khoá: người Việt ở Nam Bộ, tín ngưỡng dân gian, từ vựng – ngữ nghĩa
Abstract
Belief occupies an important position in creating the cultural identity of each nation. In fact, belief plays
a great role in formation and development of customs, manners and festivals. It is a spiritual and cultural
phenomenon that reflects the divine desires in the real life. In Vietnam, language has been considered as
a tool to name, communicate or reflect their cultural thinking with the aim of expressing folk religion. In
this article, we shall investigate and analyze the structure and semantic characteristics of group of words
referring to the folk religion activities of people in Southern Vietnam through the Mother Goddess
worship and the Tutelary God worship. Through this, we shall discover the meaning and role of the
group of words indicating beliefs in the lexical system of Vietnamese as well as addressing the ethnic
cultural features of Vietnamese people.
Keywords: people in Southern Vietnam, folk religion, lexico-semantics
1. Đặt vấn đề
Trong ngôn ngữ của mỗi dân tộc, các
từ ngữ không nằm riêng lẻ mà thường được
liên kết với nhau theo một ngữ nghĩa nhất
định. Bên cạnh giá trị của mỗi từ mang lại,
các nhóm từ còn tập hợp các nét nghĩa
chung để biểu hiện cho một hiện thực
khách quan rộng lớn. Điều này đã tạo nên ý
nghĩa rất quan trọng của từ ngữ. Nghiên
cứu từ ngữ theo trường nghĩa sẽ giúp phát
hiện ra các nhóm từ có những mối liên hệ
nhất định với nhau chặt chẽ như các bộ
phận trong một chỉnh thể. Trong tiếng Việt,
hệ thống từ ngữ có thể phân chia thành
Email: lytran7581@gmail.com
TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ - PHAN HOÀNG TẤN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
43
nhóm từ chỉ tư duy – nhận thức, nhóm từ
chỉ trạng thái – tình cảm, nhóm từ chỉ
không gian – thời gian.v.v. Mỗi nhóm từ sẽ
phản ánh mối liên hệ mật thiết về ngữ
nghĩa giữa các từ trong nhóm.
Với vai trò biểu thị nội dung ngữ nghĩa
riêng, các nhóm từ đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều công trình. Về nhóm
từ chỉ tâm lí, tình cảm, ta có thể kể đến các
công trình tiêu biểu như Đặc trưng ngữ
nghĩa- ngữ pháp của nhóm từ biểu thị tâm
lí tình cảm trong tiếng Việt của Nguyễn
Ngọc Trâm (1991), Những đơn vị từ vựng
biểu thị tâm lí, ý chí, tình cảm có yếu tố chỉ
bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt của
Vũ Đức Nghiệu (2007). Trong công trình
Những đơn vị từ vựng biểu thị tâm lí, ý chí,
tình cảm có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt, tác giả đã khảo sát
198 đơn vị từ vựng biểu thị các trạng thái
tâm lí, ý chí, tình cảm của con người, có
chứa từ chỉ bộ phận cơ thể. Ngoài ra, còn
có một số nghiên cứu của các tác giả khác
như Nguyễn Thị Thu Hà, Trịnh Minh Hải,
Giang Hải Yến, Nguyễn Thị Hạnh.v.v. Tuy
nhiên, hiện chúng ta chưa có công trình
nào nghiên cứu về lớp từ ngữ biểu thị hoạt
động tín ngưỡng một cách đầy đủ, dù đây
là lớp từ gần gũi trong đời sống hằng ngày
của con người.
Việc nghiên cứu đề tài Tìm hiểu lớp từ
ngữ biểu thị hoạt động tín ngưỡng dân
gian của người Việt ở Nam Bộ có ý nghĩa
thực tiễn và cần thiết. Từ những cơ sở ngữ
liệu thu thập được, chúng tôi khám phá
những sắc thái văn hóa người Nam Bộ
phản ánh qua từ ngữ chỉ tín ngưỡng để góp
một phần nhỏ vào nguồn tài liệu tham khảo
cho những ai muốn nghiên cứu về tín
ngưỡng dân gian Việt Nam, nghiên cứu về
tiếng Việt.
2. Khái lược về tín ngưỡng và phân
loại tín ngưỡng dân gian Việt Nam
2.1. Khái niệm về tín ngưỡng
Hiện nay, khái niệm tín ngưỡng được
hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Tuỳ vào
cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu, mỗi
người sẽ đưa ra một khái niệm riêng về tín
ngưỡng:
Bàn về tín ngưỡng, Trần Ngọc Thêm
đã xác định: “Đời sống mỗi cá nhân trong
cộng đồng tuân theo những phong tục lâu
đời và khi trình độ hiểu biết còn thấp, họ
tôn sùng những thần thánh do họ nghĩ ra”
(Trần Ngọc Thêm, 2000, tr.12). Trong Đại
cương về văn hoá Việt Nam, Phạm Thái
Việt đã viết “tín ngưỡng là từ dùng để chỉ
những hình thức sơ khai của tôn giáo, chỉ
những trạng thái tâm lí đặc biệt của con
người với các hoạt động mang sắc thái tâm
lí” (Phạm Thái Việt, 2004, tr. 53).
