Tiểu luận Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay

Tài liệu Tiểu luận Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay: Tiểu luận triết học Đề tài: ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay Chương 1 Nguồn gốc , bản chất và kết cấu của ý thức 1. ý thức là gì Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống riêng , tồn tại tách biệt vật chất thậm chí quyết định , sinh ra vật chất . Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật chất . Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy dược ý thức phản ánh thế giới khách quan, đã chỉ ra được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc xã hội và vai trò xã hội của ý thức . Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa , phát triển , khắc phục những quan niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức : ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người thông qua lao động và ngôn ngữ . ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy , lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại của ý thức . 2. Nguồn gốc của ý thức : ý th...

doc33 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận triết học Đề tài: ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay Chương 1 Nguồn gốc , bản chất và kết cấu của ý thức 1. ý thức là gì Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống riêng , tồn tại tách biệt vật chất thậm chí quyết định , sinh ra vật chất . Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật chất . Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy dược ý thức phản ánh thế giới khách quan, đã chỉ ra được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc xã hội và vai trò xã hội của ý thức . Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa , phát triển , khắc phục những quan niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức : ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người thông qua lao động và ngôn ngữ . ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy , lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại của ý thức . 2. Nguồn gốc của ý thức : ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội . 1.1. Nguồn gốc tự nhiên : Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức , song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức . Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh , chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người . Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức . ý thức là chức năng của bộ óc người . Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người . ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người , do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn . Vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc . ý thức không thể diễn ra , tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người . Bộ óc của con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội sau khi vượn biến thành người , óc vượn biến thành óc người . Bộ óc là một tổ chức vật chất sống đặc biệt , có cấu trúc tinh vi và phức tạp , bao gồm từ 14 dến 15 tỷ tế bào thần kinh . Các tế bào này có liên quan với nhau và với các giác quan , tạo thành vô số những mối liên hệ thu nhận , điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện . Trong bộ óc người , quá trình ý thức không đồng nhất và cũng không tách rời , độc lập hay song song với quá trình sinh lý . Đây chính là hai mặt của một quá trình - quá trình sinh lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức , cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin . Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người . Chẳng hạn các máy tính điện tử , rôbốt " tinh khôn " , trí tuệ nhân tạo . Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người . Máy móc dù có tinh khôn đến.đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thế được cho hoạt động trí tuệ của con người . Máy móc là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra , còn con người là một thực thể xã hội . Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người . Do đó chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó . Tuy nhiên , nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại các tác động đó thì cũng không thể có ý thức . Phản ánh là một thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất .Phản ánh được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất ; đó là năng lực giữ lại , tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất . Thí dụ : nước và oxi tác động vào kim loại gây ra sự han gỉ của kim loại phản ánh đặc điểm của nước và oxi . Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất , tương ứng với sự phát triển của các hình thức hoạt động của vật chất , thì thuộc tính phản ánh của vật chất cũng phát triển . Hệ thống vật chất có tổ chức càng phức tạp thì năng lực phản ánh càng cao . Phản ánh đơn giản nhất ở trong giới vô sinh là phản ánh vật lí . Hình thức phản ánh này được thể hiện qua những biến đổi cơ , lí , hoá dưới những hình thức biểu hiện cụ thể như thay đổi vị trí , biến dạng và phá huỷ . Giới hữu sinh có hệ thống tổ chức cao hơn so với giới vô sinh . Song bản thân giới hữu sinh lại tồn tại với những trình độ khác nhau tiến hoá từ thấp đến cao , từ đơn giản đến phức tạp nên hình thức phản ánh sinh vật cũng thể hiện ở thực vật và các cơ thể động vật bậc thấp . Khác với phản ánh vật lý mang tính thụ động , không chọn lọc , phản ánh kích thích đã có sự chọn lọc trước những sự tác động của môi trường . Thí dụ hoa hướng dương hướng đến mặt trời , rễ cây phát triển mạnh về phía có nhiều phân bón ... ở động cao cấp phản ánh được phát triển cao hơn do việc xuất hiện hệ thần kinh . Tính cảm ứng ( năng lực có cảm giác ) là hình thức phản ánh nảy sinh do những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại trước tác động đó của môi trường . So với tính kích , tính cảm ứng hoàn thiện hơn , nó được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện . Phản ánh tâm lý , hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện . ở phản ánh tâm lý ngoài cảm giác , đã xuất hiện tri giác và bểu tượng . Cảm giác , tri giác , biểu tượng là những biểu hiện của phản ánh tâm lý ở động vật có hệ thần kinh trung ương . Cùng với quá trình vượn biến thành người , phản ánh tâm lý ở động vật cao cấp chuyển hoá thành phản ánh ý thức của con người . Phản ánh ý thức là một hình thức phản ánh mới đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất , đó là bộ não con người Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực , ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất , cùng với sự xuất hiện của con người . ý thức là ý thức của con người , nằm trong con người , không thể tách rời con người . ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản ánh - phát triển thành . ý thức ra đờì là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất , nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài , về vật được phản ánh . ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người . Bộ óc người là cơ quan phản ánh , song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức . Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra . Như vậy , bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức . 1.2. Nguồn gốc xã hội Để cho ý thức ra đời , những tiền đề , nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng , không thể thiếu được , song chưa đủ . Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề , nguồn gốc xã hội . ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động , ngôn ngữ và những quan hệ xã hội . ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội , nó phụ thuộc vào xã hội , và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội . Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp , còn loài người thì khác hẳn . Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường không có sẵn trong tự nhiên . Con người phải tạo từ những vật phẩm ấy . Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giơí khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan , mới có ý thức về thế giới đó . Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động . Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực , bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính , những kết cấu , những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người . ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần tuý tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người , mà chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan , làm biến đổi thế giới đó . Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người . Như vậy , không phải ngẫu nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có ý thức , mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới . Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới . Nói cách khác , ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người . Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới , ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới . Trong quá trình lao động , ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm cho nhau . Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ . Ph.