Tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về tài chính tiền tệ: Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ
1.1.1. Nguồn gốc ra đời và khái niệm tiền tệ
1.1.1.1. Nguồn gốc ra đời
Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thấp, con người thường chỉ có một số sản phẩm ít ỏi thu về sau một ngày săn bắn, hái lượm. Khi đời sống cộng đồng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. Trong giai đoạn này, trao đổi sản phẩm mang tính ngẫu nhiên và được thực hiện bằng phương thức trao đổi sản phẩm trực tiếp H – H’.Đây là bước tiến lớn để xã hội công xã thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp.
Tuy nhiên, quá trình trao đổi hàng hoá ở giai đoạn này còn rất sơ khai và chủ yếu được thực hiện dựa trên nguyên tắc sự trùng khớp ngẫu nhiên về nhu cầu sử dụng.Tức là đòi hỏi các cá nhân tham g...
64 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 3462 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về tài chính tiền tệ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ
1.1.1. Nguồn gốc ra đời và khái niệm tiền tệ
1.1.1.1. Nguồn gốc ra đời
Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thấp, con người thường chỉ có một số sản phẩm ít ỏi thu về sau một ngày săn bắn, hái lượm. Khi đời sống cộng đồng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. Trong giai đoạn này, trao đổi sản phẩm mang tính ngẫu nhiên và được thực hiện bằng phương thức trao đổi sản phẩm trực tiếp H – H’.Đây là bước tiến lớn để xã hội công xã thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp.
Tuy nhiên, quá trình trao đổi hàng hoá ở giai đoạn này còn rất sơ khai và chủ yếu được thực hiện dựa trên nguyên tắc sự trùng khớp ngẫu nhiên về nhu cầu sử dụng.Tức là đòi hỏi các cá nhân tham gia vào quá trình trao đổi hàng hóa phải trực tiếp gặp nhau và đặc biệt là phải có sự phù hợp về nhu cầu trao đổi với nhau.Ví dụ như một người cần vải vóc và có thóc phải gặp được người cần thóc và có vải thì sự trao đổi hàng hoá mới có thể diễn ra.Như vậy, việc thực hiện giá trị của một hàng hoá này phụ thuộc vào giá trị sử dụng của một hàng hoá khác. Ngoài ra, trong hình thức trao đổi này người ta còn phải thoả thuận về tỷ lệ giá trị của hàng hoá, về số lượng hoá trao đổi,... Cùng với việc cải tiến công cụ lao động và quá trình phân công lao động xã hội ngày một sâu sắc hơn, nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, do đó, hình thái biểu hiện giá trị của các hàng hóa không còn mang tính ngẫu nhiên nữa. Lúc này, hàng hoá trên thị trường đã phong phú đa dạng hơn, đòi hỏi phạm vi trao đổi phải được mở rộng hơn.
Sự phát triển của quá trình trao đổi hàng hóa dẫn đến vật trung gian trong trao đổi hàng hoá đã ra đời.Quá trình trao đổi được thể hiện dưới phương trình H-vật trung gian-H’. Ban đầu vật trung gian hay vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp được với nhiều hàng hoá thông thường khác. Đặc điểm của chúng là có giá trị sử dụng thiết thực, quý hiếm, dễ bảo quản, vận chuyển và mang tính đặc thù địa phương. Về sau, với sự phát triển của trao đổi, vật ngang giá chung chỉ giới hạn ở một số hàng hoá quý hiếm và có ý nghĩa tượng trưng như da thú, vỏ sò, vòng đá,... Khi lực lượng sản xuất phát triển, phạm vi không gian trao đổi hàng hóa được mở rộng, đồng thời, khi trao đổi hàng hoá đã trở thành nhu cầu thường xuyên của con người thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung đã gây khó khăn cho sự lưu thông trao đổi hàng hoá, khi đó vật ngang giá chung bằng kim loại khẳng định được ưu thế và thay thế dần các vật ngang giá chung khác. Kim loại đầu tiên được sử dụng làm vật ngang giá chung là sắt và kẽm, sau đó là đồng và bạc. Đến đầu thế kỷ XIX, với những đặc điểm ưu việt của mình như tính quý hiếm, tính dễ dát mỏng, chia nhỏ, tính lâu bền và gọn nhẹ...vàng bắt đầu đóng vai trò vật ngang giá chung và hình thái tiền tệ được cố định ở vàng, gọi là “kim loại tiền tệ”. Như vậy, khi vàng độc chiếm vị trí vật ngang giá chung thì cái tên “vật ngang giá chung” được thay bằng “tiền tệ”.
