Tiểu luận Vấn đề trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tài liệu Tiểu luận Vấn đề trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển t bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nớc ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hướng XHCN B. PHẦN NỘI DUNG PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN T BẢN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA T BẢN. 1. Quan điểm của Mác - Lênin về tuần hoàn của t bản. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, t bản luôn luôn vận động và trong quá trình vận động, nó lớn lên không ngừng. Để đạt đợc hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà t bản không đợc để t bản nhàn rỗi, mà phải sử dụng triệt để dới nhiều hình thức, chức năng khác nhau. T bản phải đợc tuần hoàn và c...

pdf24 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Vấn đề trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển t bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nớc ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hướng XHCN B. PHẦN NỘI DUNG PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN T BẢN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA T BẢN. 1. Quan điểm của Mác - Lênin về tuần hoàn của t bản. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, t bản luôn luôn vận động và trong quá trình vận động, nó lớn lên không ngừng. Để đạt đợc hiệu quả sản xuất kinh doanh nhà t bản không đợc để t bản nhàn rỗi, mà phải sử dụng triệt để dới nhiều hình thức, chức năng khác nhau. T bản phải đợc tuần hoàn và chu chuyển liên tục, hợp lý để kết quả sản xuất kinh doanh thu đợc lợng t bản lớn hơn lợng đầu t ban đầu. Theo Mác - Lênin thì: “Tuần hoàn của t bản là sự biến chuyển liên tiếp của t bản qua ba giai đoạn, trải qua ba hình thức, thực hiện ba chức năng tơng ứng, để trở về hình thái ban đầu với lợng giá trị lớn hơn”(1). 2. Ba hình thức tuần hoàn của t bản. 2.1. Tuần hoàn của t bản tiền tệ. Công thức chung của tuần hoàn của t bản tiền tệ: T - H...SX... H’ - T’ Giai đoạn đầu T - H tức là nhà t bản dùng t bản tiền tệ ứng ra ban đầu để mua hàng hoá ở trên hai thị trờng đó là thị trờng sức lao động và thị trờng t liệu sản xuất (đó là những nhân tố của sản xuất). Slđ (sức lao động) T - H TLSX(t liệu sản xuất) Nh vậy tiền của nhà t bản phải chia làm hai phần theo tỷ lệ thích hợp: Một phần mua sức lao động, một phần mua t liệu sản xuất. Sau khi mua đợc hàng hoá (Slđ - TLSX) thì t bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ mà mang hình thức hiện vật. Với hình thức hiện vật đó nó không thể tiếp tục lu thông đợc. Nhà t bản phải đa hàng hoá vào trong quá trình sản xuất, để tạo ra hàng hoá cung cấp cho thị trờng thì toàn bộ công nhân phải tham gia vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Kết quả là nhà t bản có đợc một số hàng hoá mới mà giá trị của chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố đã dùng để sản xuất ra số hàng hoá đó. Hàng hoá này (H’) có thể cạnh tranh đợc ở trên thị trờng, đáp ứng đợc nhu cầu của ngời tiêu dùng tức là có giá trị sử dụng cao. Nhà sản xuất mang hàng hoá (H’) đó ra thị trờng để bán nhằm thu về đợc vốn và lợi nhuận tức là T’ - T’ là hình thái chuyển hoá của H’, sự chuyển hoá này đợc thực hiện là do một hành vi đơn giản của lu thông hàng hoá, do sự đổi chỗ giữa hình thức hàng hoá và tiền, hình thái lặp lại ở điểm kết thúc là hình thái bị gây nên, nhng xét về mặt lợng phải lớn hơn hình thái ban đầu. Sau một chu kỳ sản xuất nhà t bản thu về cả vốn lẫn lãi từ T’ một phần trả lơng cho công nhân, một phần dự trữ để tiếp tục đầu t sản xuất. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại, tuần hoàn một cách liên tục và hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận thu về ngày càng tăng nó đợc quy định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái của bản thân tuần hoàn. 2.2. Tuần hoàn của t bản sản xuất. Công thức chung của tuần hoàn của t bản sản xuất là: SX... H’ - T’ - H... SX Tuần hoàn này nói lên sự hoạt động lắp đi lắp lại một cách chu kỳ của t bản sản xuất, hay quá trình sản xuất của t bản, coi là quá trình sản xuất gắn liền với việc tăng thêm giá trị, nó không những nói lên việc sản xuất mà còn nói lên việc tái sản xuất một cách chu kỳ giá trị thặng d nữa, nó nói lên hoạt động của t bản công nghiệp đang nằm dới hình thái sản xuất của nó, hoạt động không phải chỉ có một lần, mà là lắp đi lắp lại một cách chu kỳ, thành thử sự lắp đi lắp lại đã do chính điểm xuất phát quy định rồi có thể là một bộ phận của H’ lại trực tiếp gia nhập làm t liệu sản xuất trong quá trình lao động đã sản xuất ra nó làm hàng hoá; do đó việc chuyển hoá giá trị của bộ phận jđó thành tiền hiện thực, hay thành ký hiệu tiền tệ trở thành thừa. Bộ phận giá trị ấy không đi vào lu thông. Vậy là có những giá trị gia nhập quá trình sản xuất mà không gia nhập quá trình lu thông. Trong hình thái T - T’ quá trình sản xuất, tức là chức năng sản xuất, sản xuất làm gián đoạn lu thông của t bản tiền tệ và chỉ xuất hiện thành kẻ môi giới giữa hai giai đoạn của lu thông là T - H và H’ - T’ và là khâu trung gian giữa t bản sản xuất mở đầu cuộc tuần hoàn với t cách là cực thứ nhất, và t bản sản xuất kết thúc tuần hoàn đó với t cách là cực cuối dới một hình thái mà tuần hoàn đó mở đầu trở lại sự vận động. Mặt khác toàn bộ lu thông biểu hiện ra dới hình thái ngợc lại với hình thái mà nó mang tròn tuần hoàn của t bản tiền tệ.Nến không nói đến đại lợng giá trị thì hình thái của nó trong tuần hoàn của t bản tiền tệ là: T - H - T (T - H . H - T); nếu nói đến đại dợng giá trị thì hình thái của nó là: H - T - H tức là hình thái lu thông giản đơn của hàng hoá. Tái sản xuất giản đơn. Điểm xuất phát của lu thông giữa hai cực Sx....Sx là t bản - hàng hoá: H’ = H + h = Sx + h. Trớc kia chức năng của t bản hàng hoá H’ - T’ là giai đoạn thứ hai của lu thông bị gián đoạn và là giai đoạn kết thúc của tổng tuần hoàn. Bây giờ nó là giai đoạn thứ hai của tuần hoàn nhng lại là giai đoạn thứ nhất của lu thông. Tuần hoàn thứ nhất kết thúc bằng T’ và cũng có thể trở lại mở đầu tuần hoàn thứ hai với t cách là t bản - tiền tệ. Tính chất của tuần hoàn thay đổi các cách giải quyết để biết đợc công thức mà ta đang xét đại biểu cho tái sản xuất giản đơn hay mở rộng. Nếu xét tái giản đơn của t bản sản xuất, nếu mọi tình hình khác không thay đổi và hàng hoá đợc mua vào và bán ra theo đúng giá trị của chúng thì toàn bộ giá trị thặng d sẽ đi vào tiêu dùng cá nhân của nhà t bản. Sau khi t bản - hàng hoá H’ đã chuyển hoá thành tiền, thì bộ phận của tổng số tiền đại biểu cho giá trị - t bản vẫn tiếp lu thông trong tuần hoàn của t bản công nghiệp; còn bộ phận kia, tức giá trị thặng d đã chuyển hoá thành tiền, thì đi vào lu thông chung của hàng hoá. Trong hành vi H’- T’ giá trị t bản và giá trị thặng d nằm trong H, cả hai đều có thể tồn tại tách riêng ra đợc, tức là tồn tại thành những số tiền riêng biệt; trong cả hai trờng hợp T và t đều là hình thái chuyển hoá của cái giá trị mà lúc đầu, ở H’ với t cách là giá cả hàng hoá, có một biểu hiện riêng của nó, một biểu hiện trên ý niệm mà thôi. Lu thông h - t - h là một lu thông giản đơn của hàng hoá; giai đoạn thứ nhất của lu thông này tức là h - t thì nằm trong lu thông của t bản - hàng hoá H’ - T’, do đó nằm trong trong tuần hoàn của t bản; ngợc lại đoạn bổ sung của nó t - h thì lại nằm ngoài tuần hoàn ấy, đợc thực hiện với t cách là một hành vi lu thông chung của hàng hoá tách rời khỏi tuần hoàn âý. Lu thông H và h tức là của giá tri t bản và của giá trị thặng d, sẽ tách đôi ra sau khi H’ chuyển hoá thành T’. Do đó: Một là: sau khi t bản - hàng hoá đợc thực hiện bằng hành vi H’ - T’ = H’ (T +t) thì vận động của giá trị - t bản và vận động giá trị thặng d trớc đó vẫn là một trong H’ - T’ và đều nằm trong cùng một lợng hàng hoá, sẽ có thể tách rời nhau ra, vì từ nay trở đi cả hai giá trị đó, với t cách là hai món tiền, đều có hình thái độc lập. Hai là: Nếu sự tách rời ấy diễn ra, hơn nữa nếu t bị tiêu đi với t cách là thu nhập của nhà t bản, còn T với t cách là hình thái chức năng của giá trị t bản, vẫn tiếp tục đi theo con đờng của nó do tuần hoàn quy định, thì hành vi thứ nhất H’ - T’ xét trong mối liên hệ của nó với các hành vi kế tiếp là T - H và t - h, có thể