Tài liệu Tiểu luận Tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Trường đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
dúc
Bài tập cá nhân môn kinh tế chính trị
Đề bài: 1: Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
2 : Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp, công nghiệp,
thương mại và dịch vụ ở Việt Nam
3 : Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi ra nhập WTO
Câu 1: Đầu tư nước ngoài vào việt nam
1:Đầu tư trực tiếp
Sau 20 năm thi hành chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế Việt Nam đã thu hút được rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào với một lượng vốn lớn.
Sau 3 năm thăm dò 1988-1990, thời điểm Việt Nam mới thực thi luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn ít (214 dự án). Những năm 1991-1996 được xem là thời kì bùng nổ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và được coi như là “làn sóng đầu tư nước ngoài” đầu tiên vào Việt Nam với 1781 dự án được cấp giấy phép có tổng vốn đăng kí 28,3 tỉ USD.
Trong 3 năm 1997-1999, do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính từ cuộc khủng hoản...
19 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
dúc
Bài tập cá nhân môn kinh tế chính trị
Đề bài: 1: Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
2 : Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp, công nghiệp,
thương mại và dịch vụ ở Việt Nam
3 : Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi ra nhập WTO
Câu 1: Đầu tư nước ngoài vào việt nam
1:Đầu tư trực tiếp
Sau 20 năm thi hành chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế Việt Nam đã thu hút được rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào với một lượng vốn lớn.
Sau 3 năm thăm dò 1988-1990, thời điểm Việt Nam mới thực thi luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn ít (214 dự án). Những năm 1991-1996 được xem là thời kì bùng nổ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và được coi như là “làn sóng đầu tư nước ngoài” đầu tiên vào Việt Nam với 1781 dự án được cấp giấy phép có tổng vốn đăng kí 28,3 tỉ USD.
Trong 3 năm 1997-1999, do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu á nên các dự án đầu tư vào Việt Nam đã giảm. 961 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỉ USD. Cả năm 1997 số vốn đăng ký chỉ là 4894,2 triệu USD, bằng 54,5% năm 1996; năm 1998 có 285 dự án đăng ký với số vốn đăng ký là 4138 triệu USD, chỉ bằng 92,5% số dự án và 84,55 số vốn đăng ký của năm 1997; năm 1999 chỉ còn 1568 triệu USD vốn đăng ký, bằng 38,7% vốn đăng ký của năm 1998 và là năm thấp nhất kể từ năm 1991.
Từ năm 2000 – 2003, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001; năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, tăng 6% so với năm 2002. Xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 đạt 4,5 tỷ USD tăng 45,1% so với năm 2003; năm 2005 tăng 50,8%. Đặc biệt, trong 2 năm 2006 - 2007, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đã tăng đáng kể. Năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt tới mức kỉ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, trong đó đăng ký mới 17,86 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006 và tăng gấp đôi năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng, đăng ký bổ sung tính từ 1998 đến nay đạt 98,5 tỷ USD, thực hiện gần 42 tỷ USD.
Trong khi vốn đăng ký tăng mạnh qua các năm thì vốn thực hiện cũng có xu hướng tăng nhưng với tốc độ chậm. Nếu như cả giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới chỉ đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký mới (bao gồm phần vốn góp bên Việt Nam trên 1 tỷ USD – chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vài khoảng 6,1 tỷ USD ) thì trong thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ẩnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD ) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD), trong đó, vốn góp của bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng 2 năm 2006 và 2007, tổng vốn thực hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn đóng góp của bên Việt nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27 % tổng số vốn đăng ký mới, nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và là tiền đề cho việc giải ngân của hai năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong dự án cấp mới trong hai năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án đầu tư nước ngoài tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Thời kỳ 1988-1990, quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/ năm .Từ mức quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp giấy phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001- 2005. Điều này cho thấy, đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001- 2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong hai năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của 1 dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Itel, Panasonic, Piaggio…)
Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp –xây dựng. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
Trong năm 2007, tuy vốn đầu tư đăng ký trực tiếp tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006(31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí…
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD, chiếm 10,8% về số dự án, 5,37% tổng số vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006).