Trên đây là quan niệm về tín ngưỡng
của các nhà khoa học Việt Nam. Nhìn
chung, điểm gặp nhau giữa các ý kiến trên
đó là xem tín ngưỡng là một hiện tượng
lịch sử gắn liền với đời sống thường nhật
của con người. Như vậy, tín ngưỡng không
phải là sản phẩm của thần thánh hay đấng
siêu nhiên mà là sản phẩm của xã hội, của
con người. Tín ngưỡng là sản phẩm văn
hóa được hình thành trong mối quan hệ
giưuã con người với tự nhiên, xã hội và
chính bản thân. Tín ngưỡng mang tính lịch
sử thuộc đời sống xã hội, chịu sự quy định
của đời sống vật chất. Đó là niềm tin, thế
giới quan về đấng siêu nhiên theo nhận
thức của con người có ảnh hưởng đến đời
sống của họ.
2.2. Phân loại tín ngưỡng dân gian
Việt Nam
Tuỳ vào mục đích và cơ sở phân loại,
các nhà nghiên cứu phân loại tín ngưỡng
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
44
dân Việt Nam khác nhau. Ở đây, chúng tôi
chỉ giới thuyết hai tín ngưỡng liên quan
trực tiếp đến đề tài là tín ngưỡng thờ Mẫu
và tín ngưỡng thờ Thành Hoàng.
2.2.1. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Do chế độ mẫu hệ đã ảnh hưởng khá
đậm nét đối với văn hoá gốc nông nghiệp
nên người Việt Nam có truyền thống thờ
các Nữ thần. Truyền thống này kết hợp với
Đạo giáo được du nhập từ Trung Hoa vào
đã hình thành nên một tín ngưỡng mới. Tín
ngưỡng này đã dần phát triển thành một hệ
thống có lớp lang, được lưu hành phổ biến
trong đời sống nhân dân. Đó là tín ngưỡng
thờ Mẫu.
Là cái nôi của văn hoá truyền thống
Việt Nam, Bắc Bộ được xem là cái gốc của
tín ngưỡng thờ Mẫu nên tiêu biểu cho mô
hình khái quát được Ngô Đức Thịnh giới
thiệu trong cuốn Đạo Mẫu Việt Nam
(2009). Nghi lễ quan trọng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ chính là lên
đồng (còn gọi là hầu bóng hoặc hầu đồng).
Dạng thờ Mẫu thứ hai là vùng Trung Bộ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây phân thành hai
lớp chính. Đó là thờ Nữ thần mà tiêu biểu
là Tứ Vị Nương Nương, Bà Ngũ Hành
và lớp thờ Mẫu thần mà tiêu biểu là Thiên
Ya Na, Pô Inư Nưgar. Nghi thức thờ Mẫu
ở khu vực này đều không có hệ thống lên
đồng mà chỉ có dạng múa bóng kiểu người
Chăm. Dạng thức thờ Mẫu cuối cùng là
vùng Nam Bộ. Nếu ở Bắc Bộ hay Trung
Bộ, lớp thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự
phân biệt nhất định thì ở Nam Bộ, sự phân
biệt đó không rõ ràng. Khi di cư vào Nam
Bộ, lưu dân vừa mang theo các tín ngưỡng
cũ vừa tiếp nhận những ảnh hưởng tín
ngưỡng của cư dân sinh sống từ trước.
Nguyên nhân này đã tạo nên bản sắc riêng
cho tín ngưỡng thờ Mẫu mang dấu ấn của
nhiều lớp dân cư Khmer, Việt, Chăm, Hoa.
Về nghi lễ, những nơi có tục thờ Nữ thần,
Mẫu thần sẽ có diễn xướng hát bóng rỗi
còn những nơi thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ
sẽ có diễn xướng hầu đồng, hầu bóng.
2.2.2. Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng
Theo quan niệm “Đất có Thổ Công,
sông có Hà Bá”, người Việt còn thờ các vị
thần linh như Thổ Công, Hà Bá.v.v. Ngoài
ra, họ còn thờ thần linh chung cho cả làng,
cả thôn xã. Kết hợp giữa tín ngưỡng thờ
Thần và tín ngưỡng thờ Thành Hoàng từ
phương Bắc, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng
làng của người Việt đã ra đời. Đó là những
vị thần của địa phương, sở tại chứ không
phải do nhà Vua đưa xuống áp đặt cho dân
làng thờ cúng. Đúng như tác giả Phan Kế
Bính đã nói: “Cảnh thổ nào có Thành
Hoàng ấy, vậy phải thờ phụng để thần ủng
hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc sự thần
một thịnh” (Phan Kế Bính, 2016, tr.62).
Thành Hoàng còn có tên gọi khác là
Bản cảnh Thành Hoàng hoặc Đương cảnh
Thành Hoàng, Bổn cảnh Thành Hoàng. Đó
là đại biểu tinh thần cho cả làng, là những
người có công dựng làng, khai phá đất đai
lập ấp, khai thông trí tuệ cho dân làng hoặc
truyền nghề cho cả làng hay có công dẹp
giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi cho đất
nước. Nơi thờ Thành Hoàng là đình làng –
nơi tụ họp đông đủ người dân trong làng.
Nghi lễ cúng Thành Hoàng quan trọng nhất
là Lễ Kỳ Yên và Lễ tế Thần. Tuỳ vào mỗi
nơi, mỗi làng mà Thành Hoàng được thờ
khác nhau nhưng tất cả đều là Nhân thần.