Có thể nói sự ra đời của vật ngang giá chung trong trao đổi đã đánh dấu giai đoạn mở đầu cho sự xuất hiện của tiền tệ, đồng thời là bước chuyển hoá từ nền kinh tế trao đổi trực tiếp sang nền kinh tế tiền tệ. Sự hoàn thiện từng bước của vật ngang giá chung mà kết quả là sự xuất hiện của tiền tệ ở đầu thế kỷ XIX, không những phản ánh số lượng và chủng loại hàng hoá đưa ra thị trường ngày càng phong phú, mà còn phản ánh trình độ sản xuất hàng hoá đã tiến bộ vượt bậc so với thời gian trước đây. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tiền tệ là một phạm trù kinh tế lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loài người trong lĩnh vực kinh tế. Kể từ khi ra đời, tiền tệ đã trở thành tác nhân thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế - xã hội. Theo K.Mark: “Tiền tệ ra đời là một sự tất yếu khách quan, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của quá trình trao đổi, là hình thái giá trị phát triển cao nhất trong trao đổi”C.Mác. Tư bản, Quyển 1, Tập 1, NXB Sự thật Hà nội, 1962, Tr 134
.
1.1.1.2. Khái niệm tiền tệ
K.Mark (1818-1883) dưới cái nhìn của một nhà biện chứng duy vật đã nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ qua sự phát triển các hình thái giá trị và ông đã khẳng định: tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hoá, từ thế giới hàng hoá tách ra.Theo quan điểm của K.Mark, tiền tệ được định nghĩa như sau: Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới hàng hóa, được dùng làm vật ngang giá chung để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hóa khác và thực hiện trao đổi giữa chúng.
Tiền tệ ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát sinh, tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quá trình này chứng minh rằng “...cùng với sự chuyển hoá chung của sản phẩm lao động thành hàng hoá, thì hàng hoá cũng chuyển hoá thành tiền tệ”C.Mác. Tư bản, Quyển 1, Tập 1, NXB Sự thật Hà nội, 1962, Tr 138
. Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt. Do đó, cũng như các hàng hoá khác, tiền tệ có hai thuộc tính : giá trị và giá trị sử dụng. Để sáng tạo ra tiền tệ, cũng có lượng hao phí lao động sống của những người thợ khai thác vàng, thợ đúc tiền kết tinh trong đồng tiền vàng, và với vai trò là trung gian trong trao đổi hàng hóa, có thể trao đổi với tất cả các hàng hóa khác thì lúc này tiền tệ có khả năng giúp con người thỏa mãn mọi nhu cầu sử dụng . Như vậy, tiền tệ có giá trị sử dụng đặc biệt : giá trị sử dụng xã hội. K.Mark nhận xét: “ giá trị sử dụng của hàng hoá bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”.C.Mac. Góp phần phê phán chính trị kinh tế học. NXB Sự thật Hà Nội, 1964, Trg 129
Lịch sử của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã chứng minh rằng nền kinh tế hàng hoá là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển theo một quy luật khách quan. Bước vào thế kỷ 20, cùng với sự phong phú của đời sống kinh tế, khi đề cập đến tiền tệ người ta không nhìn nó một cách hạn hẹp và giản đơn rằng tiền tệ chỉ là tiền kim loại hay tiền giấy mà đã xem xét trên giác độ rộng hơn kể cả các loại séc, số dư tiền gửi tại ngân hàng,... nếu chúng có thể chuyển đổi dễ dàng thành tiền mặt thì cũng có thể xem là tiền theo nghĩa rộng. Samuelson đã viết: “ Bản chất của tiền tệ ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta muốn có tiền tệ với danh nghĩa là tiền chứ không phải hàng hoá, không phải vì bản thân nó mà vì những thứ mà dùng nó sẽ mua được”P.A.Samuelson – Kinh tế học I – Viện quan hệ quốc tế 1989 – Trg 332
... “bản chất của tiền tệ là để dùng làm phương tiện trao đổi”P.A.Samuelson – Kinh tế học I – Viện quan hệ quốc tế 1989 – Trg 332
.