Sau 20 năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì vốn đầu tư đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế - xã hội chung và các vùng phụ cận.
Vùng trọng điểm phía bắc có 2220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước, trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng số vốn đăng ký 12,4 tỷ USD ) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng,Vĩnh Phúc và Hải Dương.
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút được 5293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó Thành Phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2397 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD ) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu.
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD, chiếm 6% tổng số vốn đăng ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD ) hiện đứng đầu các tỉnh miền trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng và Quảng Nam.
Tây Nguyên và các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Đồng Bằng Sông Cửu Long là những địa bàn thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thấp so với vùng khác, dù Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý khó khăn.
Qua 20 năm đã có 8 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Các nước Châu á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng số vốn đăng ký. Các nước Châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%, các nước Châu Mỹ chiếm 5% riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Ví dụ: tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mĩ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước Châu úc (New Zealand và Australia ) chỉ chiếm 1% tổng số vốn đăng ký.
Theo đối tác có vốn đầu tư vào nước ta hiện nay đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký trên 100 triệu USD, lớn nhất là Hàn Quốc 4463,2 triệu USD; tiếp đến là quần đảo Vigin thuộc Anh 4267,7 triệu USD; Singapore 2614,2 triệu USD; Đài Loan 1735,6 triệu USD; Malayxia 1091,2 triệu USD; Nhật Bản 965,2 triệu USD; Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên 460,5 triệu USD; Mỹ 358,3 vtriệu USD. Tính từ 1988 đến nay, đã có 18 nước và vùng lãnh thổ có số vốn đăng ký đạt trên 1 tỷ USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD; đứng thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD; thứ 3 là Đài Loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD ); quần đảo Vigin thuộc Anh gần 9,9 tỷ USD; Nhật Bản gần 9,4 tỷ USD; Hồng Kông trên 6,6 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD; tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Theo địa bàn có 23 địa phương đạt trên 100 triệu USD, đứng đầu là Thành Phố Hồ Chí Minh 2280,7 triệu USD; tiếp đến lầ Hà Nội 1990,8 triệu USD; Đồng Nai 1786,8 triệu USD; Bình Dương 1754,1 triệu USD; Đà Nẵng 872,1 triệu USD; Long An 809,4 triệu USD; Vĩnh Phúc 780,6 triệu USD; Hậu Giang 629 triệu USD; Thừa Thiên Huế 560,6 triệu USD. Bên cạnh những trung tâm, khu đô thị mới thu hút nhiều vốn; năm nay đã xuất hiện những địa danh mà những năm trước ít xuất hiện hoặc lượng vốn còn nhỏ nhưng hiện nay đã có lượng đăng ký lớn như Phú Yên, Hậu Giang, Ninh Bình 118,6 triệu USD, Thái Bình 27 triệu USD, Hà Nam 57,5 triệu USD, Thái Nguyên 100 triệu USD, Bến Tre 68,8 triệu USD, Sóc Trăng 15,5 triệu USD. Tính từ năm 1988 đến nay, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đứng đầu là Thành Phố Hồ Chí Minh gần 20,2 tỷ USD, tiếp đến là Hà Nội gần 14,6 tỷ USD, Đồng Nai gần 12,2 tỷ USD, Bình Dương gần 8,5 tỷ USD, Bà Rịa –Vũng Tàu gần 7,5 tỷ USD.
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đăng ký hiện nay:
Năm 1988tổng số vốn đăng ký là 341,7 triệu USD
Năm 1989 tổng số vốn đăng ký là 525,5 triệu USD
Năm 1990 tổng số vốn đăng ký là 735 triệu USD
Tổng cộng: 1602,2 triệu USD
Năm 1991, tổng vốn đăng ký 1291,5triệu USD, vốn thực hiện 328,8triệu USD.
Năm 1992, tổng vốn đăng ký 2208,5 triệu USD, vốn thực hiện 574,9 triệu USD.
Năm 1993, tổng vốn đăng ký 3037,4 triệu USD, vốn thực hiện 1017,5 triệu USD.
Năm 1994, tổng vốn đăng ký 4118,4 triệu USD, vốn thực hiện 2040,6 triệu USD.