Ở đình làng Nam Bộ, bên cạnh thờ Thành
Hoàng, người dân còn dung hợp với tín
ngưỡng thờ Thần, tín ngưỡng thờ Mẫu và
cả Phật giáo. Vì thế, tín ngưỡng thờ Thành
Hoàng diễn ra trong đình rất phong phú, đa
dạng với các lễ nghi, lễ vật và các hoạt
TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ - PHAN HOÀNG TẤN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
45
động sinh hoạt sôi nổi.
3. Khảo sát các đặc điểm cấu tạo và
ngữ nghĩa của lớp từ ngữ biểu thị tín
ngưỡng của người Việt ở Nam Bộ
Để khảo sát đặc điểm của lớp từ ngữ
biểu thị hoạt động tín ngưỡng dân gian của
người Việt, chúng tôi đã tiến hành hoạt
động điền dã, quan sát thực tế và sưu tầm
những tài liệu có liên quan. Bằng thống kê,
phân tích, miêu tả, chúng tôi đã thu thập
được 572 từ ngữ thường được dùng trong
hai tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ là tín
ngưỡng thờ Thành Hoàng và tín ngưỡng
thờ Mẫu.
Để tiện cho việc phân tích, căn cứ vào
đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của số
lượng từ ngữ đã khảo sát, chúng tôi đã
phân loại các ngữ liệu thành 7 nhóm chính:
Nhóm 1: Những đơn vị từ ngữ chỉ hệ
thống thần linh gồm: Chúa Xứ Thánh Mẫu,
Linh Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Địa Mẫu,
Tứ Vị Sơn Thần, Ngũ Hành Nương Nương,
Thiên Hậu Thánh Mẫu.v.v.
Nhóm 2: Những đơn vị từ ngữ chỉ tên
các nghi thức, nghi lễ gồm: Lễ dựng nêu,
Lễ rước Thần, Lễ khai hạ, Lễ hạ điền, Lễ
thượng điền, Lễ tỉnh sanh, Lễ kỳ yên, Lễ
túc yết, Lễ đoàn cả, Nghi tuần hương, Nghi
củ soát lễ vật, Lễ xây chầu, Lễ đại bội.v.v.
Nhóm 3: Những đơn vị từ ngữ chỉ các
dụng cụ, vật dụng thực hiện nghi lễ gồm:
Linh tượng, bài vị, chiêng, lá xăm, thẻ xăm,
mâm vàng, mâm bạc, mâm ngũ sắc văn
cúng.v.v.
Nhóm 4: Những đơn vị từ ngữ chỉ các
lễ vật dùng trong nghi thức, nghi lễ gồm:
thuốc lá, trầu cau, hoa quả, bánh trái, hoa
tai, chuỗi hạt, xôi tế, cang lạp, hoàng mao,
nhu mao, dinh tế.v.v.
Nhóm 5: Những đơn vị từ ngữ chỉ các
hoạt động trong thực hiện nghi thức, nghi lễ
gồm: rước xách, tế thần, ế mao huyết, khởi
thái bình chinh, tấn tước, độc chúc, thủ sắc,
tỉnh sanh, vái, xá, khấn.v.v.
Nhóm 6: Những đơn vị từ ngữ chỉ các
hoạt động nghệ thuật, biểu diễn trong nghi
thức, nghi lễ gồm: thài, rỗi, chập, diễn
chập, hát sơ cổ, chầu mở màn, chầu chào,
chầu khai khẩu, chầu đưa.v.v.
Nhóm 7: Những đơn vị từ ngữ chỉ tâm
lí, tình cảm liên quan đến tín ngưỡng gồm:
uy quyền, bảo hộ, bảo vệ, trang nghiêm,
hiển linh, kiêng kị, phù trợ, quyền lực,
trông nom, coi sóc, đức ân.v.v.
Bảng 1. Thống kê số lượng từ ngữ của lớp từ biểu thị hoạt động tín ngưỡng dân gian
của người Việt ở Nam Bộ
Tên nhóm Số lượng từ ngữ Tỉ lệ %
Nhóm từ ngữ chỉ hệ thống thần linh 98/572 17,13
Nhóm từ ngữ chỉ tên các nghi thức, nghi lễ 58/572 10,14
Nhóm từ ngữ chỉ các dụng cụ, vật dụng thực hiện nghi lễ 68/572 11,89
Nhóm từ ngữ chỉ các lễ vật dùng trong nghi thức, nghi lễ 53/572 9,27
Nhóm từ ngữ chỉ các hoạt động trong thực hiện nghi thức, nghi lễ 122/572 21,33
Nhóm từ ngữ chỉ các hoạt động nghệ thuật, biểu diễn trong nghi
thức, nghi lễ
44/572 7,69
Nhóm từ ngữ chỉ tâm lí, tình cảm liên quan đến tín ngưỡng 129/572 22,55
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
46
Thống kê kết quả khảo sát cho thấy,
lớp từ ngữ biểu thị hoạt động tín ngưỡng
dân gian của người Việt qua hai tín ngưỡng
có những đặc điểm như sau:
Về số lượng, các đơn vị từ ngữ có sự
chênh lệch lớn. Số lượng đơn vị từ chiếm
nhiều hơn (343 từ, chiếm 59,97 %) so với
số lượng đơn vị ngữ (229 ngữ, chiếm
40,03%). Trong số lượng đơn vị từ, từ
phức chiếm số lượng phần nhiều (303 từ,
chiếm 52,97%) so với từ đơn (40 từ, chiếm
6,99%). Tuy nhiên, từ phức chỉ có bộ phận
từ ghép, không có từ láy, từ ngẫu kết.