biểu hiện thành hai lu thông riêng biệt: H - T - H và h - t - h, và cả hai xét về mặt hình thái chung đều phụ thuộc về lu thông thông thờng của hàng hoá. Ba là: Nếu vận động của giá trị t bản và vận động của giá trị thặng d, lúc đầu còn là một trong H và T, chỉ tách rời nhau có một phần thôi (thành thử có một phần giá trị thặng d bị tiêu đi không phải với t cách là thu nhập), hoặc hoàn toàn không bị tách rời nhau thì trong bản thân giá trị - t bản có một sự thay đổi diễn ra trong nội bộ tuần hoàn của nó, trớc khi tuần hoàn đó hoàn thành. H’ - T’, giai đoạn thứ hai của lu thông và giai đoạn cuối cùng của tuần hoàn I ( T...T’), lại là giai đoạn thứ hai của tuần hoàn của chúng ta, và là giai đoạn thứ nhất của lu thông hàng hoá. Do đó về mặt lu thông mà nói thì H - T’ cần đợc bổ sung bằng T’ - H’. Nhng H’ - T’ không những đã xảy ra sau quá trình làm tăng thêm giá trị mà còn là kết quả của nó, nhờ hành vi ấy sản phẩm - hàng hoá H’ đã đợc thực hiện rồi. Nh vậy là quá trình làm cho t bản tăng thêm giá trị, cũng nh việc thực hiện sản phẩm - hàng hoá đại biểu chio giá trị t bản đã tăng thêm giá trị đều kết thúc bằng H’ - T’. Trong lu thông của thu nhập của nhà t bản, hàng hoá đã đợc sản xuất ra, tức là h trên thực tế chỉ đợc dùng để đợc chuyển hoá thu nhập ấy trớc hết thành tiền, rồi lại từ tiền thành một hàng hoá khác phục vụ cho tiêu dùng cá nhân. Nhng ở đây chúng ta không nên bỏ qua một việc nhỏ này: h là một giá trị hàng hoá không tốt gì cho nhà t bản cả, nó là hiện thân của lao động thặng d, chính vì thế mà nó xuất hiện lúc ban đầu với t cách là một thành phần của t bản - hàng hoá H’. Bởi vậy chỉ có một sự tồn tại của thân nó, h này cũng đã gắn liền với tuần hoàn của giá trị - t bản đang tiến hành quá trình của mình; nếu tuần hoàn ấy bì đình chỉ hoặc xảy ra một sự rối loạn nào đó nói chung, thì không phải chỉ việc tiêu dùng h, mà đồng thời cả việc tiêu thụ cái loạt hàng hoá đem trao đổi với h, cũng đều bị thu hẹp lại hoặc đình chỉ hẳn, h - t - h chỉ gia nhập lu thông của t bản chừng nào mà h còn là một phần giá trị của H’. Mối quan hệ giữa tuần hoàn của t bản với t cách là một bộ phận của lu thông chung, và tuần hoàn của t bản với t cách là một trong những khâu của một lu thông độc lập, cũng biểu lộ ra khi chúng ta tiếp tục xem xét lu thông của T’ = T + t. Là t bản tiền tệ, T tiếp tục tuần hoàn của t bản; t bị tiêu dùng đi với t cách là thu nhập (t - h) thì đi vào lu thông chung, nhng lại tách khỏi tuần hoàn của t bản. Chỉ có bộ phận t hoạt động làm t bản - tiền tệ phụ thêm mới gia nhập tuần hoàn này mà thôi. Trong h - t - h tiền chỉ làm chức năng tiền đúc, mục đích của lu thông này là sự tiêu dùng cá nhân của nhà t bản. Khoa kinh tế chính trị tầm thờng cho rằng lu thông ấy không gia nhập tuần hoàn của t bản - tức là lu thông của bộ phận sản phẩm - giá trị bị tiêu dùng đi với t cách là thu nhập - là tuần hoàn đặc trng của t bản. Trong giai đoạn thứ hai, T - H thì giá trị t bản T = SX lại tái hiện nhng đã bị tớc mất giá trị thặng d chỉ, tức là có cùng một lợng giá trị nh khi nó ở trong giai đoạn thứ nhất của tuần hoàn của t bản - tiền tệ T - H. Mặc dù t bản tiền tệ ở vào một vị trí khác trớc, nhng chức năng của số t bản - tiền tệ mà giờ đây t bản hàng hoá đã chuyển hoá thành thì cũng vẫn nh cũ: chuyển hoá thành TLSX và SLĐ. Nh vậy chức năng của t bản - hàng hoá H’ - T’, giá trị t bản, cùng một lúc với h - t, đã tiến hành xong giai đoạn H - T và sau đó nó đi vào giai đoạn bổ sung: Slđ Tlsx; Slđ Tlsx; Thứ nhất, trong hình thái tuần hoàn T...T’ t bản tiền tệ T là hình thái ban đầu nó xuất hiện thành một bộ phận trong giai đoạn lu thông thứ nhất, do đó ngay từ đầu, nó xuất hiện thành sự chuyển hoá của t bản sản xuất sản xuất thành tiền thực hiện đợc nhờ việc bán sản phẩm hàng hoá. T’ biểu hiện thành hình thái chuyển hoá của H’, bản thân H’ này là sản phẩm hoạt động trớc đây của Sx, vì thế toán bộ số tiền T’ thể hiện thành biểu hiện tiền tệ của một lao động đã qua. Slđ Thứ hai, trong lu thông H - T - H cũng những đồng tiền ấy thay đổi vị trí hai lần: Thoạt tiên nhà t bản thu chúng với t cách là ngời bán, rồi lại bỏ chúng ra với t cách là ngời mua, việc chuyển hoá hàng hoá thành hình thái tiền chỉ là dùng để chuyển hoá hàng hoá đó từ hình thái tiền trở lại hình thái hàng hoá. Thứ ba, vô luận là t bản tiền tệ đợc dùng đơn thuần làm phơng tiện lu thông, hay làm phơng tiện thanh toán thì hoạt động của nó cũng chỉ là thay thế H bằng Slđ và Tlsx. Muốn cho tuần hoàn đợc tiến hành bình thờng, thì H’ phải bán đúng theo giá trị của nó và bán toàn bộ. Hơn nữa, H - T - H không những bao hàm việc thay thế một hàng hoá này bằng một hàng hoá khác, mà còn bao hàm việc thay thế hàng hoá ấy theo những tỷ lệ giá trị giống nhau. Chúng ta đã giả định rằng ở đây tình hình diễn ra đúng nh vậy. Nhng trên thực tế, giá trị của t liệu sản xuất thờng thay đổi; điểm cố hữu của nền sản xuất t bản chủ nghĩa là ở chỗ có sự biến đổi không ngừng của các tỷ lệ giá trị, do những thay đổi không ngừng trong năng xuất lao động gây nên, những thay đổi này là nét đặc trng của nền sản xuất t bản chủ nghĩa. Sự chuyển hoá của các yếu tố sản xuất thành sản phẩm hàng hoá, tức là việc chuyển hoá từ Sx thành H’, đợc tiến hành trong lĩnh vực sản xuất, việc chuyển hoá ngợc lại từ H’ thành Sx đợc tiến hành trong lu thông. Việc chuyển hoá trở lại này đợc chuyển hoá nhờ sự biến hoá hình thái giản đơn của hàng hoá. Nhng xét về mặt nội dung của nó thì việc chuyển hoá trở lại này là một yếu tố của quá trình tái sản xuất. Trong T...T’, T là hình thái ban đầu của giá trị t bản; giá trị t bản trút bỏ hình thái này đi để rồi sau đó lại mang lấy nó. Trong Sx...H’ - H...Sx, T là một hình thái chỉ hiện ra trong quá trình tuần hoàn, rồi sau đó lại trút bỏ đi ngay trong giới hạn của chính quá trình ấy. Nếu sự biến hoá hình thái thứ hai T - H gặp trở ngại thì tuần hoàn tức là tiến hành của quá trình tái sản xuất, bị đứt quãng, hoàn toàn giống nh trong trờng hợp t bản bị đọng lại dới hình thái t bản - hàng hoá. Khi t bản không còn làm chức năng t bản tiền tệ thì nó vẫn luôn luôn là tiền; nhng nếu nó bị giữ quá lâu trong chức năng t bản - hàng hoá, thì nó sẽ không còn là hàng hoá nữa và nói chung không còn là giá trị sử dụng nữa. Slđ Trong hình thái I, hành vi T - H Tlsx chỉ chuẩn bị cho sự chuyển hoá đầu tiên của t bản tiền tệ thành t bản sản xuất, trong hình thái II, hành vi ấy chuẩn bị cho sự chuyển hoá trở lại của t bản hàng hoá thành t bản sản xuất. Bởi vậy, ở đây cũng nh trong hình thái I, hành vi này xuất hiện thành giai đoạn chuẩn bị cho quá trình sản xuất nhng nó lại thể hiện nh là bớc quay trở về quá trình ấy, nh là việc lặp lại quá trình ấy, do đó nh là bớc mở màn cho quá trình tái sản xuất, và vì vậy mở màn cho việc lặp lại quá trình làm tăng thêm giá trị. Một lần nữa T - Slđ là việc mua bán hàng hoá sức lao động dùng để sản xuấta ra giá trị thặng d, còn T - Tlsx là một công việc không thể thiếu đợc về mặt vật chất để đạt đợc mục đích đó. Sau khi T - H Slđ hoàn thành,thì T đợc chuyển hoá thành t bản sản xuất thành Sx và tuần hoàn lại bắt đầu trở lại. Do đó, hình thái đầy đủ của Sx... H’ - T’ - H... Sx là: Việc chuyển hoá t bản - tiền tệ thành t bản sản xuất là việc mua hàng hoá nhằm sản xuất ra hàng hoá. Chỉ khi nào sự tiêu dùng là tiêu dùng sản xuất nh thế nào thì nó mới gia nhập vào tuần hoàn của bản thân t bản; điều kiện của sự tiêu dùng đó bao hàm ở chỗ nhờ các hàng hoá đợc tiêu dùng một cách sản xuất mà giá trị thặng d đợc tạo ra. Nhng đó là một cái gì rất khác với việc sản xuất, và thậm chí với việc sản xuất hàng hoá mà mục đích là đảm bảo sự tồn tại của ngời sản xuất; nh vậy, việc thay thế một hàng hoá này bằng một hàng hoá khác, do việc sản xuất ra giá trị thặng d quyết định, là một việc hoàn toàn khác hẳn với bản thân việc trao đổi sản phẩm chỉ do tiền làm môi giới. Ngoài sự tiêu dùng T một cách sản xuất thì tuần hoàn của t bản còn bao gồm khâu thứ nhất T - Slđ, khâu này đối với ngời công nhân là Slđ = H - T. Về phơng diện giá trị - t bản tiếp tục tuần hoàn của nó, và về phơng diện nhà t bản tiếp tục tiêu dùng giá trị thặng d, thì hành vi H’ - T’ chỉ giả định có một điều. H’ đợc chuyển hoá thành tiền, đợc bán đi. Việc tiêu dùng hàng hoá không nằm trong tuần hoàn của t bản đã sản sinh