Năm 1995, tổng vốn đăng ký 6937,2 triệu USD, vốn thực hiện 3961,8 triệu USD.
Tổng cộng : vốn đăng ký là 26259 triệu USD, vốn thực hiện là 6517,8 triệu USD.
Năm 1996, tổng vốn đăng ký 10164,1 triệu USD, vốn thực hiện 2714 triệu USD.
Năm 1997 tổng vốn đăng ký 5590,7 triệu USD, vốn thực hiện 3195 triệu USD.
Năm 1998 tổng vốn đăng ký 5099,7 triệu USD, vốn thực hiện 2367,4 triệu USD .
Năm 1999, tổng vốn đăng ký 2565,4 triệu USD, vốn thực hiện 2334,9 triệu USD.
Năm 2000 tổng vốn đăng ký 2838,9 triệu USD, vốn thực hiện 2415,5 triệu USD.
Tổng cộng: vốn đăng ký là 26259,0 triệu USD, vốn thực hiện 12944,8triệu USD.
Năm 2001, tổng vốn đăng ký 3142,8 triệu USD, vốn thực hiện 2450,5 triệu USD.
Năm 2002, tổng vốn đăng ký 2998,8 triệu USD, vốn thực hiện 2591,0 triệu USD.
Năm 2003, tổng vốn đăng ký3191,2 triệu USD, vốn thực hiện 2650 triệu USD.
Năm 2004, tổng vốn đăng ký4547,6 triệu USD, vốn thực hiện 2852,5 triệu USD.
Năm 2005, tổng vốn đăng ký 6839,8 triệu USD, vốn thực hiện 3308,8 triệu USD.
Tổng cộng: vốn đăng ký là 20720,2 triệu USD, vốn thực hiện là 13852,8 triệu USD.
Năm 2006, tổng vốn đăng ký 12003,8 triệu USD, vốn thực hiện 3956,5 triệu USD.
Năm 2007, tổng vốn đăng ký 21300 triệu USD, vốn thực hiện 6400 triệu USD.
Tổng cộng: vốn đăng ký 99548,2 triệu USD, vốn thực hiện 43671,7 triệu USD.
2: Đầu tư gián tiếp
Thực trạng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam:
Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vồn FDI nhưng nguồn vốn FII vẫn còn hạn chế. Sau năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng nhưng quy mô cồn nhỏ và chiếm tỉ lệ thấp so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động ở Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5 đến20 triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997) chiếm 1,2 vốn FDI tăng lên 3,7% năm 2004 tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực(tỷ lệ thu hút FII và FDI trong khoảng 30-40%).
Thực tế cũng cho thấy đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đã tăng rất mạnh. Đến cuối năm 2008, có khoảng 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Đó là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong thời gian qua, góp phần tăng cường năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm, gia tăng kim nghạch xuất khẩu hàng hoá, đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo viềc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài có vai trò trong chuyển giao công nghệ cũng tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ ,nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án đầu tư nước ngoài cũng tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
3: Những mặt còn hạn chế của đầu tư nước ngoài
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn những mặt hạn chế, bất cập.
So với vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực, số vốn thực hiện mới đạt 52,3% còn tới khoảng 40 tỷ USD chưa thực hiện. Trong tổng số 8590 dự án còn hiệu lực mới có khoảng b50% dự án triển khai. Tỷ trọng vốn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội của nước ta giảm từ 30% vào năm 1995 xuống 17% vào những năm 2000 cho tới nay.
Nhìn chung, công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thường cao hơn mặt bằng công nghệ của ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta . Tuy vậy, một số trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của những nước khác. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam còn hết sức khó khăn, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Cơ cấu phân bố và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài còn có những bất hợp lý, khi thì tập trung vào nột số ngành dễ thu lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh, khi thì tập trung vào một số ngành sản xuất được bảo hộ như xi măng, ô tô, xe máy, còn những dự án lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa ra lợi nhuận thoả đáng thì không thu hút được vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với việc lựa chọn địa điểm để triển khai dự án xảy ra tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi. Do đó, những địa phương có cảng biển, những thành phố lớn, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án đấu tư nước ngoài nhất. Trong khi đó các tỉnh miền núi vùng sâu, vùng xa những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm.