Ngày nay, ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, tiền tệ không đơn thuần là phương tiện trao đổi mà người ta còn sử dụng tiền để đầu tư, để cho vay và xem như một dạng của cải, một đối tượng để sở hữu.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền tệ là bất cứ thứ gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ và thực hiện các nghĩa vụ tài chính.
1.1.2. Các hình thái tiền tệ
Với quan điểm về tiền tệ rất rộng mở của các nhà kinh tế học hiện đại, từ khi xuất hiện tới bây giờ, tiền tệ từ đã trải qua các hình thái sau đây.
1.1.2.1. Hoá tệ ( commodity money)
- Hoá tệ phi kim loại
Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển, hình thái biểu hiện của giá trị hàng hóa trong trao đổi không còn ngẫu nhiên. Phạm vi của trao đổi đã vượt khỏi cái khung nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng mở rộng giữa các hàng hoá, đòi hỏi phải có một hàng hoá có tính đồng nhất, tiện dụng trong vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi và bảo tồn giá trị.
Khoảng 2000 năm trước công nguyên, vật ngang giá chung sử dụng trong trao đổi hàng hóa thường được chọn từ một loại hàng hoá có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, có thể bảo tồn lâu ngày đồng thời mang tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi. Thời cổ đại ở Trung Quốc, vật ngang giá chung rất đa dạng từ da cừu, vỏ trai đến thóc, vải... ; ở Hy Lạp, La Mã dùng súc vật; Tây Tạng, Mông Cổ dùng chè; Bắc Mỹ dùng thuốc lá,…. làm vật trung gian trong trao đổi. Và ngày nay, một số bộ lạc ở Châu Phi, Châu Úc còn dùng cá khô, thuốc lá làm vật trung gian trao đổi.Những hoá tệ dạng này có nhiều nhược điểm gây khó khăn cho quá trình trao đổi hàng hóa. Do mỗi vùng, mỗi địa phương chọn một hay một số loại hàng hóa làm vật ngang giá chung để trao đổi trong phạm vi địa phương mình nên đã dẫn đến tính không đồng nhất về hình thái và chất lượng của vật ngang giá chung. Bên cạnh đó, những vật ngang giá chung có ý nghĩa thiết thực đối với dân cư như gia súc, lương thực,…nhưng lại khó bảo quản trong thời gian dài; khó vận chuyển từ nơi này đến nơi khác do tính cồng kềnh; khó phân chia hay gộp lại nên không thuận tiện khi tham gia trao đổi với các hàng hóa có giá trị quá nhỏ hay quá lớn so với vật ngang giá chung.
Mặt khác, theo đà phát triển của nền sản xuất, sự hình thành một thị trường rộng lớn đã đòi hỏi vật ngang giá chung mang tính phổ biến và đồng nhất hơn, do đó dẫn đến việc sử dụng tiền tệ kim loại.
- Hoá tệ kim loại
Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và phát triển rộng rãi trong suốt thời kỳ các triều đại phong kiến. Kim loại được chọn làm bản vị cho chế độ tiền tệ các nước cũng được thay thế từ những kim loại kém giá (sắt, đồng, kẽm...) đến những kim loại có giá trị cao (bạc, vàng). Để thuận tiện hơn trong quá trình sử dụng, một số thương nhân đã tự in đúc tiền và sau này nhà nước chính thức ban hành tiêu chuẩn giá cả cho đồng tiền quốc gia và thống nhất kỹ thuật in – đúc tiền để đảm bảo uy tín, tính chất pháp lý của đồng tiền, đồng thời chứng thực quyền lực nhà nước.