Trong số lượng đơn vị ngữ, ngữ tự do
chiếm phần nhiều (217 ngữ, chiếm
37,94%), ngữ cố định rất ít (12 ngữ, chiếm
2,1%).
Về cấu tạo, lớp từ ngữ này được phân
chia thành: từ đơn, từ ghép, ngữ tự do và
ngữ cố định. Trong đó, ngữ cố định và từ
đơn có số lượng ít nhất. Từ đơn, ngữ cố
định là những đơn vị có sẵn trong ngôn
ngữ. Tuy nhiên, người Việt sử dụng trực
tiếp hai đơn vị này rất ít. Chủ yếu, khi biểu
thị các đối tượng có liên quan đến tín
ngưỡng, họ sử dụng từ đơn để cấu tạo nên
từ ghép và các ngữ tự do để biểu thị chính
xác, đầy đủ tên gọi, hoạt động, tâm lí, tình
cảm của con người trong các nghi thức,
nghi lễ. Để định danh cụ thể, rõ ràng,
người Việt chủ yếu cấu tạo từ ghép bằng
cách ghép chính phụ. Từ ghép đẳng lập chỉ
để gọi khái quát cho một số hoạt động
trong nghi thức, nghi lễ. Có thể thấy,
những đặc điểm cấu tạo của lớp từ ngữ này
đã phản ánh việc cấu tạo ngôn ngữ để biểu
thị hoạt động tín ngưỡng dân gian của
người Việt ở Nam Bộ rất phức tạp.
Về ngữ nghĩa, lớp từ ngữ này có những
đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, tín ngưỡng dân gian ra đời từ
rất sớm. Nó gắn bó hữu cơ với lao động và
đời sống xã hội của con người. Để diễn đạt
ý nghĩa, gọi tên các hoạt động trong tín
ngưỡng, nhân dân ta đã mượn ngôn ngữ
làm phương tiện. Tuy nhiên, do đặc trưng
và mục đích sử dụng, nhóm từ ngữ này chủ
yếu mang tính chuyên ngành cao và thường
khó hiểu đối với người mới tiếp xúc.
Thứ hai, các từ ngữ đều được cấu tạo
theo phương thức ghép. Nghĩa của các từ
ngữ đa số được hiểu theo nghĩa gốc hoặc
sự tổng hợp nghĩa của các thành tố cấu tạo.
Hiện tượng chuyển nghĩa của từ trong lớp
từ ngữ này khá hạn chế.
Thứ ba, để bày tỏ sự thành kính, người
Việt đã sử dụng từ Hán-Việt để biểu thị
hoạt động tín ngưỡng. Từ Hán-Việt tạo nên
sắc thái nghiêm trang, cổ kính nhưng hiểu
được nghĩa của chúng là điều không dễ
dàng. Vì thế, bên cạnh việc dùng từ Hán-
Việt, người Việt còn dùng các từ thuần
Việt vốn quen dùng trong giao tiếp hàng
ngày cho dễ hiểu. Chẳng hạn, trong các
văn khấn, các tài liệu nghiên cứu, người ta
thường dùng ngữ tự do “Linh Sơn Thánh
Mẫu” nhưng trong đời sống, người ta
thường dùng từ “Bà Đen”. Những từ ngữ
này có thể kể đến như Chúa Xứ Thánh
Mẫu (Bà Chúa Xứ), Kim Huê Thánh Mẫu
(mẹ Thai Sanh), Lễ Thượng Nguyên (Lễ
rằm tháng Giêng), Lễ Trung Nguyên (Lễ
rằm tháng Bảy), Lễ Hạ Nguyên (Lễ rằm
tháng Mười), Lễ Mộc Dục (Lễ tắm tượng),
điểm trà (dâng trà), quỵ (quỳ), Cang lạp
(heo), Hoàng mao (bò), Nhu mao (dê), Hàn
Âm (gà).v.v.
Thứ tư, dù người Việt đã có những từ
ngữ thuần Việt để thay thế cho các từ ngữ
Hán-Việt nhưng trong lớp này vẫn còn
nhiều từ ngữ gây khó hiểu cho người mới
tiếp xúc với các tín ngưỡng dân gian. Nhất
TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ - PHAN HOÀNG TẤN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
47
là các từ ngữ dùng trong các nghi thức,
nghi lễ.
Thứ năm, nhiều từ ngữ được cấu tạo
bởi nhiều âm tiết, từ 6 âm tiết trở lên.
Ngoài ra, cùng một đối tượng nhưng người
Việt sử dụng nhiều tên gọi khác nhau nên
gây cản trở trong việc đọc hiểu, giải nghĩa
các từ ngữ.