Tình trạng trên đã dẫn đến một nghịch lý. Những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được đầu tư nước ngoài nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ thấp, kém phát triển thì có ít dự án đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Về vốn đầu tư, phần lớn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là từ các nước Châu á (Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc…), chưa thu hút được nhiều đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển. Các nước G8 mới chiếm 23,7% tổng vốn ở Việt Nam. Đầu tư của Hoa Kỳ (nếu không kể đầu tư theo nước thứ 3 ) từ khi có hiệp định thương mại BTA giữa hai nước còn thấp so với tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều. Đầu tư của EU tại Việt Nam tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều và chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi bên.
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 đề ra cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là vốn đăng ký mới và tăng vốn đạt khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001-2005), vốn thực hiện khoảng 25 tỷ USD (tăng 70%-75% so vứi giai đoạn 2001-2005), doanh thu đạt khoảng 163,4 tỷ USD, xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu thô), nhập khẩu đạt 10,3 tỷ USD.
Những ngành sẽ ưu tiênthu hút đầu tư nước ngoài là ngành có tác động lớn trên các phương diện như: thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhất là ngành có công nghệ cao, tạo việc làm; các dự án sản xuất các sản phẩm dịch vụ có sức cạnh tranh; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng.; các ngành công nghiệp đặc biệt khuyến khích đầu tư công nghệ thông tin điện tử, công nghệ sinh học… , chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, coi trọng thu hút đầu tư nước ngoài gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, sẽ thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm tri phí đầu vào về nguyên –phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Về đối tác đầu tư: chú trọng hơn nữa vào việc thu hút đầu tư từ các tập đoàn xuyên quốc gia, nhất là các tập đoàn đến từ các trung tâm kinh tế lớn của thế giới như Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU theo hướng để thực hiện các dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu, tạo điều kiện để một số tập đoàn xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phát triển, vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực.
4: Nhận xét
Hiện nay, đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng vào việc phát triển kinh tế ở Việt Nam. Nhờ có đầu tư nước ngoài mà cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã được nâng cao một cách đáng kể, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết như vấn đề việc làm…, đầu tư nước ngoài cũng góp phần làm tăng GDP. ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài ngày càng rõ nét và lan rộng trên nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội của nước ta và đang trở thành nhân tố thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
Tuy nhiên, đầu tư nước ngoài còn phân bố chưa hợp lý chủ yếu các nhà đầu tư tập trung đầu tư vào những vùng đã có nền kinh tế khá phát triển, ít đầu tư vào các vùng như duyên hải miền trung, trung du miền núi.
Chính vì vậy, nhà nước ta cần cải thiện môi trường kinh tế pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt ở những vùng kém phát triển thì cần có những chính sách hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Câu 2: Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam.Nhận xét sự chuyển dịch đó.
1:Sự chuyển dịch
Việt Nam là một nước đi lên từ nông nghiệp và hiện nay đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, trong các ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch cơ cấu. Sự chuyển dịch đó được thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau:
- Xét về tổng thể, cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam đã có sự chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng nhóm ngành nông - lâm nghiệp –thuỷ sản tiếp tục giảm, tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp –xây dựng tăng lên, tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ đã chặn lại được sự giảm sút liên tục trong 10 năm từ 1995-2004 (năm 1995 là 44,06%, năm 1996 là 42,51%, năm1997 là 42,15%, năm 1988 là 41,73%, năm 1999 là 40,08%, năm 2000 là 38,74%, năm 2001 là 38,63%, năm 2002 là 38,46%, năm 2003 là 38%, năm 2004 là 37.98%) và từ 3 năm nay đã tăng nhẹ (năm 2005 là 38,01%;năm 2006 là 38,08 và sơ bộ năm 2007 là 38,14%).
- Trong nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản, tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm từ 19,82% năm 2000 xuống 15,85% năm 2005, xuống15,32% năm 2006 và năm 2007 chỉ còn 15,18%; của ngành thuỷ sản đã tăng từ 3,37% năm 2000 lên 3,93% năm 2005, năm 2006 và 4,03%năm 2007.