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển mạnh mẽ đòi hỏi vật trung gian trao đổi phải có giá trị cao, tồn tại như một hình thức được nhiều người chấp nhận và phải có độ bền để bảo tồn giá trị theo thời gian. Từ đó, vàng và bạc đã loại dần các kim loại kém giá, dễ rỉ sét để trở thành tiền tệ phổ biến trong khoảng thế kỷ 18 và 19. Trong giai đoạn này, có những nước đã thực hiện chế độ song bản vị, nghĩa là cùng thừa nhận vàng và bạc là tiền tệ trong lưu thông. Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta phát hiện ra nhiều mỏ bạc, năng suất khai thác bạc tăng lên, kim loại bạc được tạo ra nhiều hơn nên giá trị của nó đã bị suy giảm so với vàng. Khi đó, vai trò trung gian trong trao đổi hàng hóa của bạc đã bị sụt giảm rất nhiều so với vàng và kim loại vàng đã trở thành thước đo giá trị của bạc. Lúc này, hầu hết các nước phương Tây đã áp dụng chế độ bản vị vàng. Mối quan hệ giao thương bị phụ thuộc nhiều vào châu Âu nên các nước châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông Dương,... sau đó cũng lần lượt chuyển sang chế độ bản vị vàng.
Hoá tệ kim loại có ưu điểm là tính chất đồng nhất cao về chất lượng, giá trị ít biến đổi, dễ bảo quản, vận chuyển, chia nhỏ hay gộp lại... và đặc biệt là khi vàng được sử dụng làm tiền tệ thì các ưu điểm trên càng nổi trội hơn. Tuy nhiên vẫn có nhược điểm là nguồn khai thác có hạn. Khi quy mô sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi thì nguồn hoá tệ kim loại không còn đủ khả năng đáp ứng, do đó, các nước dần chuyển sang sử dụng tín tệ.
1.1.2.2. Tín tệ:
Tín tệ là loại tiền tệ mà bản thân tự nó không có giá trị (hoặc giá trị nội tại không đáng kể so với giá trị danh nghĩa), song nhờ có sự tín nhiệm của mọi người mà có giá trị trao đổi và được sử dụng trong lưu thông.
Có các dạng tín tệ cơ bản sau:
- Tín tệ kim loại
Tiền bằng kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với kim loại tiền tệ thuộc hình thái hoá tệ. Ở hình thái này giá trị nội tại của kim loại thường không phù hợp với giá trị danh nghĩa. Ở thời kỳ đầu của tín tệ kim loại, các kim loại có giá trị cao như vàng, bạc được sử dụng làm tín tệ kim loại. Tuy nhiên, khi việc khai thác những kim loại này ngày càng khó khăn, giá trị những kim loại này ngày càng cao, dẫn đến việc phát hành và lưu hành đồng tín tệ là vàng và bạc cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Vì thế, cần thiết phải có một loại tiền tệ khác thay thế cho phù hợp với yêu cầu trong trao đổi lưu thông và thanh toán hàng hóa dịch vụ. Ngày nay, tín tệ kim loại vẫn được sử dụng trong lưu thông dưới dạng các loại tiền đúc bằng kim loại kém giá (tiền xu của các quốc gia).
- Tiền giấy
Tiền giấy khả hoán
Tiền giấy khả hoán là loại tiền giấy được ấn định tiêu chuẩn giá cả bằng vàng và có thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo hàm lượng Nhà nước đã công bố.Tiền giấy khả hoán được lưu hành trong chế độ bản vị vàng hối đoái, khi số lượng tiền đúc bằng vàng trong lưu thông không đủ để làm phương tiện trao đổi, Nhà nước phát hành tiền giấy vào lưu thông và công bố hàm kim lượng của đồng tiền. Tiền giấy khả hoán là 1 mảnh giấy được in thành tiền để lưu hành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc mà người ta kí gửi ở ngân hàng. Người có loại tiền giấy này có thể đến ngân hàng để đổi lấy 1 số lượng vàng hay một số lượng bạc tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy được sử dụng làm tiền vào bất cứ lúc nào mà họ cần.