ra hàng hoá ấy. Tuần hoàn của giá trị - t bản mà nhà sản xuất t bản chủ nghĩa đó là đại biểu vẫn không bị gián đoạn. Còn nếu quá trình ấy mở rộng - điều này bao hàm việc mở rộng tiêu dùng sản xuất các t liệu sản xuất - thì sự tái sản xuất đó của t bản có thể kèm theo việc mở rộng tiêu dùng cá nhân của công nhân, vì quá trình đó sở dĩ bắt đầu đợc và có thể tiến hành đợc, là do tiêu dùng sản xuất. Nếu nh những hàng hoá Tlsx và Slđ - mà T chuyển hoá thành để hoàn thành chức năng t bản - tiền tệ của nó, tức là chức năng của số giá trị - t bản phải chuyển hoá ngợc trở lại t bản sản xuất, nếu nh những hàng hoá ấy cần đợc mua vào hoặc đợc trả tiền theo những kỳ hạn khác nhau. Trong tuần hoàn của t bản công nghiệp t bản - tiền tệ không thực hiện một chức năng nào khác ngoài chức năng tiền, và những chức năng tiền này đồng thời có ý nghĩa là những chức năng của t bản, chỉ là do mối liên hệ chung của chúng với các giai đoạn khác của tuần hoàn ấy mà thôi. Tích luỹ và tái sản xuất trên quy mô mở rộng. Vì các tỷ lệ theo đó quá trình sản xuất cos thể mở rộng ra không phải đợc định đoạt một cách tuỳ tiện mà là do một nền kỹ thuật nhất định quy định, cho nên giá trị thặng d đã thực hiện, tuy đợc dành để t bản hoá, nhng lắm lúc chỉ nhờ sự lắp đi lắp lại của một số tuần hoàn, mới có thể đạt tới quy mô có thể thực tế làm chức năng t bản phụ thêm, hay gia nhập vào tuần hoàn của giá trị t bản đang hoàn thành quá trình của mình. Nếu trong các giao dịch của nhà t bản nói trên, tiền làm chức năng phơng tiện thanh toán (thành thử ngời mua chỉ phải trả tiền cho hàng hoá sau một kỳ hạn hoặc dài hoặc ngắn), thì sản phẩm thặng d dùng để biến thành t bản không chuyển hoá thành tiền mà chuyển hoá thành trái vụ, thành chứng từ về quyền sở hữu đối với một vật ngang giá mà có thể là ngời mua đã có trong tay, hoặc hy vọng đã có. Cũng hệt nh tiền đem gửi thành các chứng khoán có lãi... sản phẩm thặng d đó không gia nhập vào quá trình tái sản xuất của t bản thực hiện tuần hoàn ấy, mặc dù nó có thể gia nhập tuần hoàn của những t bản công nghiệp cá biệt khác. Toàn bộ tính chất của sản xuất t bản chủ nghĩa đợc quy định bởi việc làm tăng thêm giá trị của giá trị ứng trớc do đó trớc hết đợc quyết định bởi việc sản xuất ra giá trị thặng d càng nhiều càng tốt. Trớc hết, khi xem xét tái sản xuất giản đơn, chúng ta đã giả định rằng toàn bộ giá trị thặng d bị chi tiêu đi với t cách là thu nhập. Trên thực tế, trong những điều kiện bình thờng, một bộ phận giá trị thặng d bao giờ cũng phải bị tiêu với t cách là thu nhập, còn một bộ phận khác phải đợc t bản hoá, hơn nữa số giá trị thặng d đợc sản xuất ra trong từng thời kỳ nhất định, khi thì bị chi tiêu toàn bộ, khi thì đợc t bản hoá toàn bộ, điều đó không hoàn toàn quan trọng. Xét trung bình và công thức chung có thể biểu hiện đợc sự vận động trung bình mà thôi: Sld.... Sx’ biểu thị một t bản sản xuất đợc tái sản Sx.... H’ - T’- H’ Tlsx xuất trên quy mô mở rộng, với t cách là t bản có một giá trị lớn hơn, và sau đó nó bắt đầu tuần hoàn thứ hai của nó, hoặc - điều này cũng vậy - nó lặp lại tuần hoàn thứ nhất của nó, nhng với t cách là một t bản sản xuất đã tăng thêm. Khi tuần hoàn thứ hay này bắt đầu, chúng ta lại thâys Sx xuất hiện ở điểm xuất phát, nhng chỉ khác có một điều là Sx này là một t bản sản xuất có quy mô lớn hơn Sx thứ nhất. Cũng giống nh là khi trong công thức T...T’, tuần hoàn thứ hai bắt đầu vơis T’, thì T’ này cũng làm chức năng giống chức năng của T’, tức là làm chức năng của một t bản - tiền tệ ứng trớc có một đại lợng nhất định; đó là một t bản - tiền tệ có quy mô lớn hơn t bản - tiền tệ mở đầu tuần hoàn thứ nhất, nhng một khi t bản - tiền tệ lớn hơn đó bắt đầu làm chức năng t bản - tiền tệ ứng trớc, thì tất cả mọi sự liên tởng đến việc nó đã tăng thêm nhờ t bản hoá giá trị thặng d đến biến mất. Tình hình nh vậy cũng diễn ra đối với Sx khi nó làm điểm xuất phát của một tuần hoàn mới. Nếu so sánh Sx.... Sx’ với T...T’ hay với tuần hoàn thứ nhất, thì thấy rằng hai tuần hoàn đó hoàn toàn không có ý nghĩa giống nhau. Bản thân T...T’ với t cách là một tuần hoàn cô lập, chỉ nói lên rằng T tức là tiền tệ (hay t bản công nghiệp đang thực hiện tuần hoàn của nó dới hình thái t bản - tiền tệ). Trái lại trong tuần hoàn của Sx khi gian đoạn thứ nhất, tức là giai đoạn quá trình sản xuất chấm dứt, thì quá trình làm tăng giá trị đã hoàn thành rồi, còn khi giai đoạn thứ hai. H’ - T’ kết thúc, thì giá trị - t bản + giá trị thặng d đã tồn tại thành t bản - tiền tệ đã đợc thực hiện, thành T’, là các xuất hiện thành cái cực cuối cùng trong tuần hoàn thứ nhất. Điều này nói nên rằng giá trị thặng d đã đợc sản xuất ra. Trong Sx... Sx’, Sx’ không nói nên đợc việc giá trị thặng d đã đợc sản xuất ra, mà nói nên việct bản hoá giá trị thặng d đã sản xuất ra, do đó nói nên rằng tích luỹ t bản đã xảy ra, khác với Sx, Sx’ gồm có giá trị - t bản ban đầu cộng thêm giá trị của một t bản cho sự vận động của giá trị - t bản ban đầu tích luỹ lại. T’ và H’, dới hình thức mà nó xuất hiện trong tất cả các tuần hoàn ấy, tự bản thân chúng không biểu thị sự vận động, mà biểu hiện kết quả của cuộc vận động: việc làm tăng giá trị - t bản đợc thực hiện dới hình thái hàng hoá hay dới hình thái tiền; vì vậy chúng biểu hiện giá trị - t bản thành T + t, hoặc thành H +h. Một khi T’ hoặc H’ cố định thành T +t hoặc H + h, tức là cố định lại dới dạng quan hệ giữa giá trị - t bản với giá trị thặng d, con đẻ của giá trị - t bản, thì mối quan hệ ấy biểu thị một lần dới hình thái tiền, lần kia dới hình thái hàng hoá. Trong cả hai trờng hợp ấy, thuộc tính đặc trng của t bản, tức là thuộc tính làm một giá trị đẻ ra giá trị. H’ bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là hình thái của H’ đã trải qua một sự chuyển hoá trong tuần hoàn của t bản công nghiệp. Vì thế, khi t bản - tiền tệ đã thực hiện làm trở lại chức năng đặc thù của nó là t bản - tiền tệ, thì nó không còn biểu hiện mối quan hệ t bản chứa đựng trong T’ = T+t nữa. Một khi T...T’ đã tiến hành xong rồi, và một khi bắt đầu trở lại tuần hoàn, thì T’ không còn biểu hiện ra thành T’ nữa, mà biểu hiện ra thành T, ngay cả trong trờng hợp ngời ta t bản hoá toàn bộ giá trị thặng d chứa đựng trong T’ cũng vậy. Đối với tuần hoàn của t bản sản xuất, số Sx’ đã lớn lên, khi bắt đầu trở lại tuần hoàn của nó, cũng chỉ xuất hiện với t cách là Sx, giống nh Sx trong tái sản xuất giản đơn Sx... Sx nh vậy. Slđ Trong giai đoạn T’ - H’ Tlsx , sự tăng thêm đại lợng giá trị chỉ là do H’ biểu hiện ra, chứ không phải do Slđ’ và Tlsx’ biểu thị ra. Vì H là tổng số của Slđ cộng với Tlsx, cho nên H’ cũng đã nói lên rằng tổng số của Slđ cộng với Tlsx bao gồm ở trong nó lớn hơn Sx ban đầu. Việc tích luỹ tiền Việc t tức giá trị thặng d đã biến thành tiền, có thể lập tức đợc bỏ thêm vào giá trị - t bản đang ở trong quá trình vận động của nó hay không, và do đó có thể gia nhập quá trình tuần hoàn bằng cách nhập làm một với t bản T thành đại lợng T’ hay không - việc đó phụ thuộc vào những tình hình không có quan hệ gì với sự tồn tại đơnthuần của t. Chức năng riêng của t là nằm dới hình thái tiền, cho đến khi nó nhận thức của những tuần hoàn lắp đi lắp lại, - tuần hoàn làm tăng thêm giá trị - tức là nhận thức đợc từ bên ngoài, những khoản tăng thêm đủ để đạt tới đại lợng tối thiểu cần thiết cho sự hoạt động tích cực của nó, chỉ với đại lợng ấy thì nó mới có thể tham gia vào việc hoạt động của t bản - tiền tệ T’, tham gia với t cách là t bản tiền tệ. Vậy ở đây việc tích luỹ tiền, tích luỹ tiền là một quá trình tạm thời kèm theo việc tích luỹ hiện thực, tức là việc mở rộng quy mô hoạt động của t bản công nghiệp. Hình thái tiền tích trữ chỉ là hình thái tiền không nằm trong lu thông, là hình thái của số tiền mà lu thông của nó bị gián đoạn và vì lẽ đó mà đợc giữ lại dới hình thái tiền. Còn nh bản thân quá trình hình thành tiền tích trữ, thì nó là chung cho bất cứ nền sản xuất hàng hoá nào, và chỉ trong các hình thái cha phát triển của sản xuất hàng hoá trớc chủ nghĩa t bản thì quá trình tích luỹ tiền ấy mới đóng một vai trò nào đó với t cách là mục đích tự thân. Quỹ dự trữ. Bản thân tiền tích trữ là điều kiện tích luỹ. Nhng quỹ tích luỹ cũng có thể đảm nhiệm những công việc đặc thù, có tính chất phụ, tức là có thể gia nhập quá trình