4. Đặc trưng tư duy văn hoá – dân
tộc qua lớp từ ngữ biểu thị hoạt động tín
ngưỡng dân gian của người Việt
Số lượng từ ngữ trong lớp biểu thị hoạt
động tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ được
tạo ra phong phú, đa dạng như thế đã phần
nào phản ánh thành quả của quá trình sinh
hoạt cộng đồng, xây dựng văn hoá tinh
thần của người Việt. Nếu không có tầm ảnh
hưởng lớn đến đời sống hằng ngày của con
người từ bao đời nay thì lớp từ ngữ này
không được lưu giữ, nối tiếp qua nhiều thế
hệ và không thể nào có số lượng nhiều như
vậy. Sự giàu có trong ngôn ngữ để biểu thị
hoạt động tín ngưỡng dân gian của người
Việt còn phản ánh sự phong phú của thực
tế khách quan, của bức tranh đa màu đa
thanh về cuộc sống tinh thần, đời sống tâm
linh. Qua lớp từ ngữ ấy, ta có thể đi ngược
thời gian để tìm đến những giá trị lịch sử,
văn hoá được cất giữ bằng niềm tin, tình
cảm chân thành, cao quý của con người đối
với các đấng thần linh.
4.1. Văn hoá tâm linh
Trước hết, sự đa dạng trong văn hoá
tâm linh của người Việt được biểu hiện qua
số lượng từ ngữ của các nhóm chỉ hệ thống
thần linh. Với mỗi ý niệm tâm linh, con
người có những vị thần để thờ phụng.
Thông qua khảo sát từ ngữ gọi tên các vị
thần linh, chúng tôi thống kê được khoảng
100 vị thần linh. Mỗi vị thần đều có một ý
nghĩa, một nguồn gốc, một niềm tin được
gửi gắm khác nhau. Đây là một con số đã
chứng minh cho sự phát triển trong văn hoá
tâm linh của người Việt. Bên cạnh đó, yếu
tố tâm linh còn biểu hiện thông qua ngữ
nghĩa của nhóm từ ngữ chỉ tâm lí, tình
cảm. Trước sự vô thường của cuộc đời, con
người luôn tin tưởng ở các đấng siêu nhiên
sẽ che chở, bảo vệ, giúp đỡ cho họ. Điều
đó được chứng minh qua hàng loạt từ ngữ:
linh ứng, bảo vệ, phù hộ, bảo hộ, hiển linh,
linh thiêng, ngăn ngừa, giữ gìn, hộ mệnh,
phù trợ, bình yên, no ấm.v.v. Họ luôn tâm
niệm về sự hiện hữu của các vị thần với
một thái độ tôn trọng, sùng kính. Vì thế,
trong nhóm này, họ có rất nhiều từ ngữ bày
tỏ tình cảm của mình: kính trọng, thành
kính, ca ngợi, cung kính, tôn kính, trang
trọng, lòng thành, nhớ ơn, biết ơn.v.v. Điều
đặc biệt, người Việt không chỉ dùng một
hay hai từ để biểu thị tình cảm mà họ dùng
cả một dãy từ đồng nghĩa để diễn tả tâm lí,
sự thành kính đối với đức tin. Chẳng hạn
như để diễn tả uy quyền, họ dùng các từ
như uy danh, uy linh, uy nghi, uy nghiêm,
uy thế hay diễn tả thái độ kính trọng họ
dùng các từ trang trọng, kính trọng, trịnh
trọng.v.v. Văn hoá tâm linh của người Việt
ở Nam Bộ còn được biểu hiện ở nhóm từ
ngữ chỉ tên và hoạt động trong các nghi
thức, nghi lễ. Lễ kỳ yên thực chất là lễ cầu
an, cầu xin thần linh ban cho sự an lành. Lễ
ẩm phước là lễ nhận phước từ Thần. Lễ xây
chầu là lễ chầu thần cầu an, khai thông thái
cực. Lễ trình đồng là lễ mà những người bị
bệnh lâu ngày không khỏi sẽ đội bát nhang
với tư cách là con nhang đệ tử để Thánh
chữa bệnh. Đó là các hoạt động được biểu
thị dựa trên tên các nghi thức, nghi lễ.
4.2. Văn hoá ứng xử
Con người – tự nhiên – xã hội là ba
yếu tố có mối quan hệ hữu cơ. Cả ba yếu tố
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
48
đều có sự tác động và ảnh hưởng qua lại
theo quy luật. Con người được xem là chủ
thể quan trọng trong mối quan hệ giữa các
yếu tố. Do đó, việc con người ứng xử với
tự nhiên, xã hội được xem là một đặc trưng
quan trọng để tạo tiền đề cho các nét văn
hoá của dân tộc. Lớp từ ngữ biểu thị hoạt
động tín ngưỡng dân gian của người Việt
đã góp phần thể hiện nét văn hoá ứng xử
của con người nơi đây.