Như vậy, bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền giấy khả hoán đó đổi lấy vàng hay bạc có giá trị tương đương với giá trị được ghi trên tiền giấy khả hoán đó. Ở Trung Hoa từ đời Tống đã xuất hiện tiền giấy. Vì những nhu cầu mua bán, các thương gia hình thành từng thương hội có nhiều chi nhánh ở khắp các thị trấn lớn. Các thương gia ký thác vàng hay bạc vào hội sở của thương hội rồi nhận giấy chứng nhận của hội sở thương hội, với giấy chứng nhận này các thương gia có thể mua hàng ở các thị trấn khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài loại giấy chứng nhận trên triều đình nhà Tống còn phát hành tiền giấy và được dân chúng chấp nhận.
Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy. Nhân dân ai cũng phải nộp tiền kim loại (vàng nén hoặc bạc nén) vào cho Nhà nước, cứ 1 quan tiền kim loại đổi được 2 quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật đổ, dân chưa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền kim loại và tiền giấy (bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn).
Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các nước Châu Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung cấp cho những thân chủ gởi vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể đem những tờ nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho người khác các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận. Sau đó một ngân hàng Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Với nhiều loại tiền giấy được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loại vì nhiều nhà ngân hàng lạm dụng gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do đó, vua chúa các nước phải can thiệp vì cho rằng việc đúc tiền từ xưa là vương quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to lớn. Vương quyền các nước Châu Âu thừa nhận một ngân hàng tự có quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định:
+ Điều kiện khả hoán: có thể đổi lấy bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành
+ Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo: ban đầu là 100% sau còn 40%
+ Điều kiện phải cho Nhà nước vay không tính lãi khi cần thiết.
Tiền giấy bất khả hoán
Tiền giấy bất khả hoán (tiền phù hiệu) là tiền giấy được ấn định tiêu chuẩn giá cả bằng pháp luật, bắt buộc lưu hành và không thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo tiêu chuẩn Nhà nước quy định.
Sự xuất hiện của tiền giấy bất khả hoán trong lịch sử đã được đánh dấu bởi hai hai mốc thời gian quan trọng là Đại chiến thế giới lần thứ nhất và khủng hoảng kinh tế thế giới 1929. Thế chiến thứ nhất đã làm cho các quốc gia tham chiến không còn đủ vàng để đổi cho dân chúng. Nước Anh từ năm 1931 đã cưỡng chế lưu hành tiền giấy bất khả hoán, nước Pháp năm 1936. Năm 1929, khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn đến ở nước Đức mọi người đua nhau rút tiền, do đó Ngân hàng Trung ương Đức đã phải dùng vàng trả nợ nước ngoài và do đó số trữ kim gần như không còn. Tiến sĩ Schacht (1933 – 1936) đã áp dụng chính sách tiền tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu, để tài trợ sản xuất và những chương trình kinh tế, xã hội lớn. Biện pháp này làm giảm 50% thất nghiệp, sản xuất tăng 41% (1934). Từ đó, nhiều nhà kinh tế cho rằng giá trị tiền tệ không phải dựa vào dự trữ vàng như các quan điểm trước đây.
Ngày nay các nước đều áp dụng chế độ lưu thông tiền giấy. Tiền giấy do ngân hàng trung ương thống nhất phát hành là đồng tiền hợp pháp được lưu hành với giá trị bắt buộc và nhà nước không thực hiện chuyển đổi tiền giấy ra vàng. Tuy nhiên, vàng vẫn được thừa nhận là một trong những cơ sở đảm bảo của giấy bạc lưu hành cũng như là một tiêu chuẩn để xác định tính chất mạnh, yếu của các loại tiền giấy trên thị trường quốc tế. Tiền giấy được sử dụng làm phương tiện trao đổi ngày càng phổ biến vì những tiện lợi như dễ mang theo trong người, dễ cất giữ. Mặt khác, việc in tiền với nhiều mệnh giá khác nhau có thể đáp ứng cho nhu cầu trao đổi chi ly và chính xác.
Dễ bị làm giả
Chi phí lưu thông cao
Có thể gây ra hiện tượng lạm phát nếu phát hành…..