Ăngghen viết : " Đem so sánh con người với các loài vật , người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động , đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ ". Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành . Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức . Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được . Ngôn ngữ , theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư duy , là hiện thực trực tiếp của tư tưởng , không có ngôn ngữ , con người không thể có ý thức . Ngôn ngữ ( tiếng nói và chữ viết ) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy . Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá , trừu tượng hoá , mới có thể suy nghĩ , tách khỏi sự vật cảm tính . Nhờ ngôn ngữ , kinh nghiệm , hiểu biết của người này được truyền cho người kia , thế hệ này cho thế hệ khác . ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội , do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được . Như vậy , nhôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý , tư duy và văn hoá con người , xã hội loài người nói chung . Vì thế Ph.Ăngghen viết :" sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ ... đó là hai sức kích thích chủ yếu " của sự chuyển biến bộ não của con người , tâm lý động vật thành ý thức . 2. Bản chất của ý thức Dựa trên lý luận phản ánh của mình , chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết một cách khoa học vấn đề bản chất của ý thức . Trước C.Mác , các nhà duy vật đều thừa nhận sự vật , vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó . Tuy nhiên , do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình nên nhiều nhà duy vật trước C.Mác đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động giản đơn , máy móc sự vật mà không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức , tính biện chứng của quá trình phản ánh . Trái lại , các nhà duy tâm lại cường điệu tính năng động , sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất , chứ không phải là sự phản ánh của vật chất . Khác với những quan điểm trên đây , chủ nghĩa duy vật Mácxít coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động , sáng tạo . Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là phải thừa nhận ý thức là sự phản ánh , là cái phản ánh , còn vật chất là cái được phản ánh . Cái được phản ánh - tức vật chất - tồn tại khách quan , ở ngoài và độc lập với cái phản ánh là ý thức . " ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại ý thức " , là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan . Vì vậy không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất . ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan , nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan , là thực tại chủ quan , không có tính vật chất . ý thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính . Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý thức , từ đó đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm . Tuy nhiên , ý thức không phải là bản sao giản đơn , thụ động máy của sự vật . ý thức là của con người , mà con người là một thực thể xã hội năng động , sáng tạo . ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động , cải tạo thế giới . Do đó ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động , sáng tạo . ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện thực , theo nhu cầu thực tiễn xã hội . Vì vậy ý thức " chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó ". Nói cách khác , ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan . Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú . Trên cơ sở những cái đã có , ý thức có thể tạo ra tri thức về sự vật , có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế . ý thức có thể tiên đoán , dự báo tương lai ( phản ánh vượt trước ) , có thể tạo ra những ảo tưởng , những huyền thoại , những giả thuyết , lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao , thậm chí ở một số người có những khả năng đặc biệt như tiên tri , thôi miên , ngoại cảm , thấu thị ... Những khả năng đó càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý - ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng kì lạ đó ... ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người , song đây là phản ánh đặc biệt - phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới . Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây : Một là , trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh . Sự trao đổi này mang tính hai chiều , có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết . Hai là ,mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần . Thực chất đây là quá trình sáng tạo lại hiện thực của ý thức theo nghĩa mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất . Ba là , chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan , tức quá trình hiện thực hóa tư tưởng , thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại , biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực . Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp , phương tiện , công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình . Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức . Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất . Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh , theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh , mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần . Sự sáng tạo của ý thức không đối lập , loại trừ , tách rời sự phản ánh , mà ngược lại thống nhất với phản ánh , trên cơ sở phản ánh . Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức . ý thức - trong bất kỳ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp , năng động , sáng tạo của bộ óc . ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã hội . ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội , phản ánh những quan hệ xã hội khách quan . C.Mác khẳng định :" ngay từ đầu , ý thức đã là một sản phẩm xã hội , và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại ". 3. Kết cấu của ý thức ý thức có kết cấu phức tạp , bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau . Có thể phân chia kết cấu đó theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận . ở đây có thể chia cấu trúc đó theo hai chiều sau đây : 3.1. Theo chiều ngang Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức , tình cảm , niềm tin , lý trí , ý trí ... Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản , cốt lõi . Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới , là sự phản ánh thế giới khách quan . Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên , về xã hội , về con người ... và có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức cảm tính và tri thức lý tính , tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận , tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học ... Để cải tạo tự nhiên và xã hội , con người phải có hiểu biết về thế giới , nghĩa là phải có tri thức về sự vật . Do đó mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định . ý thức mà không bao hàm tri thức , không dựa vào tri thức vì ý thức đó là một sự trừu tượng , trống rỗng , không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn . Theo Mác tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức ... Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức chừng nào mà ý thức biết cái đó . Quá trình hình thành và phát triển của ý thức cũng là quá trình con người tìm kiếm , tích luỹ tri thức về thế giới xung quanh . Càng hiểu biết về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc . Tuy nhiên , sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ đem lại hiểu biết về thế giới mà còn đem lại tình cảm của con người đối với thế giới . Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại , nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan . Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người . Tri thức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì mới biến thành hành động thực tế , mới phát huy được sức mạnh của mình . 3.2. Theo chiều dọc Đó là lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người bao gồm các yếu tố như tự ý thức , tiềm thức , vô thức ... Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác quy định tính chất phong phú , phức tạp trong thế giới tinh thần và hoạt động tinh thần của con người . Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh , con người đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình , đó chính là tự ý thức . Như vậy , tự ý thức cũng là ý thức , là một thành tố quan trọng của ý thức , song đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài . Tự ý thức là ý thức của con người về những hành vi , những tình cảm , tư tưởng , động cơ , lợi ích của mình , về địa vị của mình trong xã hội . Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài . Thông qua phản ánh thế giới xung quanh , con người ý thức mình như một cá nhân đang tồn tại , đang hoạt động , có tư duy , có cảm giác , có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội . Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của một giai cấp , một tập đoàn xã hội , thậm chí của xã hội . Trình độ tự ý thức nói lên trình độ phát triển của nhân cách , trình độ làm chủ bản thân . Nhờ có tự ý thức , con người tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc , các chuẩn mực mà xã hội đề ra . Tiềm thức là những hoạt động tâm lý ( chủ yếu là hoạt động nhận thức ở cả hai trình độ cảm tính và tư duy) tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể , song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy . Về thực chất , tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước ( bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp nắm bắt chúng ) nhưng đã gần như trở thành bản năng , thành kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể , là ý thức dưới dạng tiềm năng . Do đó tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp . Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con người và cả trong tư duy khoa học . Trong tư duy khoa học , vai trò của tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác , với các hoạt động tư duy thường lặp đi lặp lại nhiều lần . ở đây tiềm thức góp phần làm giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý một khối lượng các tài liệu , dữ kiện , tin tức diễn ra một cách lặp đi , lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học . Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển . Lĩnh vực vô thức là lĩnh vực các hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó . Chúng liên quan đến những hoạt động xảy ra bên ngoài phạm vi của lý trí hoặc chưa được con người ý thức đến . Con người là một thực thể xã hội có ý thức nhưng không phải mọi hành vi của con người đều do lý thí chỉ đạo . Trong đời sống của con người , có những hành vi do bản năng chi phối hoặc do những động tác được lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen tới mức chúng vẫn tự động xảy ra ngay cả khi không có sự chỉ đạo của lý trí . Những hành vi thuộc loại như vậy là những hành vi vô thức , do vô thức điều khiển , nói cách khác , vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu , điều chỉnh sự suy nghĩ , hành vi , thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự truyền tin bên trong , chưa có sự kiểm tra , tính toán của lý trí . Vô thức biểu hiện ra thành những hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn , giấc mơ , bị thôi miên , mặc cảm , sự lỡ lời , nói nhịu , trực giác ... Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động riêng , có vai trò , chức năng riêng , song tất cả đều có một chức năng chung là giải toả những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng . Nó góp phần quan trọng trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức , sự dày vò mặc cảm ... Nghiên cứu những hiện tượng vô thức giúp cho con người luôn luôn làm chủ đời sống nội tâm của mình , có phương pháp kìm chế đúng quy luật những trạng thái ức chế của tinh thần . Như vậy vô thức có vai trò và tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con người . Nhờ vô thức , con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết do thần kinh khi làm việc quá tải . Nhờ vô thức mà những chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên không có sự khiên cưỡng . Vô thức có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động giáo dục thế hệ trẻ , trong hoạt động khoa học và nghệ thuật . Vì vậy không thể phủ nhận vai trò của vô thức trong cuộc sống , nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người .Tuy nhiên không nên cường điệu hoá , tuyệt đối hóa và thần bí hoá vô thức . Không nên coi vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập , hoàn toàn tách biệt khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh và tuyệt nhiên không phải nó không có liên hệ gì đến ý thức . Thực ra vô thức là vô thức nằm trong con người có ý thức , con người là một thực thể có ý thức . Giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của con người là ý thức chứ không phải vô thức . Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân , thiện , mỹ . Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người . 4. Vai trò và tác dụng của ý thức . ý nghiã phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý . Kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết đến vật chất , kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức tư tưởng . Thực ra hoàn toàn không phải như vậy . Chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường , không biện chứng , duy vật kinh tế mới phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần , ý thức mà thôi . Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức , chủ nghĩa duy vật Mácxít đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất . ý thức do vật chất sinh ra và quyết định , song sau khi ra đời , ý thức có tính độc lập tương đối nên có tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người . ý thức của con người có tác động tích cực , làm biến đổi hiện thực , vật chất khách quan theo nhu cầu của mình . Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại . Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động . Nói tới vai trò của ý thức về thực chát là nói tới vai trò của con người , bởi vì ý thức là ý thức của con người . Bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả . Theo Mác " lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổi bằng lực lượng vật chất " , cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn . Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện thực hiện được các quy luật khách quan thì phải nhận thức vận dụng đúng đắn những quy luật đó , phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động . Cho nên vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người , hình thành mục tiêu , kế hoạch , ý chí , biện pháp cho hoạt động của con người . ở đây ý thức , tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai , thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định . Vai trò tích cực của ý thức , tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho con người hình thành được mục đích , phương pháp , biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình . Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất , thoát ly hiện thực khách quan , mà biết dựa vào điều kiện vật chất đã có , phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động , sáng tạo với ý chí , nhiệt tình cao . Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả . Vì vậy phải phát huy tính năng động , sáng tạo của ý thức , phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan . Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ , trì trệ , thái độ tiêu cực , thụ động , ỷ lại , ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay . Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật , của các quy luật tự nhiên và xã hội . Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó - tồn tại khách quan , không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan , lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Chính vì vậy , Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách , không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng . Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan , nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế , lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí . Trước Đại hội Đảng lần thứ VI , bên cạnh những thành tựu đạt được , chúng ta đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật , cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế . Chúng ta đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần , vi phạm nhiều quy luật khách quan . Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ VII đã khẳng định :" Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí , vi phạm quy luật khách quan " . Vì vậy , từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng , Đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng là : " Mọi đường lối , chủ Đảng phải xuất phát từ thực tế , tôn trọng quy luật khách quan ". Bài học đó có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước ta . Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã tổng kết 10 năm đổi mới , đề ra những mục tiêu , phương pháp cho thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước . Trong thời kì mới này phải " lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững " , chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp hoá , hiện đại hóa đồng thời phải " khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước , ý chí quật cường , phát huy tài chí của nguời Việt Nam , quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu ... " Chương 2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta . 1. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xã hội . Trên phạm vi thế giới những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới đẫ làm cho lợi thế so sánh của mỗi quốc gia biến đổi không ngừng , làm thay đổi mối quan hệ giữa các nước , trong đó mỗi nước đều có cơ hội to lớn để tìm ra lợi thế so sánh mới cho mình và đều đứng trước những thách thức mới . Trong điều kiện như vậy các nước phụ thuộc lẫn nhau rất mạnh mẽ . Tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực sự góp phần không nhỏ vào quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế này , đã làm nảy sinh sự liên kết kinh tế đa dạng , nhiều chiều . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật , một mặt đang làm thay đổi những quan điểm trước đây về một nền kinh tế độc lập , tự chủ , hoàn chỉnh , dẫn thế giới đến một chỉnh thể đầy mâu thuẫn đòi hỏi phải có cách giải quyết mới , mặt khác , dẫn đến sự cấu trúc lại nền kinh tế cả trên phạm vi thế giới lẫn trong nội bộ từng nước . Nền kinh thế giới chuyển dần sang cơ cấu phát triển theo chiều sâu , đặc biệt là trong công nghiệp cơ cấu đó chuyển dịch khá nhanh về phía những ngành có hàm lượng khoa học , công nghệ và trí tuệ cao , cơ cấu tiêu thụ giảm theo hướng giảm các sản phẩm dùng nhiều lao động và nguyên liệu . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã làm cho vai trò của năng lượng và lợi thế so sánh của nguyên liệu và sản phẩm sơ cấp trong công nghiệp giảm dần , do vậy mà mới có tình trạng chỉ số giá cả các sản phẩm sơ cấp và nguyên liệu trên thị trường thé giới giảm tói 40% so với đầu thập kỷ 80 . Cũng do sự chuyển dịch nhanh chóng đó mà hiện nay đã có tới 11 trong số 28 ngành công nghiệp chính của thế giới đang bị lu mờ , bị coi là đã xế chiều và đang bị các ngành mới ra đời lấn át hoặc thay thế hoàn toàn . Trước tình hình đó để tránh thua thiệt những nước xuất khẩu nguyên liệu và các sản phẩm sơ cấp - mà ở đây chủ yếu là các nước đang phát triển - phải tìm cách nhanh chóng nâng cao năng lực biến đổi tài nguyên thành sản phẩm tiêu dùng cao cấp , muốn như thế thì không có cách nào khác hơn là phải tìm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật . Như vậy , do tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà yêu cầu phải đổi mới về mặt kinh tế , từ cơ cấu sản xuất cho đến quan hệ giữa các quốc gia , trở thành một tất yếu không thể cưỡng lại được nếu như quốc gia đó muốn tồn tại và không bị nhấm chìm . Tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay , một mặt , tạo điều kiện cho sự quản lý sản xuất , quản lý xã hội nhanh nhạy và linh hoạt hơn , mặt khác nó lại cũng đòi hỏi phải có sự quản lý đối với nó nhanh nhạy và linh hoạt như vậy . Vì thế tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực tế là mâu thuẫn với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp . Những thay đổi nhanh chóng trong kỹ thuật và trong công nghệ cũng như trong tổ chức sản xuất , trong các mặt hàng , các sản phẩm được làm ra đòi hỏi phải có cách quản lý linh hoạt , mềm dẻo có hiệu quả cao , nghĩa là để chuyển sang chất lượng mới của sự phát triển thì phải có sự đổi mới sâu sắc và căn bản trong cơ chế quản lý . Một hệ thống kinh tế bị đóng kín , bị giới hạn từ trên xuống dưới , bị hạn chế quan hệ ngang , được điều khiển bằng mệnh lệnh tập trung và quan liêu không tránh khỏi kìm hãm sự phát triển của xã hội , sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho nên tất yếu phải bị thay thế . Ngày nay việc quản lý xã hội , trong đó quan trọng quản lý kinh tế , quản lý nhà nước , thành công đến mức nào là tuỳ thuộc vào khả năng xử lý thông tin . Không theo kịp những biến đổi hết sức mới trong lĩnh vực này mà khư khư giữ lấy cách quản lý cũ , lạc hậu thì không tránh khỏi bỏ lỡ thời cơ có thể vươn lên để tiến kịp cùng thời đại và thoát ra sự trì trệ . Cùng với những biến đổi về chất lượng trong lực lượng sản xuất , trong kinh tế và trong quản lý xã hội , tiến bộ khoa học - kỹ thuật còn tạo nên những biến đổi ghê gớm trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự , trong việc tạo ra những phương tiện phá hoại và huỷ diệt sự sống , làm gay gắt những vấn đề toàn cầu của thời đại . Sức mạnh quân sự của một quốc gia lúc này không chỉ phụ thuộc vào số lượng lớn binh lính , vào những loại vũ khí thông thường có sức công phá lớn đã từng một thời làm mọi người khiếp đảm mà còn phụ thuộc rất lớn vào các vũ khí dựa trên những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất , thậm chí có khi chỉ phụ thuộc vào một số ít người thuộc các ngành nghề khác nhau từ nhà chính trị cho đến nhà sinh học , y học chuyên nghiên cứu các vi khuẩn gây bệnh , từ nhà vật lý hạt nhân cho đến người điều khiển tên lửa mang đầu đạn hạt nhân . Những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được sử dụng để sản xuất các loại vũ khí giết người hàng loại . Chẳng hạn , đứng về mặt kỹ thuật mà xét thì số vũ khí hiện có đã đủ để xoá sạch hoàn toàn nhiều lần toàn bộ sự sống trên trái đất nếu chiến tranh hạt nhân xảy ra . Chỉ riêng một tầu ngầm chiến lược , trong số hàng trăm tàu ngầm hiện có , cũng mang theo tiềm năng huỷ diệt tương đương với mấy cuộc chiến tranh thế giới thứ hai . trong cuộc chiến tranh mới đó không ai có thể tìm thấy phần thắng . Trước nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới có sức huỷ diệt lớn như vậy những người đứng đầu các quốc gia buộc phải đổi mới cách đánh giá , cách nhìn nhận các quan hệ chính trị quốc tế , cách giải quyết mâu thuẫn khu vực và thế giới , đổi mới quan niệm về quốc phòng và an ninh mới . Nếu làm ngược lại chắc chắn không thể tránh được những hậu quả ghê gớm khó lường trước được . Nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà càng ngày người ta càng tạo ra được nhiều loại nguyên liệu và vật liệu có thể thay thế những thứ từ trước đến nay chỉ có thể dựa vào sự cung cấp của thiên nhiên . Vì vậy tiến bộ khoa học - kỹ thuật đang làm cho ưu thế dưới dạng tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên trở nên tương đối . Tiến bộ khoa học - kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nước này thoát ra khỏi sự lạc hậu và trì trệ nếu như biết định hướng đúng , nếu có một tiềm năng nhất định nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần thiết để tiếp thu các công nghệ tương đối hiện đại . Khi đã có những kĩ thuật và công nghệ mới , tiến bộ thì vấn đề đặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra , tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm ... Nếu giải quyết tốt chúng thì khả năng hội nhập của các nước này với trào lưu chung của thế giới là hiện thực . Song tiến bộ khoa học - kỹ thuật thời đại chúng ta còn có một mặt khác nghiệt ngã là hoàn toàn có khả năng nhấn các nước kém phát triển chìm sâu hơn trong cảnh lạc hậu và phụ thuộc , đồng thời còn tạo nên một khoảng cách còn lớn gấp bội so với khoảng cách đã từng tồn tại trước đây giữa họ và các nước phát triển nếu như họ không tìm ra con đường thích hợp hoặc cố tình duy trì cách làm ăn cũ , thói quen cũ , không thích nghi với những biến đổi của thời đại . Như vậy , trong thế giới hiện đại vừa liên kết hợp tác , vừa chứa đầy mâu thuẫn và cạnh tranh với nhau khốc liệt , mọi quốc gia trong đó có chúng ta , nếu muốn giành cho một vị trí xứng đáng hay ít ra để không bị nhấn chìm , đều không thể cưỡng lại xu thế của thời đại là đổi mới mọi mặt trên cơ sở nhận thức , đánh giá và sử dụng đúng đắn , nhanh chóng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được loài người tạo ra , đồng thời biết khai thác và tạo được những điều kiện cho sự khai thác những nguồn lực khác có thể khai thác . 2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay . 2.1. Những thành tựu của công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội ở nước ta . 2.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước : Thế giới và nền sản xuất của nó đang chuyển biến hết sức nhanh chóng dưới tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà đỉnh cao mới là những tiến bộ do cách mạng công nghệ , cách mạng tin học mang lại . Nhiều nước đã và đang tiến hành những cải cách rộng rãi , mạnh bạo , đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin . Tuy nhiên cũng trong bối cảnh đó các nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào tình trạng nặng nề và rút cục bị lạc hậu về nhiều mặt . Nguyên nhân của tình trạng này là không đánh giá đúng đắn và kịp thời những tiến bộ khoa học - kỹ thuật , thiếu những điều kiện cần thiết , thiếu một môi trường dân chủ thực sự để cho con người phát huy mọi khả năng sáng tạo của mình . Có thể thấy rõ điều này qua các chỉ số so sánh cụ thể giữa Liên Xô và Mĩ . Việt Nam tiến hành đổi mới trong bối cảnh bị cô lập tương đối về kinh tế trong một thời gian dài . Những hỗ trợ kinh tế và tài chính hầu như không đáng kể , nguồn viện trợ vay của Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu bị cắt . Sự phong toả về kinh tế , sự lôi cuốn Việt Nam vào những xung đột chính trị và quân sự đã buộc đất nước phải tiêu hao nguồn lực mà lẽ ra có thể sử dụng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội . Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng có một số cơ may và thuận lợi : xu thế hoà bình và hợp tác kinh tế quốc tế đang mở rộng , sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại , vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế . 2.1.2. Công cuộc đổi mới và những thành tựu đã đạt được ở nước ta Đại hội Đảng lần thứ VI ( tháng 12 / 1986 ) đã đưa ra những quan điểm cơ bản trong quá trình đổi mới ở nước ta là : _Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa _Chuyển nền kinh tế vận hành từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung , quan liêu , bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . _Mở cửa nền kinh tế , đa dạng hoá , đa phương hóa và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới . _Dân chủ hoá mọi mặt đời sống kinh tế xã hội , tiến tới đổi mới hành chính và xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh . Nhìn vào một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản , chúng ta thấy những nhân tố ổn định của nền kinh tế đã đạt được hình thành : Tổng sản phẩm trong nước tăng đều và có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây . Trong gai đoạn 1986 - 1990 bình quân mỗi năm tăng 3,9% ( 1986 tăng 0,3% ; 1987 tăng 3,6 % ; 1988 tăng 6% ; 1989 tăng 4,7% ; 1990 tăng 5,1% ) . Trong giai đoạn 1991 - 1995 bình quân mỗi năm tăng 8,7 % ( 1991 tăng 6% ; 1992 tăng 8,6% ; 1993 tăng 8,1% ; 1994 tăng 8,8% ; 1995 tăng 9,5% ; 1996 tăng 9,34% ) . Tăng trưởng kinh tế năm 1996 vẫn đạt trên mức 9% nói lên sự phát triển ổn định . Lạm phát bị đẩy lùi và được kiềm chế ở mức thấp . Tiền đồng ổn định , tỷ giá hối đoái giao động trên dưới 11000 VNĐ/USD . Cán cân thanh toán trong và ngoài nước được chuyển động theo hướng tích cực . Ngân sách Nhà nước có nguồn thu từ thuế và phí tăng lên . Quan hệ xuất nhập khẩu đã có những tiến bộ , xuất khẩu hàng năm tăng dần . Năm 1995 xuất khẩu 5,2 tỷ USD , nhập khẩu 7,5 tỷ USD . Năm 1996 xuất khẩu 7 tỷ USD và nhập khẩu 11 tỷ USD . Tỷ lệ xuất so với năm 1995 đã tăng lên nhưng nhập siêu còn lớn . Tỷ lệ tăng dân số giảm dần từ 2,33% năm 1991 xuống còn 2% năm 1995 , năm 1996 tỷ lệ này đã xuống dưới 2% nhưng tỷ lệ tăng dân số vẫn lớn nếu không kiềm chế được thì đây là cản trở lớn cho phát triển . Số người có việc làm đã tăng lên , từ 30,97 triệu người làm việc năm 1991 đến năm 1995 con số này là 34,68 triệu người . Năm 1996 số người có việc làm vẫn tiếp tục tăng lên , nhưng tỷ lệ thiếu việc làm vẫn đang còn lớn . Mức sống dân cư được cải thiện , GDP đầu người năm 1991 là 273 USD . Năm 1996 mức sống đã tăng lên nhưng còn một bộ phận dân cư ở nông thôn và miền núi đời sống vẫn còn khó khăn . Đổi mới , cải cách về kinh tế , nhưng không gây rối loạn về xã hội hoặc đổ vỡ về chính trị như ở nhiều nước khác . Chính sự ổn định về chính trị và xã hội là điều kiện hết sức quan trọng cho việc triển khai và đẩy tới công cuộc đổi mới về kinh tế ; ngược lại những kết quả của công cuộc đổi mới về kinh tế lại là tiền đề cho sự ổn định về xã hội và đổi mới về chính trị . ổn định chính trị do một chính Đảng lãnh đạo thu hút được quần chúng . 2.1.3. Những hạn chế của công cuộc đổi mới Công cuộc đổi mới của nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế : Xét trên tổng thể , nền kinh tế nước ta hiện vẫn chưa thoát rả khỏi tình trạng tái sản xuất giản đơn và nhiều mặt còn mất cân đối nặng nề . Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người mới đạt khoảng 200 USD . Sự tăng trưởng kinh tế tuy đang phát triển , nhưng đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp sự tăng trưởng đang bị giới hạn , nếu không có đầu tư lớn về khoa học và công nghệ . Sự tăng trưởng vừa qua chủ yếu là do đổi mới cơ chế , do hỗ trợ đầu tư nước ngoài và do đầu tư của các công trình lớn trước đây được huy động . Năng suất trong nông nghiệp chủ yếu là do tăng diện tích , tăng vụ do đổi mới cơ chế và luật đất đai kích thích người lao động làm việc có năng suất . Do thiếu sự đầu tư của khoa học - kỹ thuật nên sản phẩm nông nghiệp chất lượng thấp . Trong khi đó tốc độ tăng dân số vẫn chưa được kiềm chế nên thu nhập đầu người kể cả lương thực , thực phẩm thấp , làm cho tích luỹ nội bộ chậm . Năng suất và chất lượng sản phẩm trong công nghiệp cũng chưa có sản phẩm cạnh tranh . Các sản phẩm chủ yếu tăng trưởng vừa qua ở dạng khai thác tài nguyên như dầu thô , than , đất hiếm ...Thép và xi măg chất lượng thấp tiêu thụ nội địa chưa được người tiêu dùng yêu thích . Sản phẩm trong nước của ta ít , không cạnh tranh được với hàng nước ngoài và chưa có nhiều sản phẩm chế biến xuất đi các nước . Lĩnh vực dịch vụ hoạt động rất sôi động nhưng còn lộn xộn và nảy sinh nhiều mặt trái về xã hội . Việc mua bán , ăn uống , du lịch , khách sạn và cũng rất nhộn nhịp ở thành phố Hồ Chí Minh , Hà Nội và các thành phố khác , còn vùng nông thôn , miền núi do đường xá , phương tiện đi lại và sức mua kém nên chưa có gì đáng kể . Do thu nhập thấp nên tiết kiệm và đầu tư nội bộ thấp , chưa đủ độ để tạo đà cất cánh . Tỷ lệ mức tiết kiệm gần 20% GDP là thấp và quy mô lại nhỏ . Khó khăn hơn nữa là tổng mức tiết kiệm đó trong dân vẫn chưa huy động được vào đầu tư hoặc đầu tư chưa đúng hướng . Việc huy động nguồn tiết kiệm trong dân vào sản xuất kinh doanh đang bị cản trở . Hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh thấp , một bộ phận nguồn lực kể cả sử dụng cho sản xuất và tiêu dùng lãng phí . Hiện tại theo tính toán một đồng vốn Nhà nước tạo được 3,4 đồng doanh thu , tỷ xuất lợi nhuận trên vốn Nhà nước đạt 19,2% . Việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài còn gặp khó khăn nhiều mặt . Tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 khoảng 30% GDP đòi hỏi phải có nguồn đầu tư trực tiếp FDI và tài trợ từ nguồn ODA đều đặn để bù đắp sự thiếu hụt khoảng 6 -7% GDP do nguồn tiết kiệm trong nước còn ít . Khuôn khổ pháp lý và trình độ quản lý từ vĩ mô và vi mô theo cơ chế , thị trường còn nhiều bất cập , thiếu đồng bộ . Đặc biệt sự tương đồng luật pháp của ta với các nước trong kinh doanh còn cách xa nhau . Sự hiểu biết và thi hành luật pháp khó khăn , nhũng nhiễu . Thủ tục hành chính phiền hà làm ách tắc luật lệ , chính sách , cơ chế quản lý và gây ra những tiêu cực xã hội . Kết cấu hạ tầng còn quá lạc hậu . Mạng lưới giao thông vận tải , thông tin liên lạc chưa được mở mang , chất lượng lại thấp . Hiện hay chỉ có 12% đường bộ được đánh giá là đường tốt , gần 50% đướng sắt không đảm bảo kỹ thuật . Sân bay bến cảng chưa đáp ứng yêu cầu . Điện thoại bình quân 1000 dân mới có 1,8 máy , ngang hàng với những nước lạc hậu nhất trong khu vực . Mặc dầu kim ngạch xuất khẩu tăng đáng kể trong mấy năm qua , song nhìn chung quy mô của kinh tế đối ngoại còn nhỏ , hiệu quả còn thấp , chưa đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước . Tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức bùng nổ , điều đó vừa làm triệt tiêu mọi cố gắng và thành quả đạt được trong phát triển kinh tế , vừa làm gay gắt thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất gay gắt . Trình độ dân trí nói chung thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và so với nhiều nước khác trên thế giới . Chất lượng giáo dục và đào tạo còn chưa cao , cả nước còn khoảng 12% ( 8 triệu người ) mù chữ . ở nước ta , tính bình quân trong 1000 người dân mới có 2 sinh viên . Tay nghề đội nhũ lao động chưa cao , trong công nghiệp cấp bậc thợ bình quân chưa đạt 3,5/7 bậc . ở nông thôn , trong số 25 triệu lao động chỉ có 1,5 triệu có trình độ phổ thông trung học ; 0,67 triệu lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp và 0,25 triệu có trình độ cao đẳng , đại học và trên đại học . Trong thương nghiệp có gần 50% lao động chưa được học tập buôn bán . Sức dân với tư cách là yếu tố quan trọng trong nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đang có những dấu hiệu đáng lo ngại . Trong các tầng lớp nhân dân lao động còn nhiều người ăn chưa đủ no và thiếu dinh dưỡng . Bình quân mới đạt 1950 kilo calo/người /ngày . ở nông thôn , số liệu điều tra ở miền Bắc cho thấy mức tiêu dùng lương thực , thực phẩm bình quân đầu người/tháng tính bằng calo đều dưới mức nhu cầu tối thiểu : về lương thực đạt 93,1% ; thịt các loại 55,4% ; cá các loại 56% . Điều đáng lo ngại là có tới 36% số trẻ em ở nước ta đang bị suy dinh dưỡng . Công tác phòng chống và chữa bệnh cho nhân dân , nhất là miền núivà ở tuyến xã xuống cấp nghiêm trọng . Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho tỷ lệ trẻ em chết cao so với số trẻ sơ sinh ở vùng miền núi . Tình hình xã hội còn diễn biến phức tạp . Số người không có hoặc thiếu việc làm ngày càng gia tăng . ở thành thị 6-7% số người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm mà phần đông là thanh niên , ở nông thôn , thời gian lao động mới được sử dụng 60-70% , nếu quy đổi 30-40% còn lại thì có tới 8-9 triệu người thiếu việc làm . Sự phân tầng xã hội . phân hoá giàu nghèo diễn ra khá phổ biến và phức tạp ở cả thành thị và nông thôn . Nếu chia các dải phân tầng xã hội thành 5 nhóm đều nhau , mỗi nhóm bằng 20% dân số thì hệ số chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất ở nước ta năm 1994 là gần 7 lần . Chất lượng giáo dục đào tạo thấp so với yêu cầu . Mục tiêu , nội dung , chương trình , phương pháp dạy và học , sách giáo khoa , thi cử , cơ cấu đào tạo , trình độ quản lý có nhiều thiếu sót , trong giáo dục và đào tạo có nhiều hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại . Chi phí học tập cao hơn so với khả năng thu nhập của dân nhất là của người nghèo . Giáo dục và đào tạo ở vùng sâu , vùng sa còn nhiều khó khăn . Công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng . Phát luật và kỷ cương xã hội không nghiêm . Trật tự và an toàn xã hội chưa được bảo đảm , thậm chí có mặt còn xấu di , đạo đức bị xói mòn . Nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác nhau như lừa đảo , trốn thuế , lậu thuế , làm hàng giả , cá cược , số đề , mê tín , dị đoan ... đang phát triển . Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc . Sự phát triển của khoa học chưa thực sự gắn với những nhiệm vụ thực tiễn cuộc sống đặt ra , đồng thời nhiều phương hướng phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu , thậm chí không có nhiều dự án kinh tế - xã hội trở thành không hiện thực , ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ phát triển kinh tế , xã hội nói chung mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của khoa học , kỹ thuật nói riêng . Môi trường đô thị , nơi công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng . 2.1.4.Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học và sản xuất hiện đại, khoa học ngày càng có vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội . Có tình hình đó là vì trong điều kiện hiện nay khoa học ngày càng tác động mạnh mẽ , sâu sắc đến sự phát triển của kinh tế - xã hội . Khoa học không chỉ phát hiện ra những quy luật của hiện thực mà còn chỉ ra những con đường khả dĩ để vận dụng các quy luật ấy vào thực tiễn cuộc sống vì lợi ích con người . Trong lĩnh vực kinh tế ,có thể nói rằng , điều kiện khách quan cho sự liên kết giữa khoa học , kỹ thuật và sản xuất là khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Trong điều kiện hiện nay , sự liên kết giữa khoa học , kỹ thuật và sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với việc vận dụng có hiệu quả khoa học , kỹ thuật vào sản xuất . Điều đó là dễ hiểu bởi vì khoa học , tri thức khoa học là yếu tố chung có mặt trong mọi thành phần của lực lượng sản xuất . Sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật , việc vận dụng các thành tựu của khoa học vào đời sống một mặt có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển mọi thành của lực lượng sản xuất . Mặt khác , trong điều kiện hiện nay , khoa học là sản phẩm tinh thần của sự phát triển xã hội , ngày càng tam gia tích cực vào quá trình sản xuất . Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và của tiến bộ xã hội , khoa học ngày càng biểu thị dưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ quá trình biến khoa học từ lực lượng sản xuất tiềm năng thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Tuy nhiên cần phải thấy rằng khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp dựa trên những tiền đề nhất định . Những tiền đề đó là : 1. Sản xuất phải đạt được một mức độ phát triển nhất định . Trong điều kiện sản xuất thấp kém , mối liên hệ khoa học và thực tiễn chủ yếu đi theo con đường từ khoa học đến thực tiễn , nghĩa là người ta tìm cách chủ yếu vận dụng những thành tựu khoa học đã có vào sản xuất . ở trình độ này khoa học mới biểu thị như lực lượng tiềm năng chứ chưa thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp . ở trình độ cao chính sản xuất đã đặt ra những vấn đề phức tạp đòi hỏi khoa học phải giải quyết . Như vậy ở đây chính sự phát triển của sản xuất là điều kiện cần cho sự xuất hiện của những tri thức khoa học mới , những ngành khoa học mới . Khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động mà tham gia một cách tích cực vào quá trình sản xuất . Cũng chỉ khi đó mới có điều kiện để biến khoa học thành lực lượnng sản xuất trực tiếp . 2. Tương ứng với một mức độ phát triển nhất định của khoa học - ở mức khoa học phải đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra . Chúng ta thấy rằng không thể giải quyết những vấn đề của sản xuất hiện đại chỉ trong phạm vi của một khoa học nào đó mà cần phải có sự tham gia của nhiều ngành khoa học . Vì vậy sự tương tác giữa các khoa học , sự liên kết giữa chúng tạo ra khuynh hướng tổng hợp tri thức của khoa học hiện đại là điều kiện để biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Rõ ràng việc khắc phục những khó khăn trong quá trình sản xuất gắn liền với quá trình làm sâu sắc thêm tri thức về các quá trình diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội . Điều đó đòi hỏi phải có sự phát triển cao , nhịp nhàng của mọi khoa học , cũng như của bản thân khoa học như một chỉnh thể duy nhất . 3. Và cuối cùng phải thấy rằng cơ sở khách quan của sự liên kết như vậy phải dựa trên một nguyên lý cơ bản đó là nguyên lý về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn . Sự hiển nhiên của nguyên lý này , theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng , quy định sự thống nhất của hai loại hoạt động của con người - hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận . Trong bình diện sản xuất vật chất thì đó là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất và hoạt động khoa học . Việc sử dụng những thành tựu của khoa học vào sản xuất là một trong những con đường cơ bản để đẩy mạnh sản xuất , nâng cao hiệu quả của lao động . Chiến lược phát triển mạnh mẽ sản xuất phụ thuộc một cách nghiêm ngặt vào quá trình tăng tốc và tối ưu hoá những tìm kiếm khoa học , đồng thời nó cũng quy định quá trình này . Từ đó ta thấy rằng sự liên kết khoa học và sản xuất là một tất yếu quyết định sự phát triển của cả khoa học , cả sản xuất và suy cho cùng là điều cần thiết để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội . Trong lĩnh vực công nghiệp , hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 1996-2000 đã cố gắng bám sát mực tiêu sản xuất , giải quyết các khó khăn , giúp đỡ các cơ sở nâng cao năng suất , chất lượng sản phẩm , đạt được nhiều kết quả phục vụ thiết thực cho phát triển các ngành sản xuất công nghiệp , phục vụ phát triển công nghiệp địa phương , phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn , phục vụ sản xuất kinh doanh của cá doanh nghiệp vừa và nhỏ . nhiều vấn đề mang tính định hướng , liên quan đến các lĩnh vực công nghệ cao , định hướng công nghệ ưu tiên phát triển đã được các tổ chức khoa học - công nghệ trong ngành công nghiệp nghiên cứu có kết quả , làm cơ sở cho việc hoạch định các quy hoạch phát triển kinh tế ngành , xây dựng chiến lược khoa học - công nghệ đến năm 2010 và lộ trình công nghệ đến 2005 của ngành công nghiệp . Nhiều kết quả nghiên cứu của ngành công nghiệp đã cung cấp luận cứ khoa học cho các quyết định của bộ hoặc đề nghị Nhà nước ban hành chế độ , cơ chế chính sách phù hợp với các giai đoạn phát triển . Các tổ chức khoa học - công nghệ trong ngành đã nghiên cứu có kết quả việc sử dụng hợp lý , tiết kiệm tài nguyên , năn lượng , cải thiện môi trường , phát triển nguồn nguyên liệu trong nước thay thế nguyên liệu nhập ngoại , xây dựng chỉ tiêuu , đổi mới áp dụng công nghệ hiện đại , chế tạo các thiết bị , dây truyền thiết bị phục vụ sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao . Các kết quả nghiên cứu của ngành công nghiệp đã tạo ra những sản phẩm hàng hoá phục vụ sản xuất công nghiệp , nông nghiệp , ngành xây dựng và giao thông vận tải . Nhiều sản phẩm được dùng trong ngành quốc phòng , có sản phẩm được sử dụng ở các xí nghiệp liên doanh , một số sản phẩm được xuất khẩu hoặc được thị trường chấp nhận thay thế hàng nhập khẩu . Từ các kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ đã đưa vào áp dụng hàng trăm quy trình công nghệ , tạo ra nhiều hàng hoá , phục vụ sản xuất và đời sống . Trong hoạt động khoa học - công nghệ đã chú trọng phát huy hiệu quả phối hợp giữa các tổ chức khoa học - công nghệ với các lực lượng khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp , các cơ quan quản lý nhà nước , tạo mạng lưới khoa học - công nghệ sâu rộng ; thực hiện thí điểm thành công các mô hình doang nghiệp Nhà nước trong các cơ sở nghiên cứu , mô hình gắn nghiên cứu với khoa học - công nghệ , với sản xuất kinh doanh của ngành và đang được Chính phủ cho thí điểm mô hình viện nghiên cứu với các công ty , " viện - doanh nghiệp ", " doanh nghiệp - viện " phát huy sự phối hợp giữa các tổ chức khoa học - công nghệ trong nước với các cơ quan khoa học - công nghệ nước ngoài , các tổ chức quốc tế để nghiên cứu khoa học hoặc chuyển giao công nghệ . NgoàI việc thực hiện cá nhiệm vụ khoa học - công nghệ được giao , các tổ chức khao học - công nghệ đẩy mạnh sản xuất thử nghiệm các sản phẩm mới do kết quả nghiên cứu tạo ra , đã thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn dịch vụ khoa học - công nghệ , chuyển giao công nghệ , sản xuất máy móc thiết bị , trực tiếp phục vụ sản xuất và đời sống . Nhờ vào việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp mà nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm đạt 13,5% trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 9,55 , công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5% , khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8% . Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đã có chuyển dịch đáng kể , hình thành một số sản phẩm mũi nhọn , một số khu công nghiệp , khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ hiện đại . Trong lĩnh vực nông nghiệp , ngành nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn , góp phần chuyển nhanh sang sản xuất hàng hóa giản , đưa nông sản thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực , đạt tỷ trọng cao , đời sống nông dân được cải thiện đáng kể . Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm là 5,6% hiện nay Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới , xuất khẩu cà phê đứng thứ 3 thế giới . Vấn đề an ninh lương thực của đất nước được đảm bảo . Đạt được kết quả trên là nhờ vào việc thực hiện các chính sách đổi mới về phát triển nông nghiệp và nông thôn , đẩy mạnh đầu tư , nhưng bên cạnh đó việc ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các khâu lai tạo giống cây trồng , kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh , thuỷ lợi , nuôi trồng , chế biến nông sản , tiếp thu các công nghệ giống lúa lai và giống lúa cao sản mới , triển khai kỹ thuật nuôi cấy mô . Với sự nỗ lực của các nhà khoa học , nhiều biện pháp đã được triển khai kịp thời trong sản xuất . Các giống cây trồng , vật nuôi đang có trong cơ cấu sản xuất hiện nay phần lớn là do kết quả của khoa học - công nghệ mang lại , một pjầndo các nhà khoa học tự tạo ra , một phần do cảI tiến giống nhập ngoạI . Việc áp dụng các giống cây lương thực , cây thực phẩm mới vào sản xuất đã làm tăng năng suất từ 15-20% góp phần nâng cao sả lượng lương trong cả nước đạt trên 31 triệu tấn , đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu từ 3-4 triệu tấn gạo / năm . giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ 13,5 triệu đồng / ha năm 1995 lên 17,5 triệu đồng năm 2000 . 1997 1998 1999 2000 (ước tính ) Sản lượng lương thực quy ra thóc ( triệu tấn ) 30,6 31,9 34,3 35,7 Sản lượng gạo xuất khẩu ( triệu tấn ) 3,6 3,7 4,5 3,5 Kim ngạch xuất khẩu gạo ( triệu USD ) 899 ~900 ~1000 ~616 Trong lĩnh vực trồng trọt , chúng ta đã đẩy mạnh việc áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật , thử nghiệm và ứng dụng nhanh các giống cây trồng có năng suất và chất lượng cao phù hợp điều kiện sinh thái của từng địa phương . Chú ý lai tạo các giống lúa có năng suất , chất lượng cao , chống chịu sâu bệnh , chịu hạn . Các giống ngô lai năng suất cao , các giống cây lương thực , cây thực phẩm , cây công nghiệp có giá trị . Nhờ liên tục áp dụng các giống cây lương thực mới cho năng suất cao nên trong giai đoạn 1996 - 2000 sản lượng lương thực của nước ta tăng trung bình 1,2 triệu tấn / năm . Bình quân lương thực đầu người tăng trung bình 1,2 triệu tấn / năm . Bình quân lương thực đầu người tăng từ 370 kg năm 1995 lên 435 kg năm 2000 . Các cây trồng khác cũng tăng với tốc độ nhanh chóng : diện tích cà phê tăng hơn 2 lần , cao su tăng 43% , mía tăng 33% , bông tăng 30% . Về chăn nuôi , trong thời gian qua , do tích cực đẩy mạnh việc ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới về di truyền , khai thác có hiệu quả nguồn gen quý của vật nuôi , lai tạo các giống ngoại nhập , đã chọn tạo ra được 12 giống vật nuôi có năng suất cao phù hợp với đIều kiện Việt Nam , góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi , đạt trung bình 3,5 - 5% / năm . Các kết quả nghiên cứu về chăn nuôi đã mở ra một triển vọng lớn chăn nuôi gia cầm và thuỷ cầm tại các hộ gia đình , tạo nguồn thu nhập lớn cho nông dân . Đã đưa vào áp dụng công nghệ cấy truyền phôi để đàn bò giống hạt nhân và bò lai hướng sữa , xây dựng đàn bò cái hạt nhân hướng sữa cho năng suất cao , đạt 3400 - 4000 lít / chu kỳ , cao cấp 1,5 lần giống bò sữa thường , có con cho sữa cao nhất tới 6592 lít / chu kỳ , khảo nghiệm thành công các công thức lai 2-3 máu giữa lợn ngoại ( ĐạI Bạch , Landrace ) với lợn nội ( Móng CáI ) . Các công thức lai với tỷ lệ máu lợn ngoại 1/2 , 3/4 , 7/8 cho tỷ lệ nạc tương ứng là 39-43% , 44-47% , 49-52% ; hoàn chỉnh công nghệ nuôi lợn lai với các quy mô khác nhau có thể ứng dụng trong nông hộ , ứng dụng chương trình phần mềm máy tính PIGBLUP , PIG - TALES và PIGCHAMP trong đánh giá giá trị và quản lý giống lợn . Công tác bảo tồn nguồn gen được quan tâm duy trì và đẩy mạnh . Về thuỷ lợi , trong giai đoạn 1996 - 2000 các tổ chức khoa học - công nghệ trong ngành thuỷ lợi đã có sự gắn kết , đầu tư nghiên cứu với các cơ sở địa phương , đã nghiên cứu thành công và đưa vào áp dụng nhiều thiết bị phục vụ tưới tiêu và canh tác . Đã xây dựng một số mô hình tính toán lũ các hệ thống sông lớn Việt Nam .Đã nghiên cứu các giảI pháp chống sa mạc hoá vùng ven biển miền Trung , lên phương án kiểm soát lũ ở Đồng Tháp Mười , nghiên cứu thoát lũ và biện pháp tăng cường khả năngg thoát lũ bảo vệ đê điều ở đồng bằng sông Hồng ... Trong lĩnh vực lâm nghiệp , trong giai đoạn 1996 - 2000 công tác trồng rừng , chăm sóc và bảo vệ rừng đã đạt được nhiều tiến bộ , nhiều triệu cây con đã được tạo ra để trồng rừng . Kết quả trong 5 năm đã trồng được 1,1 triệu ha rừng tập trung , bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có , khoanh nuôi tái sinh 700 nghìn ha . 1997 1998 1999 2000 Giá trị sản xuất lâm nghiệp ( tỷ đồng ) 5447,8 5257,4 5624,2 5652,5 Sản lượng khai thác gỗ ( nghìn m3) 2480,0 2216,8 2122,5 2570,6 tổng diện tích rừng tập trung ( nghìn ha ) 221,8 208,6 230,1 196,4 Tổng diện tích và đọ che phủ rừng cả nước đã tăng lên đáng kể : _Năm 1995 : 9 302 200 ha , chiếm 28,3% độ che phủ . _Năm 2000 : 10 915 592 ha , chiếm 33,2% độ che phủ . Trong giai đoạn này , đã chuyển giao nhiều biện pháp kỹ thuật , quy trình vào sản xuất như : quy trình khôi phục , chăm sóc làm giàu rừng , quy trình trồng rừng thâm canh phục vụ nguyên liệu giấy đưa năng suất từ 8 - 10 m3/ha/năm lên 18 - 20 m3/ha/năm ở 5 tỉnh miền núi phía Bắc ; quy trình trồng bạch đàn ; quy trồng phi lao ; quy trình ươm thông nhựa và trồng thành công thông nhựa trên các vùng đất khô cằn và kỹ thuật trích thông nhựa ; kết quả nhân giống luồng bằng cành không sử dụng kích thích tố . Xây dựng và áp dụng quy trình kỹ thuật khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên , thử nghiệm trồng rừng bằng gieo bay trên quy mô lớn ở những vùng có điều kiện khó khăn ; nghiện cứu và đưa vào sản xuất thử kỹ thuật khai thác rừngtrồng bằng cơ giới , sản xuất máy băm dăm di động phục vụ thu gom nguyên liệu trong trồng cây phân tán . Đã đạt được những thành tựu bước đầu trong việc sử dụng cót ép thay gỗ dán và gỗ xẻ , sử dụng cọng dừa nước để thay ván ép ... ; đã nghiên cứu và đưa vào sản xuất 11 loại thuốc bảo quản lâm sản được công nhận để diệt trừ mối mọt , bảo quản gỗ và đồ gỗ , thuốc chống hà cho tàu thuyền , kéo dài tuổi thọ của gỗ lên 3-5 lần . Trong lĩnh vực ngư nghiệp , về khai thác thuỷ sản hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này đã đạt được một số thành tựu đáng kể , như : xây dựng Atlas ngư cụ Việt Nam , xác định các ngành nghề có năng suất cao phù hợp với cỡ loại tàu khai thác hải sản xa bờ , đã khảo sát , thiết kế và thi công các mẫu lưới kéo đôi cho tàu 200 và 300 CV ; đã tiến hành thiết kế 3 loại lưới rê mực , đã ứng dụng thành công chà di động cho nghề vây khai thác thuỷ sản . Về nuôi trồng thuỷ sản , đã nghiên cứu thành công mô hình nuôi tôm sú năng suất cao ( 1,5 - 2,5 tấn / ha ) ít thay nước , các mô hình nuôi cá + lúa có năng suất lúa 4,5 - 5 tấn và năng suất cá 1-1,3 tấn/ha/năm , áp dụng rộng rãi quy trình sản xuất giống tôm sú , tôm rảo , tôm càng xanh , cung cấp tôm giống chủ động cho việc nuôi tôm thương phẩm . Nghiên cứu thành công và áp dụng rộng rãi công nghệ sản xuất giống cá ba sa nhân tạo , thay thế hoàn toàn và không phụ thuộc vào việc phải nhập cá giống từ Campuchia , hạ giá thành cá giống , chủ động trong việc trong sản xuất , góp phần mang tính quyết định trong việc khôi phục và phát triển nghề nuôi cá bè . Đã đạt được kết quả bước đầu trong nghiên cứu sản xuất giống thuỷ sản biển ( cá giò , cá song ) và cá nước ngọt ( cá chép lai , rô phi đơn tính , trê lai , cá bống , cá tra ...) ; đã sản xuất được giống cua biển , ghẹ , ốc hương , sò huyết , trai ngọc ...; đã đạt được kết quả nuôi vi tảo , luân trùng , artemia thu bào xác và sản xuất thức ăn công nghiệp cho tôm , cá . Về chế biến thuỷ sản , đã áp dụng chương trình quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm theo hệ thống HACCP . Công nghệ chế biến một số sản phẩm từ cá tạp , công nghệ chế biến nước mắm ngắn ngày sử dụng enzim có nguồn gốc vi sinh và thực vật 1997 1998 1999 2000 Giá trị sản xuất thuỷ sản ( theo giá so sánh năm 1994 , tỷ đồng ) 16344,2 16344,2 18252,7 20198,3 Tổng sản lượng thuỷ sản ( nghìn tấn ) 1730,4 1730,4 2006,8 2148,9 Diện tích mặt nước nuôI trồng thuỷ sản ( nghìn ha ) 498,7 504,1 524,6 535,0 Trong lĩnh vực y - dược , trong giai đoạn 1996 - 2000 các đề dự án nghiên cứu khoa học - công nghệ đã thực sự đóng một vị trí đòn bẩy then chốt và là động lực để phát triển khoa học - công nghệ trong ngành y tế và đóng góp đáng kể vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân . Các đề tài khoa học - công nghệ cấp nhà nước tập trung hướng nghiện cứu vào các lĩnh vực như : dị ứng thuốc , sức khỏe sinh sản của phụ nữ tuổi mãn kinh ; quy trình sản xuất và chuẩn hoá các sản phẩm từ huyết tương ; giải pháp phòng chống sốt rét ở một số vùng kinh tế như thuỷ điện , cao su , dâu tằm tơ , nuôi tôm nước lợ và vùng sâu , vùng sa ; xây dựng tiêu chuẩn bụi môi trường , chuẩn đoán phòng chống bụi phổi silic ; nghiên cứu mô hình sản xuất tại chỗ và cung