Đầu tiên là văn hoá ứng xử với môi
trường tự nhiên. Nam Bộ là vùng sông
nước rất đặc trưng, nằm trong phần hạ lưu
của hai dòng sông lớn. Địa hình tương đối
thấp, khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều và có
gió mùa nên nơi đây rất thuận lợi trong
việc phát triển nghề trồng lúa nước. Mặt
khác, với đường bờ biển dài, diện tích tiếp
xúc biển lớn, các nghề biển từ đó được ra
đời, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đời
sống người dân. Hai nghề này đều phụ
thuộc nhiều vào tự nhiên nên người Việt có
ý thức tôn trọng và sống hoà hợp với tự
nhiên. Điều đó đã được phản ánh vào ngôn
ngữ mà điển hình là lớp từ ngữ biểu thị
hoạt động tín ngưỡng dân gian. Thiên
nhiên vốn dĩ là nơi chở che, cung cấp tài
nguyên cho con người nên người dân rất
sùng bái tự nhiên. Điều này được biểu hiện
qua việc thờ các hiện tượng tự nhiên được
nhân cách hoá như Thần Nông (Vị Thần
phù hộ cho nhân dân nghề nông được mưa
thuận gió hoà, gặt hái mùa vụ tươi tốt),
Ngũ Cốc (5 loại thực phẩm chính của
người Việt từ gốc nông nghiệp), Mẫu
Thượng Thiên (Mẹ cai quản vùng trời),
Mẫu Thượng Ngàn (Mẹ cai quản vùng
rừng núi), Mẫu Địa (Mẹ cai quản vùng
đất), Mẫu Thoải (Mẹ cai quản vùng
nước) để cầu mong thần linh phù hộ
trong quá trình lao động. Tuy nhiên, thiên
nhiên còn là mối đe doạ đến sự sống của
con người. Trong buổi đầu khai hoang,
vùng đất Nam Bộ phải đối mặt với những
hiểm nguy từ tự nhiên. Thiên nhiên ở đây
không chỉ có rừng rậm hoang vu, biển cả
mênh mông mà còn có nhiều loài thú dữ.
Do đó, người Việt ở Nam Bộ còn thờ thêm
các loài động vật ấy như một vị thần để
mong chúng đừng phá hoại, gây khó khăn
trong cuộc sống. Đó là Ngũ Hổ (Thần Hổ),
Ông Lốt (đôi thanh xà, bạch xà), Hà Bá,
Cá sấu Dấu ấn của nền văn hoá sông
nước còn được biểu hiện rõ nét trong nhóm
từ ngữ chỉ lễ vật. Vốn sinh sống chủ yếu là
nghề nông, trồng trọt là chủ yếu, kết hợp
chăn nuôi gia súc, gia cầm. Người dân đã
đem các sản phẩm được làm ra từ lao động
để phục vụ cho các hoạt động nghi thức,
nghi lễ. Về thực vật, lễ vật chủ yếu như
trầu cau, hoa quả, rau hẹ (Phong bổn), lúa
mùa (Hương liệp), lúa gạo (Hương ky), xôi
(Tư thạnh), rượu (Thanh chước).v.v. Về
động vật, lễ vật chủ yếu là các loại gia súc,
gia cầm hoặc các sản phẩm tự nhiên dưới
nước như heo con (Đột phì), gà (Hàn âm),
hào ngư (Thương tế), chim trĩ (Sơ chí), trâu
(Nhất nguyên), bò, (Hoàng mao).v.v.
Về ứng xử với môi trường xã hội, xuất
phát từ cái gốc nông nghiệp, người Việt ưa
sống theo nguyên tắc trọng tình. Kết hợp
với cách cư xử dân chủ, con người nơi đây
có tâm lí coi trọng tập thể, coi trọng cộng
đồng. Họ làm gì cũng nghĩ đến tập thể,
sống cùng tập thể. Số lượng từ ngữ trong
nhóm chỉ hoạt động trong thực hiện nghi
thức, nghi lễ đã cho thấy sự phong phú, đa
dạng trong việc cúng tế. Số lượng mà
chúng tôi khảo sát được là 122 từ ngữ. Để
thực hiện các nghi thức, người Việt không
thể nào làm việc cá nhân mà cần có sự hợp
tác, sự hỗ trợ của tập thể. Thứ nữa, do nghề
TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ - PHAN HOÀNG TẤN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
49
trồng lúa nước sống phụ thuộc vào thiên
nhiên nên đòi hỏi phải ứng phó với rất
nhiều hiện tượng tự nhiên khác nhau. Từ
đó, người Việt hình thành nên lối tư duy
tổng hợp. Ban đầu, với văn hoá trọng phụ
nữ, tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ thờ các vị thần
linh là phụ nữ. Về sau, do ảnh hưởng của
tư duy tổng hợp, các thần linh của các tín
ngưỡng được phối thờ với nhau. Khảo sát
từ ngữ chỉ hệ thống thần linh của 2 tín
ngưỡng, người viết nhận thấy có rất nhiều
vị thần trùng nhau. Trong các miếu thờ,
bên cạnh thờ các vị Thánh Mẫu, Phật Mẫu,
người ta còn thờ thêm các vị thần như Ông
Địa, Thần Tài, Thần Nông, Thổ Công.v.v,
vốn là các vị thần linh bên tín ngưỡng thờ
Thần. Trong các đình làng, vốn là nơi thờ
Thành Hoàng Bổn Cảnh, người ta còn thờ
thêm Bà Chúa Xứ, Ngũ Hành Nương
Nương, Cửu Thiên Huyền Nữ.v.v, của tín
ngưỡng thờ Mẫu. Ngoài ra, tư duy tổng
hợp và tính cách mở thoáng còn được biểu
hiện qua việc tiếp xúc, giao lưu với văn
hoá bên ngoài. Nhờ tư duy tổng hợp, người
Việt đã chuyển hoá các nét văn hoá bên
ngoài kết hợp với lớp văn hoá bản địa để
tạo nên một bản sắc văn hoá đậm chất Nam
Bộ. Điều đó đã làm cho tín ngưỡng dân
gian của người Việt không lỗi thời, lạc hậu
mà luôn thích nghi với những biến chuyển
của xã hội. Chẳng hạn, Ông Địa ở Nam Bộ
được người dân cho hút thuốc lá đầu lọc,
uống cà phê điểm tâm như văn hoá phương
Tây. Từ “Ông Tà” trong nhóm từ ngữ chỉ
hệ thống thần linh là kết quả của sự giao
lưu văn hoá Việt – Khmer. Chữ “Tà” trong
“Ông Tà” là Niek Tà – dấu vết tín ngưỡng
thờ đá của cư dân Nam Đảo. Các vị thần
như Quan Thánh Đế Quân, Thiên Hậu
Thánh Mẫu, Thần Tài, Châu Du Thành
Hoàng Đại Vương, Kỷ Tín Đại Vương là
các thần linh gốc Hoa nhưng đều được
người Việt tôn thờ.