tuần hoàn của t bản mà không cần phải mang hình thái Sx... Sx’ và do đó không cần mở rộng quy mô tái sản xuất t bản chủ nghĩa. Quỹ tích luỹ đợc dùng làm quỹ dự trữ khác với quỹ dùng làm phơng tiện mua và phơng tiện thanh toán đã đợc nghiên cứu trong tuần hoàn Sx... Sx’. Quỹ dự trữ là một bộ phận cấu thành của t bản nằm trong giai đoạn chuẩn bị của sự tích luỹ của nó, tức là một bộ phận cấu thành của giá trị thặng d cha chuyển hoá thành t bản tích cực. Quỹ tích luỹ bằng tiền vốn đã là sự tồn tại của t bản - tiền tệ tiềm năng, do đó nó đã là sự chuyển hoá của tiền thành t bản - tiền tệ. Công thức chung của tuần hoàn của t bản sản xuất. Slđ Sx...H’ - T’. T - H ... Sx (Sx’) Tlsx 2.3. Tuần hoàn của t bản - hàng hoá. Công thức chung của tuần hoàn của t bản hàng hoá là: H’ - T’ - H...Sx... H’ H’ không những là sản phẩm mà còn là tiền đề của hai tuần hoàn đã nói ở trên, bởi vì cái là T - H của một t bản thì đã bao hàm H’ - T’ của một t bản khác, ít ra là trong chừng mực bản thân một bộ phận t liệu sản xuất là sản phẩm hàng hoá của những t bản cá biệt khác đang thực hiện tuần hoàn của chúng. Tuần hoàn của t bản - hàng hoá không phải bắt đầu đơn thuần bằng một giá trị - t bản, mà bằng một giá trị - t bản đã đợc tăng lên và nằm dới hình thái hàng hoá, do đó ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn không những của giá trị - t bản dới hình thái hàng hoá mà còn bao hàm cả tuần hoàn của cả giá trị thặng d nữa. Trong mọi trờng hợp H’ thờng xuyên mở đầu tuần hoàn với t cách là một t bản hàng hoá ngang với giá trị - t bản cộng với giá trị thặng d. H’ với t cách là H xuất hiện trong tuần hoàn của một t bản công nghiệp cá biệt, dới hình thái một t bản công nghiệp khác, chừng nào t liệu sản xuất là sản phẩm của t bản công nghiệp này. H’ không bao giờ có thể mở đầu tuần hoàn với t cách là H đơn thuần, với t cách là hình thái hàng hoá đơn thuần của giá trị - t bản. Là t bản - hàng hoá, nó bao giờ cũng có hai mặt. Đứng trên quan điểm giá trị sử dụng mà nói nó là sản phẩm hoạt động của Sx, mà những yếu tố Slđ và Tlsx xuất hiện với t cách là hàng hoá từ lĩnh vực lu thông, chỉ hoạt động với t cách là nhân tố hình thành sản phẩm đó. Hai là, đứng trên quan điểm giá trị mà nói; H’ là giá trị - t bản Sx + giá trị thặng d m, sản sinh ra trong thời gian hoạt động của sản xuất. Chỉ có ở trong tuần hoàn của bản thân H’ thì bộ phận H của nó = Sx = giá trị - t bản, mới có thể và phải phân tách ra khỏi bộ phận của H’ chứa đựng giá trị thặng d, khỏi sản phẩm thặng d chứa đựng giá trị thặng d, không kể là hai bộ phận này có thực sự tách rời nhau hay không tách rời nhau. Một khi H’ đã chuyển hoá thành T’, thì hai bộ phận đó trở thành có thể tách rời nhau. Trong hình thái I: T... T’ tiền đợc ứng ra làm t bản trớc hết cho những yếu tố sản xuất, nhng yếu tố này trở thành sản phẩm - hàng hoá và sản phẩm - hàng hoá này lại chuyển hoá thành tiền. Đó là một tuần hoàn kinh doanh hoàn chỉnh mà kết quả là tiền có thể dùng vào tất cả mọi việc và cho tất cả mọi ngời. Trong hình thái II tức là Sx... H’ - T’ - H...Sx (Sx’) toàn bộ quá trình lu thông nằm sau Sx thứ nhất và trớc Sx thứ hai, Sx là t bản sản xuất, Sx cuối không phải là quá trình sản xuất, nó chỉ là sự trở lại của t bản công nghiệp dới hình thái t bản sản xuất. Trong hình thái III, tức là H’ - T’ - H ... Sx... H’ tuần hoàn bắt đầu bằng hai giai đoạn của quá trình lu thông, tuần hoàn kết thúc với H’, kết quả của quá trình sản xuất. Chỉ trong tuần hoàn này thì điểm xuất phát của quá trình làm tăng thêm giá trị là giá trị - t bản đã tăng thêm giá trị. Điểm xuất phát ở đây là H’, biểu hiện mối quan hệ t bản chủ nghĩa, nó có tác dụng quyết định đối với toàn bộ tuần hoàn. Sự phân phối tổng sản phẩm xã hội cũng nh phân phối đặc thù về sản phẩm của một t bản - hàng hoá cá biệt, sự phân phối, một mặt thành quỹ tiêu dùng cá nhân, và mặt khác thành quỹ tái sản xuất - đều nằm trong tuần hoàn của t bản. Trong T...T’ có khả năng mở rộng tuần hoàn theo đại lợng của các phần t sẽ gia nhập tuần hoàn mới. Trong Sx...Sx, Sx có thể mở đầu tuần hoàn mới với một giá trị nh cũ. Trong H’...H’, t bản dới hình thái hàng hoá là tiền đề của sản xuất, và với t cách là tiền đề, hình thái đó lại quay trở lại cũng trong tuần hoàn ấy. Cả ba tuần hoàn đều có điểm chung: t bản kết thúc quá trình tuần hoàn của nó dới đúng cái hình thái mà nó mở đầu quá trình tuần hoàn đó, nhờ thế nó lại mang hình thái ban đầu trong đó nó lại mở đầu một tuần hoàn giống nh vậy. Hình thái của điểm xuất phát T, Sx, H’ đều đợc cho trớc đối với mỗi tuần hoàn; hình thái lặp lại ở điểm kết thúc là hình thái bị gây nên, và do đó bị quy định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái cảu bản thân tuần hoàn. H’ với t cách là điểm kết thúc một tuần hoàn của t bản công nghiệp cá biệt, chỉ giả định là có hình thái Sx ở bên ngoài lu thông của t bản công nghiệp đã sản sinh ra nó, T’ là điểm kết thúc của hình thái I, là hình thái chuyển hoá của H’ (H’ - T’) giả định là T nằm trong tay ngời mua, tồn tại ở ngoài tuần hoàn T...T’ và chỉ do việc bán H’ mới bị cuốn vào trong tuần hoàn đó, trở thành hình thái kết thúc của bản thân tuần hoàn ấy. 3. Quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề chu chuyển của t bản. Nếu nh nghiên cứu tuần hoàn của t bản, chúng ta nghiên cứu các hình thức mà t bản trút ra và khoác vào qua ba giai đoạn vận động của nó, thì khi nghiên cứu chu chuyển của t bản, chúng ta nghiên cứu tốc độ vận động của t bản nhanh hay chậm. Theo Mác - Lênin thì: “Sự tuần hoàn của t bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi lắp lại chứ không phải là quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuyển của t bản”(2). Trong quá trình chu chuyển của t bản tức là để sản xuất ra hàng hoá nhà sản xuất phải mất một khoảng thời gian mà theo Mác - Lênin nêu lên là: “Thời gian chu chuyển của t bản là khoảng thời gian kể từ khi t bản ứng ra dới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà t bản cũng dới hình thức nh thế, nhng có thêm giá trị thặng d(3).Nh vậy tổng thời gian chu chuyển của một t bản nhất định bằng thời gian lu thông và thời gian sản xuất của nó cộng lại. Mục đích của nền sản xuất t bản chủ nghĩa bao giờ cũng là làm tăng giá trị ứng trớc. Trong hai hình thái T...T’ và hình thái Sx...Sx nói lên rằng: 1. Giá trị ứng trớc đã làm chức năng giá trị - t bản và đã tự tăng thêm; 2. Khi kết thúc tuần hoàn của nó, giá trị ứng trớc lại quay về dới hình thái mà nó mang khi mở đầu tuần hoàn. Nếu sản xuất mang hình thái t bản chủ nghĩa, thì tái sản xuất cũng mang hình thái đó. Quá trình lao động trong phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa là chỉ là một phơng tiện cho quá trình làm tăng thêm giá trị, thì tái sản xuất cũng vậy, nó cũng chỉ là một phơng tiên để tái sản xuất ra giá trị ứng trớc với t cách là t bản, tức là với t cách là giá trị tự tăng thêm giá trị. Trong hình thái là sự lắp lại của quá trình biểu hiện ra là có tính chất khả năng thôi còn sự lắp lại của quá trình trong hình thái II tức là quá trình tái sản xuất, biểu hiện thành sự lắp lại hiện thực. Trong hình thái III giá tự - t bản mở đầu quá trình với t cách là giá trị đã tăng thêm, là tất cả những của cải nằm dới hình thái hàng hoá. Hình thái này là hình thái trọng yếu đối với sự vận động của các t bản cá biệt nếu xem xét trong mối quan hệ với sự vận động của t bản xã hội. Nhng hình thái này không thích hợp cho việc nghiên cứu sự chu chuyển của một t bản bao giờ cũng đợc bắt đầu bằng việc ứng trớc giá trị t bản dới hình thái tiền tệ hay dới hình thái hàng hoá, và bao giờ cũng đòi hỏi giá trị - t bản đang lu thông phải quay trở lại hình thái mà nó đã đợc ứng ra. Những nhà kinh tế học không phân biệt các hình thái tuần hoàn khác nhau, đã không xét chúng riêng ra trong mối quan hệ của chúng đối với chu chuyển của t bản. Có những nhà kinh tế học khác lại xuất phát từ những chi phí dới hình thái yếu tố sản xuất, và xem xét sự vận động cho đến lúc quay trở về, nhng họ tuyệt nhiên không hề nói đến hình thái quay trở về đó, không hề tự hỏi xem chúng sẽ quay trở về dới hình thái hàng hoá hay hình thái tiền. Sau khi toàn bộ giá trị t bản mà một nhà t bản cá biệt bỏ vào một ngành sản xuấta nào đó hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở lại