- Cơ cấu nhóm ngành nông - lâm –ngư nghiệp trong thời kỳ 2001-2007 đã chuyển dịch theo hướng: chuyển từ cây con có giá trị tăng thêm thấp sang cây con có giá trị tăng thêm cao; chuyển từ các sản phẩm cung đã vượt cầu sang các sản phẩm có thi trường tiêu thụ rộng lớn hơn. Năm 2007 so với năm 2000, diện tích lúa cả năm giảm 1024 nghìn ha, ngô tăng 338 nghìn ha, khoai lang giảm 77 nghìn ha, sắn tăng 259 nghìn ha, bông giảm 6 nghìn ha, đay tăng 6 nghìn ha, cói tăng gần 5 nghìn ha, chè tăng 38 nghìn ha, mía giảm gần 12 nghìn ha, lạc gần 10 nghìn ha, đậu tương tăng 66 nghìn ha, thuốc lá giảm trên 5 nghìn ha, cà phê giảm gần 56 nghìn ha (nhưng do được giá năm 2007 đã tăng gần 10 nghìn ha so với năm 2006), cao su tăng gần 138 nghìn ha, điều tăng trên 241 nghìn ha, hồ tiêu giảm 20 nghìn ha, dừa giảm gần 27 nghìn ha, trâu tăng 99nghìn con, bò tăng 2597 nghìn con, lợn tăng gần 6,4 triệu con (nhưng năm 2007 đã giảm 294 nghìn con so với năm 2006), gia cầm tăng 30 triệu con, diện tích mặt nước nuôi cá tăng 366 nghìn ha. Trong tổng giá trị ngành thuỷ sản tính theo giá thực tế, giá trị sản xuất thuỷ sản nuôi trồng năm 2007 ước đã chiếm trên 2/3 cao gấp đôi tỷ trọng 32,6% của năm 1996, cao gấp rưỡi tỷ trọng 44,4% của năm 2000.
- Trong những năm cuối của thập kỷ 80, cơ cấu ngành công nghiệp của nước ta có sự chuyển dịch rõ rệt nhằm thích ứng với tình hình mới và có thể hoà nhập vào thị trường thế giới. Sự chuyển biến này trước hết thể hiện ở sự thay đổi tỷ trọng giữa những ngành công nghiệp nhóm A và ngành công nghiệp nhóm B.
- Từ 1980 - 1989: Tăng tỷ trọng giá trị sản lượng nhóm B (1980:62,2% đến năm 1989 tăng lên 71,1%. Trong vòng 9 năm ngành công nghiệp nhóm B tăng lên 8,9%); giảm tỷ trọng giá trị sản lượng nhóm A (1980:37,8% đến năm 1989 chỉ còn 28,9%).
- Từ1990-1998 thì lại có sự chuyển dịch ngược lại, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp nhóm A (công nghiệp nhẹ), giảm tỷ trọng các ngành công nghiệp nhóm A (công nghiệp nặng).
- Trong GDP của cả nước năm 2007, công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 21,38% cao hơn tỷ trọng 18.56%của năm 2000 và 21,25% của năm 2006, trong khi các con số của khai thác mỏ tương ứng là 9,79%; 9,65% và 10,26% và công nghiệp điện nước là 3,48% ;3,17%; 3,43%. Công nghiệp chế biến tăng lên là phù hợp với xu hướng công nghiệp hoá, bởi tỷ trọng này thể hiện đặc trưng cơ bản nhất, thường được các chuyên gia sử dụng làm tiêu chí phân biệt một nước nông nghiệp hay đã chuyển sang công nghiệp. Một số sản phẩm công nghiệp chế biến tăng với tốc độ cao, như máy công cụ, ô tô, điều hoà nhiệt độ, quần áo may sẵn …là những sản phẩm có thị trường tiêu thụ trong nước nhờ có mức tiêu dùng tăng cao, xuất khẩu ra nước ngoài nhờ cắt giảm thuế quan và phi thuế quan nhập khẩu vào các nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tỷ trọng khai thác mỏ giảm là phù hợp với chủ trương tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên của đất nước trong điều kiện giá cả thế giới ngày một tăng do nhu cầu tăng cao, trữ lượng ngày một cạn kiệt. Tỷ trọng GDP của ngành xây dựng năm 2007 đã cao hơn năm 2000 (6,96%so với 5,35%).