4.3. Văn hoá nhận thức
Văn hoá nhận thức có mối quan hệ mật
thiết với các quy luật vận hành trong văn
hoá của mỗi dân tộc. Nó có sự tác động
qua lại đến tư duy, tổ chức, hoạt động văn
hoá. Do đó, lớp từ ngữ biểu thị hoạt động
tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Nam
Bộ còn lưu trữ cả những nét văn hoá này.
Thứ nhất, triết lí âm dương là một sản
phẩm điển hình của văn hoá nhận thức.
Trong 2 tín ngưỡng được khảo sát, chúng
tôi nhận thấy các vị thần linh được thờ tự
trong tín ngưỡng thờ Thành Hoàng chỉ toàn
là đàn ông. Các vị thần trong tín ngưỡng
thờ Mẫu vốn dĩ chỉ toàn là phụ nữ vì tín
ngưỡng này theo tâm niệm trọng nữ.
Nhưng, phải chăng theo triết lí âm dương,
hệ thống thần linh trong tín ngưỡng thờ
Mẫu có cả nam lẫn nữ. Bên cạnh các vị
nương nương, các vị thánh mẫu, tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ còn phụng thờ
Ngọc Hoàng, Ngũ Vị Hoàng Tử, Thập Nhị
Vương Cậu, Ngũ Vị Quan Lớn.v.v. Ngoài
ra, ở các miếu thờ Mẫu còn thờ cả các vị
nam thần như Ông Địa, Thần Tài, Thần
Nông hay trong các đình làng Nam Bộ,
bên cạnh thờ các Thành Hoàng là nam giới,
người Việt còn thờ Ngũ Hành Nương
Nương, Chúa Xứ Nương Nương, Diêu Trì
Địa Mẫu Theo chúng tôi, dù ngẫu nhiên
hay cố ý, việc phối thờ này đã thể hiện
những đặc trưng cơ bản của triết lí âm
dương vốn ảnh hưởng sâu đậm trong văn
hoá Việt Nam.
Biểu hiện thứ hai trong văn hoá nhận
thức mà ta có thể nhìn thấy được là nhận
thức của người Việt chuyển từ tâm linh
sang thực tiễn. Thông thường, khi đề cập
đến những vấn đề về tôn giáo, tín ngưỡng,
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
50
các đấng thần linh, người ta thường nghĩ
đến những khát vọng thoát tục, vượt khỏi
đời sống trần tục. Nếu như trong Phật giáo,
Kitô giáo thường xuất hiện các từ ngữ như
kiếp trước, kiếp sau, thiên đàng, địa ngục,
cửu tuyền thì trong hệ thống từ ngữ chỉ
tín ngưỡng dân gian, rõ nét nhất là từ ngữ
của tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Thành
Hoàng, ta không tìm thấy các từ ngữ chỉ
niềm tin, tâm lí, tình cảm ở quá khứ hoặc
tương lai. Người Việt tìm đến các tín
ngưỡng cũng giống như tìm đến tôn giáo để
cầu mong sức khoẻ, hạnh phúc, tài lộc
nhưng những khát vọng, mong muốn ấy lại
được phản ánh chân thực, gần gũi với đời
sống thường nhật. Trong nhóm từ ngữ chỉ
tâm lí, tình cảm liên quan đến tín ngưỡng,
ta có thể thấy hàng loạt các từ ngữ: cứu khổ
phò nguy, bảo vệ, bảo hộ, phù trợ, hưởng
lộc, phước lành, đức ân, phước thọ, an
nguy, hoạ phước, ngăn ngừa, hộ vệ, giữ
gìn, tai hoạ, giúp đỡ, ăn nên làm ra, buôn
may bán đắt, mạnh giỏi, hoạn nạn, sung
túc, may mắn, no ấm, che chở Rõ ràng
đây là các từ ngữ diễn đạt những tâm lí,
tình cảm của con người với ước mong
những điều tốt đẹp cho cuộc sống hiện tại.
Ngoài ra, các từ ngữ chỉ hoạt động thực
hiện trong nghi thức, nghi lễ như thụ lộc
thần, xin xăm, xin keo, thỉnh an, vẩy nước,
vay tiền, đoán số vốn là những hoạt động
có ý nghĩa cho thực tại chứ không phải
cuộc sống ở một thế giới nào khác.