cấp thuốc thiết yếu từ nguồn dược liệu phục vụ cộng đồng ở miền núi ; chuyển giao công nghệ sản xuất văcxin sởi tại Việt Nam . Các đề tài nghiên cứu đã đi sâu vào các nghiên cứu ở mức phân tử , nghiên cứu về gen , về miễn dịch , men nhằm tìm hiểu sâu về quá trình bệnh lý , cơ chế sinh bệnh , cơ chế tác dụng của thuốc . Trong giai đoạn này , ngành y tế đã đạt được một số kết quả như sau : _Thu nhập gần 10 000 chủng vi sinh vật , trong đó cố 9 797 chủng trong nước . _Nghiên cứu khai thác chủng , mã hoá thông tin các chủng đang lưu giữ , thăm dò chuẩn bị khai thác chủng ở Việt Bắc . _Mở thêm hai cơ sở bảo tồn lưu giữ gen và giống cây thuốc ở miền Nam , nâng tổng số mạng lưới lên 12 cơ quan đơn vị . _Có khoảng 80/250 loài cây thuốc quý hiếm được bảo tồn . _86 loài / chủng đã được bảo quản hạt trong kho lạnh . Nhờ có những kết quả của khoa học - công nghệ cùng với những nỗ lực vượt bậc của ngành y tế nên trong 5 năm qua nước ta đã khôn xảy ra bất kì vụ dịch lớn nào , kể cả ở những vùng bão lụt . Việt Nam đã được công nhận là nước thanh toán bại liệt , tỷ lệ sốt rét mới mắc giảm dần , tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính giảm , không để xảy ra những vụ dịch lớn trong cả nước . Các kỹ thuật và công nghệ chuẩn đoán , điều trị , cũng như dự phòng đã được đổimới , nâng cấp và hiện đại hoá đáng kể . Việt Nam đã tự cung cấp được những sản phẩm thuốc thiết yếu cho xã hội , phục vụ sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng , đặc biệt là đồng bào ở các vùng sâu , vùng sa , vung núi những vùng gặp khó khăn do thiên tai , lũ lụt . Đã sản xuất được 7/10 loại văcxin , 5 loại đáp ứng cho các chương trình tiêm chủng mở rộng , làm lợi cho Nhà nước hàng chục tỷ đồng mỗi năm . Trình độ công nghệ , trình độ sản xuất ngày càng được nâng cao , một số loại văcxin có khả năng xuất khẩu , đã thanh toán 3 năm liền không có một ca bại liệt đã được quốc tế công nhận . Tính đến cuối năm 2000 , trên 40% số trạm y tế có bác sĩ , trên 80% số thôn bản có nhân viên y tế hoạt động , 95% số xã , phường trong cả nước đã xây dựng được trạm y tế , được cung cấp trang thiết cơ bản và xây dựng được quỹ thuốc thiết yếu . Việc áp dụng kỹ thuật tiến bộ và ứng dụng các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực y học đã nâng cao được chất lượng khám chữa bệnh và dự phòng , từng bước tiếp cận với các kỹ thuật và công nghệ tương ứng của các nước trong khu vực , góp phần đáng kể vào mục tiêu phát triển ngành y tế . 1997 1998 1999 2000 Tử vong trẻ em dưới 1 tuổi / 1000 em 39,0 38,0 36,7 35 Tử vong trẻ em dưới 5 tuổi / 1000 em 48,5 45,2 42,0 42,0 Tỷ lệ sy sinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ( % ) 40,6 38,0 36,7 34 Trong lĩnh vực sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường , các đề tài nghiên cứu khoa học - công nghệ cấp nhà nước tập trung vào 3 nhiệm vụ lớn : _Nghiên cứu nguyên nhân và giải pháp ngăn ngừa sa mạc hoá . _Nghiên cứu biến động môi trường liên quan đến quy hoạch phát triển ngiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở đồng bằng sông Cửu Long , đồng bằng sông Hồng , vùng Hạ Long - Quảng Ninh và vùng Tây Nguyên . _Dự báo diễn biến môi trường phát sinh do công trình thuỷ điện Sơn La . _Đưa ra các biện pháp nhằm khai thác tài nguyên một cách có hiệu quả , chống lãng phí . Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ , nhà nước ta đã sớm chăm lo đào tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật tương đối đông đảo , đã bước đầu hình thành mạng lưới các cơ quan nghiên cứu và tạo những tiền đề ban đầu cho việc đẩy nhanh nhịp độ phát triển công nghệ trong giai đoạn tiếp theo . Lực lượng khoa học và kỹ thuật đã chứng minh trong thực tế khả năng đáng khích lệ trong lĩnh vực thi công , lắp đặt máy móc , vận hành thiết bị công nghệ sản xuất trong những điều kiện thiếu thốn nhiều mặt ở nước ta . Nhiều kết quả nghiên cứu trong nước đã được áp dụng trong thực tế và đã đưa lại những kết quả bước đầu , nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp ... Các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội đã góp phần xây dựng căn cứ khoa học cho cá chủ trương và biện pháp đổi mới quản lý , phát triển kinh tế - xã hội , xác định hệ quan đIểm , hoạch định các chính sách . Nhờ đó các chính sách được hoạch định đã có tính khoa học , sát thực tiễn , khả thi và có hiệu quả rõ rệt hơn . Khoa học xã hội đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật . Trên cơ sở luận cứ do khoa học xã hội cung cấp , nhiều bộ luật , pháp lệnh , nghị định , quyết định ...được ban hành hoặc sửa đổi . Hoạt động khoa học xã hội đã có những đóng góp ta lớn cho việc xây dựng cá luận cứ khoa học phục vụ yêu cầu hoạch định chiến lược , quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và đổi mứoi các cơ chế chính sách , đã tạo nên thế ổn định và phát triển về chính trị và kinh tế đất nước . Hoạt động nghiên cứu khoa học tự nhiên tại các trường đại học , viện nghiên cứu thuộc các bộ , ngành đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc giải quyết những vấn đề làm cơ sở cho nghiên cứu ứng dụng , điều tra điều kiện tự nhiên , sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý và bảo vệ môi trường , góp phần tạo luận cứ cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội , đã nghiên cứu một số công nghệ cơ bản tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và tiến tới làm chủ các công nghệ thuộc các lĩnh vực khoa học - công nghệ mũi nhọn như : lĩnh vực tin học , công nghiệp phần mềm , kết cấu công trình , tạo giống cây trồng vật nuôi mới ... Trong lĩnh vực xã hội khác , tính năng động và chủ động xã hội của mọi người , mọi gia đình được phát huy , đời sống của đa số nhân dân được cải thiện một bước . Đầu tư của Nhà nước cho việc thực hiện các chính sách xã hội dần dần được gia tăng . Việc giải quyết một số vấn đề xã hội như công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình , tạo việc làm , đền ơn đáp nghĩa với người có công với nước , chú trọng xoá đói giảm nghèo ... đã có những chuyển biến tích cực . Giữa năm 1996 khi phân tích thành tựu của các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực phát triển con người , liên hợp quốc đã xếp Việt Nam vào nhóm nước trung bình với chỉ số HDI là 0,540 , năm 1999 xếp thứ 110/174 , năm 2000 xếp thứ 108/174 với chỉ số HDI là 0,671 , năm 2001 xếp thứ 101/164 . Điều đó cho thấy mặc dù cóGDP bình quân đầu người thấp nhưng nhờ quan tâm đến việc thực hiện các chính sách xã hội , Việt Nam được đánh giá là nước có năng lực tốt hơn trong xoá đói giảm nghèo . Về giáo dục - đào tạo, Nhà nước dành rất nhiều ngân sách để đào tạo đội nhũ nhân tài cho đất nước , áp dụng những thành tựu tiên tiến mới nhất trong công tác giảng dạy , nhất là trong các trường đại học , viện nghiên cứu . 2.1.5. Các biện pháp nhằm vận dụng tri thức khoa học vào công cuộc phát triển nền kinh tế - xã hội nước ta . Do nguồn lực hạn chế , nền kinh tế quốc dân không đủ súc ngay một lúc đầu tư công nghệ tiên tiến cho nhiều lĩnh vực , mà chỉ có thể đầu tư có chọn lọc , có trọng điểm . Phải xem xét các tiêu chuẩn sau đây: _Đảm bảo yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ đáp ứng đòi hỏi của thị trường quốc tế và đẩy lùi hàng ngoại trên thị trường trong nước . _Có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động của nhiều ngành kinh tế quốc dân . _Đảm bảo yêu cầu tương hợp với quốc tế . _Thúc đẩu việc hình thành một số ngành có hàm lượng công nghệ cao đẻ chuẩn bị cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn phát triển tiếp theo . Cần mạnh dạn thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ có chọn lọc , kết hợp hữu cơ giữa nhập công nghệ từ nước ngoài và đẩy mạnh nghiên cứu trong nước , cần chú ý một số phương diện sau : _Trước hết do thế giới đang ở giai đoạn chuyển vùng công nghệ , nên các nước phát triển đi trước đang muốn chuyển giao nguyên liệu gây ô nhiễm . Bởi vậy khi quyết định chủ trương nhạp công nghệ cần xem xét một cách đầy đủ không nên chỉ thuần tuý cân nhắc cá khía cạnh kinh tế . _Lựa chọn những công nghệ phù hợp với hoàn cảnh của nước ta . Trong giai đoạn trước mắt cần thực hiện cơ cấu công nghệ nhiều trình độ , nhiều quy mô , coi trọng quy mô nhỏ và vừa , kết hợp hài hoà công nghệ vật liệu , công nghệ thiết bị , công nghệ sản phẩm và công nghệ quản lý với tinh thần cơ bản là tranh thủ mọi khả năng đi thẳng vào những thế hệ công nghệ tiên tiến phù hợp . Đảm bảo cơ sở hạ tầng cho khoa hcọ và công nghệ . Muốn đẩy nhanh nhịp độ phát triển và đổi mới công nghệ , không thể không phát triển với hệ số vượt trước hợp lý cơ sở hạ tầng cho khoa học và công nghệ . Tăng cường vai trò định hướng điều tiết của nhà nước ở tầm quản lý vĩ mô , thực hiện mở rộng quyền chủ động của các đơn vị khoa học - công nghệ cơ sở và của những người làm công tác khoa học -công nghệ ở tầm quản lý vĩ mô . Nên lựa chọn ra những hướng , những vấn đề nghiên cứu có khả năng đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn cho đất nước trên cơ sở vận dụng cao nhất các thành tựu khoa học - công nghệ làm đối tượng lựa chọn ưu tiên .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK4655.DOC
Tài liệu liên quan