hình thái ban đầu của nó và lại có thể diễn lại cùng một quá trình nh thế. Muốn cho giá trị đợc bảo tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với t cách là giá trị t bản, thì nó phải lắp lại tuần hoàn ấy. Trong đời sống của t bản, mỗi tuần hoàn cá biệt chỉ là một giai đoạn không ngừng đợc lắp đi lắp lại, nghĩa là một giai đoạn cấu thành một định kỳ. Hình thái T...T’ t bản tiền tệ sẽ đi qua cái chuỗi những chuyển hoá bao gồm quá trình tái sản xuất ra nó, hay quá trình tăng thêm giá trị. Khi định kỳ Sx...Sx kết thúc, t bản mang hình thái những yếu tố sản xuất nó là tiền đề của việc lặp lại tuần hoàn. “Tuần hoàn của t bản khi đợc coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải một hành vi cá biệt thì đợc gọi là vòng chu chuyển của t bản”. Thời gian của vòng chu chuyển ấy đợc quyết định bởi tổng số thời gian sản xuất và thời gian lu thông cộng lại. Tổng số thời gian ấy là thời gian chu chuyển của t bản. Do đó, thời gian chu chuyển của t bản bao quát khoảng thời gian từ một định kỳ tuần hoàn tiếp theo; nó nói lên tính chu kỳ trong quá trình sinh sống của t bản, hay có thể nói, nó là thớc đo thời hạn đổi mới, thời hạn lặp lại của quá trình làm tăng thêm giá trị hay quá trình sản xuất ra cùng một giá trị t bản. Nếu không nói đến những sự ngẫu nhiên riêng rẽ có thể đẩy nhanh hay rút ngắn thời hạn chu chuyển đối với cùng một t bản cá biệt, thì thời gian chu chuyển ấy nói chung sẽ khác nhau tùy theo những sự khác nhau của các lĩnh vực đầu t cá biệt của t bản. Cũng giống nh ngày lao động là đơn vị đo lờng tự nhiên để đo hoạt động của sức lao động, thì năm cũng là đơn vị đo lờng tự nhiên để đo những vòng chu chuyển của t bản hoạt động. Cơ sở tự nhiên của đơn vị đo lờng ấy là tình hình: ở vùng ôn đới, quê hơng của nền sản xuất t bản chủ nghĩa, các nông sản quan trọng nhất đều đợc sản xuất ra mỗi năm một lần. Nếu ta lấy CH để chỉ năm là đơn vị đo lờng của thời gian chu chuyển, lấy ch để chỉ thời gian chu chuyển của một t bản nhất định, lấy n để chỉ số lần chu chuyển của t bản, thì chúng ta sẽ có: n = ch(CH) CH ch . Do đó nếu thời gian chu chuyển của t bản là vài năm, thì nó sẽ đợc tính bằng cách nhân với số năm đó. Đối với nhà t bản, thời gian chu chuyển của t bản là thời gian trong đó nhà t bản phải ứng trớc t bản ra để nó tăng thêm giá trị, và quay trở về dới hình thái ban đầu của nó. Giá trị các bộ phận t bản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phơng thức khác nhau. Căn cứ vào phơng thức chu chuyển giá trị của t bản thì chia t bản ra thành t bản cố định và t bản lu động. Trong đó “t bản cố định là bộ phận t bản sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất, nhng giá trị lại không chuyển hết một lần, mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm”(4). Còn “t bản lu động là một bộ phận t bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản xuất, có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà t bản dới hình thức tiền tệ, sau khi hàng hoá đã bán xong” (5). Đó là bộ phận giá trị t bản dới hình thức sức lao động và những t liệu sản xuất khác. Nguyên liệu, vật liệu phụ bị tiêu dùng toàn bộ vào sản xuất và cũng chuyển toàn bộ gia trị vào sản phẩm mới. Chia t bản ra thành t bản cố định và t bản lu động cũng là một sự phân chia khoa học, cần thiết về mặt quản lý kinh tế. T bản cố định chu chuyển chậm hơn t bản lu động. Trong khi t bản cố định chu chuyển đợc vòng thì t bản lu động đã chu chuyển đợc nhiều vòng. Ngay trong t bản cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau, có thời gian hoạt động dài, ngắn khác nhau, nghĩa là hao mòn khác nhau. “Hao mòn hữu hình là do sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những bộ phận t bản đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng, không dùng đợc nữa. Còn hao mòn vô hình là nói về những trờng hợp máy móc mới tốt hơn tối tân hơn xuất hiện” (6). Để tránh hao mòn vô hình, nhà t bản còn tìm cách nâng cao tỷ suất khấu hao t bản cố định. Dựa trên hai hình thức hao mòn mà C.Mác phân chia chu chuyển của t bản thành “Chu chuyển chung của t bản ứng trớc là con số chu chuyển trung bình của những thành phần khác nhau của t bản. Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của t bản ứng trớc đợc khôi phục toàn bộ về mặt giá trị, cũng nh về mặt hiện vật(7). Chu chuyển thực tế do thời gian tồn tại của t bản cố định đầu t quyết định và nó không ăn khớp với chu chuyển chung của nó. Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng d hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lợng giá trị thặng d tạo ra trong một năm với t bản khả biến ứng ra trớc ngời ta phải tăng tốc độ chu chuyển của t bản. Tỷ suất giá trị thặng d thực tế không đổi, nhng t bản chu chuyển càng nhanh số vòng chu chuyển t bản khả biến trong năm càng nhiều thì giá trị thặng d càng lớn, tỷ suất giá trị thặng d hàng năm càng cao. Nó che giấu mối quan hệ thực sự giữa t bản và lao động, gây cho ngời ta có ấn tợng rằng tỷ suất giá trị thặng d không phải chỉ phụ thuộc vào khối lợng và trình độ bóc lột sức lao động do nhà t bản khả biến làm cho hoạt động mà còn phụ thuộc vào những ảnh hởng không thể giải thích đợc do quá trình lu thông đẻ ra. Do đó nhà t bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lu thông để tăng tốc độ chu chuyển của t bản. Sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển của lực lợng sản xuất giúp cho nhà t bản làm việc đó. II. SỰ VẬN DỤNG LÝ THUYẾT TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA T BẢN TRONGN VIỆC QUẢN LÝ CÁC DOANH NGHIỆP CỦA NỚC TA KHI CHUYỂN SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRỜNG ĐỊNH HỚNG XHCN. 1. Sự vận dụng ở Việt Nam từ trớc đại hội VI ban chấp hành trung ơng Đảng - 1986. Cả nớc cùng tiền lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ: cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động kỹ thuật vẫn còn thủ công, phân công lao động xã hội còn kém phát triển,năng suất lao động xã hội rất thấp, tình trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn thiếu chặt chẽ, việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân còn yếu, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Công cuộc xây dựng nền kinh tế đòi hỏi đất nớc ta phải có chính sách phát triển và khôi phục nền kinh tế, đa đất nớc đi lên thoát khỏi sự lạc hậu của nền kinh tế sau những năm chiến tranh xâm lợc. Doanh nghiệp Việt Nam lúc này còn quá nhỏ bé chủ yếu là các xí nghiệp dới sự che chở của nhà nớc, nhà nớc bao cấp và chịu gần nh toàn bộ hậu quả mà doanh nghiệp nhà nớc và xí nghiệp gặp phải. Hàng Việt Nam đợc sản xuất ra có khi không đúng thời vụ, hàng cha về đến nông thôn thì đã hết. Nhà nớc lại không có chính sách, biện pháp mở rộng sản xuất, không thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là do nhà nớc cấp, doanh nghiệp không tồn tại loại hình doanh nghiệp t nhân t bản, doanh nghiệp nhà nớc hoạt động rất kém hiệu quả, năng suất cha cao, chất lợng thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật rất hạn chế. Đất nớc hoàn toàn giải phóng, cả nớc đi vào khôi phục xây dựng đất nớc. Đảng và Nhà nớc ta xác định nhiệm vụ đầu tiên là phải phát triển kinh tế, đa đất nớc đi lên. Tại Đại hội IV Đảng ta đã đề ra đờng lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đa nền kinh tế nớc ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, u tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nớc thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ơng, vừa phát triển kinh tế địa phơng trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lợng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”(8) . Đến đại hội lần thứ V (tháng 3 - 1982) của Đảng lại khẳng định đờng lối chung và đờng lối kinh tế do Đại hội IV của Đảng đã đề ra là hoàn toàn đúng đắn và đợc tiếp tục thực hiện. Thời kỳ này các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dới hình thái các xí nghiệp. Đảng ta chủ trơng đối với xí nghiệp con đờng công ty hợp doanh. Thực hiện chủ trơng đó, công cuộc cải tạo công nghiệp t bản t doanh ở miền Nam đã đợc thực hiện nh sau: các xí nghiệp của t sản mại bản và t sản bỏ chạy ra nớc ngoài đều bị quốc hữu hoá và trở thành quốc doanh. Năm 1978 là năm tuyên bố hoàn thành cải tạo t sản trong công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong các xí nghiệp quốc doanh, ngày 21 - 1- 1981 Hội đồng chính phủ đã ban hành quyết định 25 - CP về: “Một số chủ trơng và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh”. Trên cơ sở đó các xí nghiệp phải biết chu chuyển vốn sao cho hợp lý, sản xuất phải phù hợp với yêu cầu đòi hỏi, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị và ngày càng củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV đã chủ trơng “xoá bỏ ngay thơng nghiệp t bản t doanh”. Đối với tiểu thơng, Đảng chủ trơng “Tổ chức lại thơng nghiệp nhỏ, chuyển phần lớn tiểu thơng sang sản xuất. Đối với số còn lại đợc phép kinh doanh, phải tăng cờng quản lý bằng những chính sách và biện pháp thích hợp”. Nền kinh tế bên cạnh những thành tựu đạt đợc vẫn còn những hạn chế về mặt quản lý còn thiếu hiêủ biết, ít kinh nghiệm quản lý, cha tổng kết kinh nghiệm thực tiễn tạo điều kiện cho một số xí nghiệp lợi dụng sự sơ hở để mu lợi ích cục bộ. Nhìn chung trong giai đoạn này các xí nghiệp rất còn yếu kém trong việc tuần hoàn sản xuất và chu chuyển vốn, có nhiều xí nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nớc đến khi bị thua lỗ thì nhà nớc phải chịu hoàn toàn cho nên các xí nghiệp cha có đợc tinh thần trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất của mình. 2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) đến nay. Đại hội VI của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con đờng đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nớc ta; trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Đảng chỉ ra mục tiêu quan trọng là phát triển kinh tế trong đó khẳng định vai trò của các doanh nghiệp trong nền kinh tế mới với cơ chế quản lý mới đó là cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Cơ chế mới gắn sản xuất với thị trờng thông qua tín hiệu giá cả đợc hình thành theo quan hệ cung cầu, đi đôi với thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và mọi đơn vị kinh tế trong môi trờng hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Nhà nớc quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống, thể chế rõ ràng, nghiêm chỉnh kết hợp đúng đắn tính kế hoạch với việc sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ, sử dụng hợp lý các đòn bẩy kinh tế nh giá cả, chính sách tài chính, tín dụng...công tác kế hoạch hoá đợc đổi mới theo hớng chuyển từ tính pháp lệnh sang tính hớng dẫn là chính, từng bớc phân biệt quản lý Nhà nớc với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Có thể nói cơ chế mới nhằm chuyển hoá nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính bao cấp, hiện vật, tự cấp tự túc, sang nền kinh tế thị trờng, theo định hớng XHCN. Đây cũng là con đờng chủ yếu để nâng cao hiệu quả của mỗi đơn vị sản xuất - kinh doanh, cũng nh của toàn bộ nền kinh tế. Việc chuyển sang kinh tế thị trờng đòi hỏi phải có sự đổi mới một cách căn bản chức năng quản lý kinh tế của Nhà nớc. Từ chỗ trực tiếp “làm kinh tế” can thiệp rất sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh, Nhà nớc chuyển sang điều tiết vĩ mô nền kinh tế chủ yếu bằng công cụ pháp luật, kế hoạch hoá định hớng và các công cụ quản lý vĩ mô khác. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã đợc thể chế hoá trong hiến pháp và đợc cụ thể hoá bằng hệ thống các luật: luật doanh nghiệp nhà nớc, luật khuyến khích đầu t trong nớc, Luật đầu t nớc ngoài, Luật hợp tác xã, Luật công ty, Luật doanh nghiệp t nhân, các luật thuế và luật ngân sách, Luật đất đai, Luật dân sự, Luật phá sản, Pháp lệnh ngân hàng... Đó chính là cơ sở pháp lý để các chủ thể kinh tế và mọi ngời dân đầu t phát triển sản xuất, kinh doanh, trong cơ chế thị trờng. Trên cơ sở đó từng bớc phân biệt quản lý Nhà nớc với quản lý sản xuất kinh doanh, hình thành cơ chế quản lý của nhà nớc với t cách chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nớc thay thế choi cơ chế Bộ hoặc cơ quan hành chính chủ quản doanh nghiệp. Nếu nh trên thế giới, việc phân loại hình doanh nghiệp thờng dựa trên các tiêu chí chính phủ nh lĩnh vực ngành nghề kinh doanh; hình thức sở hữu; quy mô vốn, lao động và sản lợng; mức độ lợi nhuận... Thì ở Việt Nam việc xác định loại hình doanh nghiệp cũng dựa trên những tiêu chí đó đã đợc thể chế thành pháp luật. Trong luật doanh nghiệp do Quốc hội thông qua có nêu “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” . Hiện nay ở nớc ta tồn tại các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau: doanh nghiệp t nhân; hợp tác xã; doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài; doanh nghiệp nhà nớc và kinh tế hộ. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại các đô thị và các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực là thơng mại, dịch vụ và công nghiệp chế biến; quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ trang bị công nghệ và quản lý thấp, đội ngũ công nhân cha đợc đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Một đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp Việt Nam là chất lợng sản phẩm không cao, thiếu thị trờng tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp nhà nớc có vốn đầu t nớc ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản phẩm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 25 - 28% GDP. Chuyển đổi từ một nền kinh tế tự cung tự cấp, một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu sang một nền kinh tế hoàn toàn mới đó là kinh tế thị trờng, trong đó nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trờng với ba vấn đề: Sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu? và sản xuất cho ai? đều do thị trờng quyết định thông qua sự chỉ dẫn của quan hệ cung cầu và giá cả? Một mặt do nớc ta không trải qua giai đoạn chủ nghĩa t bản đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội cha có một cơ sở vật chất kỹ thuật ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặt khác, tỏo chức lại nền kinh tế đa các thành phần kinh tế vào hoạt động có hệ thống để mục đích đạt đợc hiệu quả sản xuất cao hơn, tăng thu nhập và đời sống dân c. Song nền kinh tế thị trờng không phải là một hệ thống đợc tổ chức một cách hoàn hảo, không có những khuyết tật. Vì vậy, để cho nền kinh tế này hoạt động có hiệu quả ở nớc ta và để khắc phục, hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trờng cần có sự can thiệp của nhà nớc vào nền kinh tế thị trờng. Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, nhà nớc định hớng ngày càng rõ ràng những chức năng quản lý nhà nớc, quản lý hành chính đối với doanh nghiệp và đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ, chính xác quyền lực của nhà nớc. Đó là con đờng để xoá bỏ những quy định không rõ ràng, chồng chéo trong trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nớc với các tổ chức, đoàn thể quần chúng, và sự lãnh đạo tổ chức của Đảng, nhằm hạn chế tối đa sự sơ hở, dẫn đến tham nhũng lãng phí, vi phạm lợi ích chính đáng của nhà nớc và bản thân doanh nghiệp. Sự vận động của nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc là tuân theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác động cùng một lúc của hai yếu tố, hai bàn tay: “vô hình” và “hữu hình” “cơ chế thị trờng” và nhà nớc. Trong đó nhà nớc thực hiện chức năng quản lý của các doanh nghiệp trên hai mặt tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý. Tổ chức sản xuất Một là: tổ chức sản xuất, lấy các hoạt động sản xuất kinh doanh làm đối tợng, dựa trên cơ sở phân tích kinh tế - kỹ thuật và lấy hiệu quả kinh doanh phù hợp với chính sách và pháp luật nhà nớc làm tiêu chuẩn cơ bản. Nhà nớc hớng các doanh nghiệp nên sản xuất một loại sản phẩm có chất lợng cao đáp ứng nhu cầu trong nớc và có thể đợc đem ra thị trờng nớc ngoài. Trong quá trình sản xuất không đợc ngừng trệ, các dây chuyền sản xuất phải nối tiếp nhau, tuần hoàn và liên tục dựa trên cơ sở trang thiết bị vốn có và đầu t mới. Hai là: tổ chức sản xuất là cơ sở để sử dụng hợp lý mọi tài nguyên, xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất- kinh doanh theo phơng hớng, mục tiêu kế hoạch nhà nớc, theo nhiệm vụ thiết kế của xí nghiệp, kết hợp chuyên môn hoá với kinh doanh tổng hợp, có hiệu quả và để tổ chức bộ máy quản lý có hiệu lực. Đối với doanh nghiệp nhà nớc hoạt động sản xuất kinh doanh đợc phân làm ba nhóm: Nhóm 1: Những doanh nghiệp quan trọng cần đợc nhà nớc duy trì, tổ chức lại và đầu t nâng cao hiệu quả, mở rộng quy mô hoạt động. Các doanh nghiệp này đợc bảo đảm điều kiện tối thiểu để chủ động tích luỹ và mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh; kiện toàn tổ chức, u tiên và bổ sung vốn lu động, cho vay một phần vốn với lãi suất u đãi để đầu t chiều sâu, nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhóm 2: Đó là những doanh nghiệp nhà nớc cần đợc cổ phần hoá là những doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn Nhà nớc, cha làm vào tình trạng phá sản hoặc phải giải thể, có đề án hoạt động sản xuất có hiệu quả, hoạt động trong những lĩnh vực nhà nớc chỉ cần giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Nhóm 3: gồm những doanh nghiệp sản xuất thua lỗ kéo dài, không trả đợc nợ đến hạn, không nộp đủ thuế. Những doanh nghiệp này nếu do thiếu thuế hoặc năng lực quản lý yếu kém thì có thể duy trì nhng cần thay cán bộ lãnh đạo, hoặc có thể phải bán đấu giá, giải thể và phá sản. Ba là: Tổ chức sản xuất, hiểu theo nghĩa rộng, trên phạm vi ngành, lãnh thổ, đơn vị cơ sở, phải bắt đầu từ việc xác định cơ cấu sản xuất. - Xác định trình độ tích tụ sản xuất (quy mô sản xuất - kinh doanh). - Xác định phạm vi chuyên mộn hoá sản xuất - kinh doanh một hay nhiều sản phẩm, dịch vụ và phạm vi, mức độ kinh doanh tổng hợp. - Xác định các mối liên hệ hợp tác sản xuất, liên kết liên doanh giữa các ngành, các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. - Xác định các hình thức tổ chức liên hợp sản xuất từ thấp đến cao, liên hiệp giữa các xí nghiệp cùng loại sản phẩm hay khác loại: liên hiệp giữa các khâu từ sản xuất, cung ứng vật t, tiêu thụ xuất nhập khẩu; liên hiệp giữa khoa học - sản xuất - đời sống. - Sắp xếp dây chuyền sản xuất theo quy trình công nghệ đã chọn và đảm bảo kỹ thuật, chất lợng sản phẩm, bố trí hợp lý và cân đối các điều kiện sản xuất và lực lợng lao động nhằm đạt năng suất cao. - Sắp xếp quy trình hoạt động của các khâu tổ chức: dự trữ sản xuất, sản xuất, sản xuất chế biến, tiêu thụ với các yếu tố sản xuất một cách thông suốt, gắn sản xuất với thị trờng. Nh vậy, trong việc sản xuất kinh doanh phải đợc xác định rất rõ ràng, Nhà nớc đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sản xuất của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đợc sản xuất liên tục trong nền kinh tế thị trờng. Đồng thời lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật không bị nhàn rỗi, vốn đợc chu chuyển thờng xuyên. Tổ chức bộ máy quản lý, tuỳ thuộc vào cơ cấu và tổ chức sản xuất và cơ chế kinh tế kinh doanh nhằm quản lý có hiệu lực, phục vụ đắc lực cho sản xuất - kinh doanh: - Phát triển hợp tác hoá, tập trung hoá sản xuất và liên hiệp sản xuất nh khoa học - kỹ thuật - thiết kế - đầu t sản xuất - tiêu thụ - dịch vụ. - Phát triển chuyên môn hoá sản xuất và dịch vụ. - Các cơ quan Nhà nớc gọi đối tợng quản lý và chức năng quản lý vào các vấn đề chiến lợc và chính sách cơ bản; chuyển từ chỗ trực tiếp điều hành sang tạo môi trờng kinh tế cho các đơn vị kinh tế hoạt động một cách độc lập, chuyển từ chỗ nặng về áp dụng các biện pháp hành chính sang việc kết hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp hành chính, trong đó các biện pháp kinh tế. - Mở rộng quyền tự chủ và chủ động kinh tế, thực hiện hạch toán kinh tế của các đơn vị kinh tế. Trong nền kinh tế thị trờng trách nhiệm lịch sử của doanh nghiệip hiện hay là nâng cao hiệu quả kinh doanh và trên cơ sở đó, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trờng trong nớc và quốc tế. Nhà nớc khuyến khích thành lập doanh nghiệp và hình thành tập đoàn kinh doanh “tập đoàn kinh doanh là một tập hợp nhiều doanh nghiệp thành một tổ chức, có t cách pháp nhân, trong đó có một doanh nghiệp là “công ty mẹ” kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các doanh nghiệip khác”. Nếu nh Nhà nớc khuyến khích t nhân thành lập doanh nghiệp, còn đối với doanh nghiệp Nhà nớc thì Nhà nớc khuyến khích: cổ phần hoá doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là một chủ trơng lớn của Nhà nớc vì nó là một bộ phận của cơ chế quản lý. Đến năm 1998 trên toàn quốc chỉ có 18 doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần. Cổ phần hoá là hình thức tích tụ vốn một cách nhanh nhất C.Mác đã viết “Nếu nh cứ phải chờ cho đến tích luỹ làmcho một số nhà t bản riêng lẻ lớn lên tới mức có thể đảm đơng đợc việc xây dựng đờng sắt, thì có lẽ đến ngày nay (thế kỷ 19) thế giới vẫn cha có đờng sắt. Ngợc lại qua các công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện đợc việc đó trong nháy mắt”. Trong điều kiện hiện nay với chủ trơng, đa dạng hoá các hình thức sở hữu ngay ở từng cơ sở, cổ phần hoá sẽ giúp các doanh nghiệp nhà nớc thẩm thấu vào các thành phần kinh tế khác qua việc mua cổ phần của các doanh nghiệp đó, từ đó phát huy tác dụng định hớng cho các thành phần khác. Xuất phát từ chủ trơng “xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm” chính phủ phát huy vai trò ngời cầm lái đối với doanh nghiệp, đã đặt t tởng và pháp lý cho một phong cách và một thể chế làm việc mới: Chính phủ hợp tác đối thoại thẳng thắn, bình đẳng với doanh nghiệp, cải tiến tổ chức các doanh nghiệp và xác định rõ các quyền tự chủ để trao đổi lại cho doanh nghiệp, sẽ tạo ra sự gắn bó mới, sự đồng tâm nhất trí mới, động lực mới cho cả hai bên - ngời cầm lái và ngời chèo thuyền. Hơn 10 năm qua, các loại hình doanh nghiệp ở nớc ta phát triển một cách nhanh chóng cả về số lợng lẫn chất lợng, đã góp phần to lớn vào sự phát triển một cách nhanh chóng cả về số lợng lẫn chất lợng, đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nớc. Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại các đô thị và các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực là thơng mại và dịch vụ và công nghiệp chế biến. Theo số liệu của Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nớc tại doanh nghiệp, trong số 33724 doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì có 27775 doanh nghiệp t nhân với số vốn điều lệ là 4084 tỷ đồng, 8775 công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn điều lệ là 8714 tỷ đồng; 229 công ty cổ phần với số vốn điều lệ là 2856 tỷ đồng... các doanh nghiệp này đã nộp ngân sách 8178 tỷ đồng và sử dụng trên 1 triệu đồng. Một điều đáng phải nêu lên đó là sự thay đổi trong cách nhìn nhận của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, sử dụng vốn bớc đầu đã có hiệu quả. Bên cạnh một số thành tựu mà doanh nghiệp Việt Nam đã đạt đợc thì vẫn còn tồn tại những hạn chế mắc phải. Một vấn đề đầu tiên là vốn có thể nói hình ảnh doanh nghiệp Việt Nam, xét trên giác độ quy mô vốn đầu t giống nh những chủ bé tí hon đang phải đánh vật với những anh chàng khổng lồ nớc ngoài. Thời gian sản xuất của các doanh nghiệp khác dài, nắm bắt thị trờng cha kịp thời, hàng sản xuất ra chất lợng không cao nhng giá cả lại cao, cha có khả năng lôi kéo đợc thị hiếu ngời trong nớc, hàng rẻ tiền thì hạn dùng rất hạn chế, hàng Việt Nam chất lợng cao thì quá đắt so với hàng nớc ngoài cùng chủng loại. Cho nên một số doanh nghiệp đầu t ban đầu cũng khá nhiều nhng lợi nhuận thu về thì rất thấp dânx đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, sản xuất không đợc tuần hoàn, hao mòn thờng xuyên xảy ra đối với trang bị kỹ thuật. Bên cạnh một số doanh nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nớc nhà và xuất khẩu ra nớc ngoài thì cũng có một số doanh nghiệp do không đủ vốn và đủ sức cạnh tranh phải ngừng sản xuất hay phải giảm tốc độ sản xuất. Vì vậy đòi hỏi nhà nớc phải có sự giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nh điều chỉnh giá cả ổn định ở trên thị trờng đảm bảo lợi ích của ngời kinh doanh, nhất là trong cơ chế thị trờng nhà nớc phải đổi mới trong cơ chế quản lý bao gồm hai nhiệm vụ. Song song với quá trình thành các chủ thể sản xuất kinh doanh tự chủ, phải từng bớc phát triển hệ thống thị trờng về tất cả các yếu tố sản xuất, hình thành thị trờng thông suốt trong cả nớc và từng bớc gắn với thị trờng thế giới. Đổi mới quản lý vĩ mô của Nhà nớc, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho kinh tế thị trờng, và quan trọng hơn nữa là Nhà nớc tạo ra và sử dụng có hiệu quả các công cụ phù hợp với