Điều đáng nói trong văn hoá nhận
thức của người Việt là họ luôn gắn liền các
hoạt động tín ngưỡng với sinh hoạt văn
hoá dân gian. Điều này có thể lí giải khi
các tín ngưỡng xuất phát từ dân gian, phổ
biến rộng rãi trong nhân dân, họ đã gắn
liền tín ngưỡng với các hoạt động sinh
sống. Mặt khác, người Việt ở Nam Bộ đã
tăng tính thiết thực của hoạt động nghi lễ,
mang lại sự thu hút, gần gũi với người dân
thông qua các sinh hoạt mang tính nghệ
thuật. Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng thì có
hát bội, nhạc lễ. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Nam Bộ bên cạnh hầu đồng của miền Bắc
còn có hát bóng rỗi và diễn chập địa.
Nhóm từ ngữ chỉ các dụng cụ, vật dụng
trong nghi thức, nghi lễ có các từ để chỉ
nhạc cụ dân tộc đã phản ánh điều đó như
Trống cơm, Đàn Sến, Đàn Cò, Cảnh,
Phách, Đàn Kìm (Đàn Nguyệt) hay
trong nhóm chỉ nghệ thuật biểu diễn còn
có các từ ngữ như hát chầu, hát sơ cổ, hát
rỗi, múa thêu hoa, múa hái hoa, múa lân,
múa dâng bông, múa dâng mâm, múa đồ
chạy, múa đồ bêu, tung mâm, lật mâm,
chuyển mâm, thăng bằng.v.v.
5. Kết luận
Thông qua việc khảo sát, thống kê các
nguồn ngữ liệu, chúng tôi đã xác lập được 7
nhóm từ ngữ thuộc lớp từ ngữ biểu thị hoạt
động tín ngưỡng dân gian của người Việt ở
Nam Bộ, tiếp đến tiến hành phân tích, mô tả
đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của những từ
ngữ thuộc các nhóm này. Trên cơ sở đó,
chúng tôi nhận thấy số lượng từ ngữ biểu thị
hoạt động tín ngưỡng dân gian của người
Việt nơi đây rất đa dạng, phong phú. 572 từ
ngữ thu thập được đã phản ánh vai trò rất
quan trọng của đời sống tâm linh trong tư
duy, nhận thức của con người Nam Bộ.
Ngoài ra, các từ ngữ còn phản ánh rõ nét
các đặc trưng văn hoá của người dân miền
sông nước. Nhìn chung, nét văn hoá đó
được thể hiện ở 2 đặc trưng chủ đạo là đặc
trưng sông nước (biểu hiện qua văn hoá ứng
xử với môi trường tự nhiên) và đặc trưng
tiếp biến văn hoá (biểu hiện qua văn hoá
ứng xử với môi trường xã hội). Đặc tính
sông nước ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy,
TRẦN THỊ PHƯƠNG LÝ - PHAN HOÀNG TẤN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
51
nhận thức của con người nên đã chi phối
trong việc tiếp nhận văn hoá. Những uyển
chuyển, dung dị, mềm dẻo trong tiếp nhận
văn hoá đã làm nổi bật đặc tính sông nước.
Các đặc trưng tư duy văn hoá ấy được tạo
nên bởi nhiều yếu tố như lịch sử hình thành,
về thiên nhiên dạt dào sông nước, vị trí địa
lí chủ yếu giáp biển, về dân cư nhiều tộc
người.v.v. Đáng nói hơn, các nét đặc sắc
trong văn hoá của Nam Bộ đã được phản
ánh rõ nét trong lớp từ ngữ biểu thị hoạt
động tín ngưỡng dân gian của người Việt và
góp phần tạo nên sự giàu có trong hệ thống
ngôn ngữ của toàn dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Diệp Quang Ban (2009). Ngữ pháp Việt Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam, 5 – 290.
Phan Kế Bính (2016). Việt Nam phong tục. Hà Nội: Nxb Nhã Nam, 7 - 297.
Nguyễn Tài Cẩn (1998). Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng - từ ghép - đoản ngữ). Hà Nội: Nxb
ĐHQG, 9 - 397.
Đỗ Hữu Châu (1981). Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam,
3 - 261.
Nguyễn Đăng Duy (2004). Văn hoá Việt Nam – Đỉnh cao Đại Việt. Hà Nội: Nxb Hà Nội, 1 - 287.
Trần Ngọc Thêm (2000). Cơ sở văn hoá Việt Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam,
10 - 326.
Trương Thìn (2007). 101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam. Hà Nội: Nxb
Hà Nội, 95 - 154.
Phạm Thái Việt (2004). Đại cương về văn hoá Việt Nam. Hà Nội: Nxb Văn hoá – Thông
tin, 53.
Nguồn cứ liệu khảo sát
Hoàng Phê (2018). Từ điển tiếng Việt. Nxb Hồng Đức, 1 - 1491.
Ngô Đức Thịnh (2009). Đạo Mẫu Việt Nam. Tập 1. Hà Nội: Nxb Tôn giáo, 5 - 398.
Huỳnh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường – Hồ Tường (1993). Đình Nam Bộ - tín ngưỡng
và nghi lễ. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1 - 215.
Huỳnh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường (1999). Đình Nam Bộ xưa và nay. Đồng Nai:
Nxb Đồng Nai, 1 - 313.
Ngày nhận bài: 06/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31_8981_2214936.pdf