GDP một số ngành dịch vụ trong GDP của cả nước năm 2007 đã cao hơn năm 2000,như khách sạn nhà hàng (3,93% so với 3,25%) vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc (4,44% so với 3,93%), hoạt động khoa học và công nghệ (0,62% so với 0,53%). Nhờ có, sự phát triển hơn cả các ngân hàng thương mại cổ phần và có sự tham gia của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nên tỷ trọng GDP của nghành tài chính, tín dụng năm 2007 đã đạt 1,81%, cao hơn các con số 1,77% của năm 2003;1,78% năm 2004; 1,80% của năm 2005.
2:Nhận xét
Cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam đang có sự chuyển dịch ngày càng hợp lý phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và quá trình hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, khi giảm tỷ trọng nông nghiệp thì vẫn phải có những biện pháp để tăng sản lượng.
- Để giảm tỷ trọng nông nghiệp nhưng sản lượng vẫn tăng thì ta phải có một số biện pháp như:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
Tăng cường công nghiệp và dịch vụ…
- Để tăng tỷ trọng GDP của công nghiệp và dịch vụ thì phải tập trung vào phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao.
CÂU 3: Việt Nam Hội nhập WTO cơ hội và thách thức
1. Cơ hội:
Khi gia nhập WTO Việt Nam có những cơ hội chủ yếu sau.
- Một là: Khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ không bị phân biệt đối xử.
- Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được mở rộng.
- Ba là: Gia nhập WTO Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hộ để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước của doanh nghiệp.
- Bốn là: Việc gia nhập WTO hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn có hiệu quả hơn.
- Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
2. Thách thức:
Khi gia nhập WTO, Việt Nam không chỉ có cơ hội mà còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức:
- Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn với nhiều “đối thủ ” hơn, trên bình diện rộng hơn.
- Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp hơn thì được lợi ít hơn.
-Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trông một thời gian toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là một khó khăn không nhỏ.
- Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra nhứng vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền.
Nguy cơ:
Khi tư cách thành viên có hiệu lực, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nới lỏng thị phần và bước vào một giai đoạn điều chỉnh nhanh. Các doanh nghiệp Việt Nam được cho là có chất lượng chưa cao, công nghệ lỗi thời, giá cao hệ thống phân phối yếu và kiến thức chưa đầy đủ về hệ thống pháp luật.
- Nhiều công ty và doanh nghiệp chưa quen các quan điểm mới và thực tiễn của WTO. Hệ thống phấp luật hiện nay sẽ thay đổi nhiều hơn nữa, dẫn tới việc trong thời kỳ cạnh tranh các doanh nghiệp này sẽ bị áp lực.
- Hệ thống phân phối của Việt Nam đối với thị trường trong nước sẽ gặp thách thức lớn từ các công ty nước ngoài.
- Tất cả các ngành công nghiệp nội địa Việt Nam sẽ gặp những cấp độ cạnh tranh cao hơn. Độc quyền nhà nước trong viễn thông, điện lực sẽ bị áp lực mở cửa.
- Tình trạng phá sản sẽ đặt ra những vấn đề về thất nghiệp và bất ổn xã hội, gây áp lực cho việc chính phủ phải chi trợ cấp xã hội và tái đào tạo.
- Thay đổi nhanh trong kinh tế tiếp tục dẫn tới việc xuống cấp môi trường, trong khi dòng vốn nước ngoài trong một số trường hợp sẽ gây ra sự bất ổn về tài chính.
3. Nhận xét
Gia nhập WTO là một cơ hội tốt với Việt Nam để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp phải không ít những khó khăn thách thức. Nếu không khắc phục được khó khăn, có thể làm cho nền kinh tế Việt Nam tụt dốc. Ngoài ra, hội nhập kinh tế còn kéo theo hội nhập về văn hoá. Chính vì vậy, Nhà nước ta phải đưa ra các chính sách thích hợp để phát huy những cơ hội hạn chế khó khăn thách thức để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhưng vẫn giữ được truyền thống văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
MụC LụC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (110).doc