kinh tế thị trờng, đặc biệt là kế hoạch hoá và công cụ tài chính tiền tệ, để bảo đảm cân đối và điều tiết kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên để hình thành cơ chế thị trờng có sự quản lý Nhà nớc, phải từng bớc tháo gỡ giải toả cơ chế cũ. Nhà nớc đã thực hiện những bớc đi có tính quyết định chuyển mạnh sang cơ chế thị trờng: áp dụng phổ biến cơ chế giá thị trờng, thơng mại hoá t liệu sản xuất, xoá bỏ cơ chế phân phối theo kế hoạch với giá thấp phần lớn vật t sản xuất đi đôi với bán vật t, hàng hoá cho nông dân theo giá thoả thuận đã xoá bỏ bức tờng giả tạo về hai thị trờng, thúc đẩy tự do hoá lu thông, hình thành quan hệ mua bán bình thờng, tự do kinh doanh theo giá cả thị trờng. Xoá bỏ phần lớn bao cấp qua bù giá, bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nớc, buộc các doanh nghiệp nhà nớc phải chuyển sang cơ chế tự chủ về tài chính phải đối mặt với thị trờng, xoá bỏ cơ chế giao nộp sản phẩm, chỉ còn một nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nớc. Qua đó cho thấy cơ chế thị trờng bớc đầu đã đợc hình thành: giá cả thị trờng hình thành theo quan hệ cung - cầu với quy luật cạnh tranh, quy luật lu thông tiền tệ đã trực tiếp tác động và góp phần điều tiết quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, điều tiết các nguồn lực và điều tiết tiêu dùng. Cơ chế thị trờng đã góp phần quan trọng vào việc huy động mọi nguồn lực của đất nớc và phát huy tính chủ động sáng tạo của các chru thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, tạo nên sự phát triển năng động nền kinh tế đất nớc. Từ thực tiễn phát triển kinh tế, Đại hội VII của Đảng (1991) đã khẳng định “Thị trờng có vai trò trực tiếp hớng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong môi trờng cạnh tranh và hợp tác”. Đối với doanh nghiệp Nhà nớc khi chuyển sang cơ chế thị trờng không tránh khỏi sự chao đảo cho nền nhà nớc đã dùng rất nhiều các biện pháp nh: - Xác định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trung trong kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nớc. Nhà nớc đã ban hành luật doanh nghiệp Nhà nớc, đồng thời tiến hành quản trị kin doanh trong các doanh nghiệp Nhà nớc. - Giảm dần khoản ngân sách bù lỗ cho các doanh nghiệp Nhà nớc. - Tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nớc trên toàn quốc theo hớng phát triển không tràn lan, tập trung củng cố và phát triển doanh nghiệp Nhà nớc trong những khu vực, những khâu then chốt của nền kinh tế: từ 12296 doanh nghiệp Nhà nớc năm 1991 đến tháng 7 - 1995 còn 5962 doanh nghiệp Nhà nớc, giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu trên 2000 doanh nghiệp Nhà nớc, sáp nhập gần 4000 doanh nghiệp Nhà nớc thành doanh nghiệp lớn hơn. Kinh tế quốc doanh trong 5 năm qua từ 1991 - 1995 đã có tốc độ tăng trởng gấp gần 1,5 lần tốc độ tăng trởng bình quân nền kinh tế, vầ gấp 2 lần so với tốc độ tăng trởng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hiệu quả kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp Nhà nớc bị làm ăn thua lỗ giảm xuống. Đối với khu vực kinh tế cá thể, t nhân và kinh tế hợp tác đợc chú trọng phát triển. Với phơng châm khuyến khích mọi ngời đầu t phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng theo pháp luật, đồng thời ngăn chặn làm ăn phi pháp, hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trờng, đã từng bớc hình thành khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách cho kinh tế cá thể, kinh tế t nhân và kinh tế hợp tác pháp triển có hiệu quả theo định hớng của Nhà nớc. Đặc biệt trong điều kiện đất nớc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và hội nhập thế giới thì vai trò của các doanh nghiệp rất quan trọng, Nhà nớc tạo môi trờng thuận lợi để cho doanh nghiệp nớc ngoài đầu t vào các doanh nghiệp trong nớc. Nhà nớc mở cửa cho các doanh nghiệp liên doanh với các doanh nghiệp nớc ngoài, góp vốn sản xuất, hội nhập vào thị trờng thế giới, cạnh tranh đợc trên thị trờng khu vực và thế giới. Nhà nớc khuyến khích sản xuất hớng về xuất khẩu, cả đối với đầu t trong nớc và đầu t nớc ngoài, đồng thời có chính sách bảo hộ sản xuất trong một cách hợp lý. Nhà nớc khuyến khích các doanh nghiệp ngày càng rút ngắn thời gian chu chuyển sản xuất, quá trình tuần hoàn sản xuất ngày càng lặp lại nhiều với chu kỳ sản xuất sau có số lợng lớn hơn và chất lợng lớn hơn lần tuần hoàn đầu tiên, nhất là phải thu về tỷ suất giá trị thặng d cao mới có thể duy trì sản xuất và đó cũng là tiền đề để cho trang bị kỹ thuật không bị hao mòn, tiền lơng đợc cải thiện, tạo việc làm ổn định cho công nhân. Sự phát triển lớn mạnh của các doanh nghiệp góp phần khắc phục tình trạng trì trệ, suy thoái nền kinh tế. Thế kỷ 21 đang đến gần nền kinh tế đất nớc đang chuyển mình đi lên con đờng phát triển ổn định và hiện đại. Sự phát triển của các doanh nghiệp hiện nay là tiền đề để phát triển mạnh trong tơng lai, hội nhập cùng sự phát triển chung của thế giới khẳng định vị trí của mình trên thị trờng quốc tế. Muốn đạt đợc những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có sự định hớng trong quản lý của nhà nớc đối với các doanh nghiệp trên con đờng lên chủ nghĩa xã hội. C. PHẦN KẾT LUẬN Đất nớc ta đang trên con đờng phát triển đi lên và hội nhập với thế giới. Để hoà nhập cùng sự phát triển chung của thế giới không chỉ phát triển trên lĩnh vực chính trị mà quan trọng là phát triển nền kinh tế. Với đa số dân số Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, cho nên vai trò của các doanh nghiệp rất quan trọng trong nền kinh tế nớc ta hiện nay. Nhng trong thực tế hiện nay quy mô còn rất nhỏ bé, hoạt động sản xuất kinh doanh cha có hiệu quả cao, đặc biệt là vốn đầu t còn nhỏ bé, vốn và trang bị kỹ thuật nhiều khi bị nhàn rỗi không đợc đa vào dây chuyền sản xuất, lu thông hàng hoá chậm chạp, cha nắm bắt đợc thị trờng, hàng sản xuất ra nhiều khi bị ứ đọng không bán đợc hoặc phải bán ra với giá cả bằng hoặc nhỏ hơn chi phí sản xuất dẫn đến việc tuần hoàn sản xuất không đợc liên tục. Nhiều doanh nghiệp phải tuyên bố giải thể hoặc tạm ngừng sản xuất, hoặc sáp nhập vào doanh nghiệp lớn, nền kinh tế đất nớc ngày càng có nguy cơ bị giảm sút. Đứng trớc tình hình ấy Đảng và Nhà nớc đã đề ra chính sách đổi mới nền kinh tế, chuyển nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN. Đây là bớc ngoặt căn bản đối với nền kinh tế đất nớc nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng, mở ra một thị trờng mới cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trờng, thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau và với các doanh nghiệp nớc ngoài. Các doanh nghiệp vận dụng cơ chế mới và vận dụng lý thuyết vào thực tiễn đã dần dần hoà nhập vào nền kinh tế mới. Vốn đầu t ngày càng thu hút đợc nhiều từ trong nớc và nớc ngoài, hạn chế vốn ứ đọng và đặc biệt là thiết bị máy móc không để nhàn rỗi mà luôn đợc đa vào hoạt động sản xuất, sau mỗi một chu kỳ sản xuất sản lợng ngày càng nhiều và chất lợng ngày càng nâng cao, thời gian chu chuyển rút ngắn lại... thành tựu mà doanh nghiệp đạt đợc một phần là do sự quản lý trong tổ chức doanh nghiệp và khả năng tiếp cận thị trờng tốt của các doanh nghiệp nhng cũng phải kể đến vai trò rất quan trọng cuả nhà nớc trong quản lý kinh tế. Nhà nớc định hớng các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo môi trờng thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trờng trong nớc và khả năng tiếp cận thị trờng quốc tế, nhà nớc tác động đến việc ổn định giá cả trên thị trờng để cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đồng thời nhà nớc thông qua pháp luật tạo môi trờng thoải mái cho các doanh nghiệp nớc ngoài đầu t vào trong nớc. Ngày nay các thành phần kinh tế của chúng ta đạt hiệu quả kinh tế cao, lý thuyêt tuần hoàn và chu chuyển của t bản của Mác - Lênin ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng. Cùng với sự vận dụng của khoa học lý thuyết vào thực tiễn và sự quản lý chặt chẽ của nhà nớc đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam đang cầm lái và chèo thuyền đa con thuyền kinh tế Việt Nam phát triển và hội nhập vào sự phát triển nền kinh tế chung của thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTiểu luận-Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản.pdf
Tài liệu liên quan