- Bút tệ ( bank money)
Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ chỉ được tạo ra thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, bút tệ không có hình thái vật chất và chỉ là những con số thể hiện số dư trên tài khoản ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng, quá trình thanh toán ngày nay được tập trung đại bộ phận qua ngân hàng thông qua các bút toán chuyển khoản hoặc thanh toán bù trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ cùng với các chứng từ thanh toán như séc, giấy chuyển ngân, giấy nhờ thu... đã làm đa dạng các phương tiện thanh toán bên cạnh hình thức thanh toán bằng tiền mặt, đồng thời còn tạo điều kiện giảm bớt những chi phí lưu hành tiền giấy như in ấn, bảo quản, kiểm điểm, vận chuyển. Vì vậy, việc sử dụng tiền ghi sổ được coi là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế phát triển. Bút tệ có những ưu điểm hơn hẳn tiền giấy, có thể kể đến như: Sử dụng bút tệ an toàn hơn do tránh được rủi ro mất mát; quá trình sử dụng bút tệ để giao dịch qua hệ thống ngân hàng thuận tiện, tiết kiệm chi phí và thời gian giao dịch so với việc giao dịch bằng tiền mặt; việc chuyển đổi bút tệ sang tiền mặt được thực hiện một cách nhanh chóng, dễ dàng. Bên cạnh những ưu thế trên, bút tệ cũng có những hạn chế nhất định. Khi sử dụng bút tệ trong thanh toán thì người sử dụng phải chịu phí giao dịch, mức phí này do các tổ chức tín dụng ấn định, thường là ở một mức tối thiểu và một tỉ lệ % so với tổng số tiền giao dịch. Chính vì thế, khi giao dịch bút tệ với quy mô nhỏ lẻ thì người sử dụng có thể phải gánh chịu cho phí giao dịch rcao. Ngoài ra, muốn sử dụng được loại tiền này, đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải được đầu tư đầy đủ về mặt cơ sở vật chất kỹ thuật và phải tuân thủ những quy trình thủ tục nhất định.
- Tiền điện tử (electronic money)
Tiền điện tử là hình thức phát triển cao của tiền ghi sổ (bút tệ) được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động hay còn gọi là hộp ATM (Automated teller machine). Đây là một hệ thống máy tính điện tử nối mạng với hệ thống ngân hàng trung gian và kho chứa tiền mặt cũng như hệ thống thanh toán phục vụ cho việc thanh toán, chi trả của các chủ thể trong xã hội. Tiền điện tử tồn tại và được sử dụng thông qua các công cụ là các loại thẻ thanh toán như: thẻ tín dụng ( Credit cards), thẻ ghi nợ (Debit cards),…
Tóm lại: Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn mang dấu ấn của nền văn minh nhân loại. Điều này đã được minh chứng qua quá trình phát triển các hình thức tiền tệ, từ hình thức sơ khai ban đầu là hoá tệ không kim loại cho đến tiền điện tử ngày nay. Ngoài ra, tiến trình phát triển này còn biểu hiện cho sự chuyển biến sâu sắc về quan niệm tiền tệ của những người sở hữu nó, đó là từ quan niệm tiền tệ không chỉ là phương tiện trao đổi mà còn phải được thừa nhận là biểu trưng cho của cải xã hội (hoá tệ, kim tệ) cho đến phi vật chất hoá tiền tệ (bút tệ, tiền giấy, tiền điện tử) đã ngày càng được xem là nét đặc trưng cơ bản của quan niệm tiền tệ hiện tại.
1.2. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA TIỀN TỆ
1.2.1. Chức năng của tiền tệ
Nếu trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế hàng hoá người ta chỉ sử dụng tiền tệ như một công cụ trao đổi thì cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá tiền tệ đã thể hiện ngày càng đa dạng hơn các chức năng vốn có của mình.
Trong học thuyết của K.Marx, ông cho rằng vàng trong vai trò là vật ngang giá chung có thể thực hiện 5 chức năng:
Chức năng thước đo giá trị
Chức năng phương tiện lưu thông
Chức năng phương tiện thanh toán
Chức năng phương tiện cất trữ giá trị
Chức năng tiền tệ thế giới
Ngày nay, chế độ lưu thông tiền kim loại đã nhường chỗ cho chế độ lưu thông tiền giấy không chuyển đổi ra vàng đang được các nước áp dụng. Mặc dù vàng vẫn được thừa nhận là thước đo giá trị, phương tiện cất giữ và tiền tệ thế giới nhưng người ta đã hạn chế sử dụng vàng trực tiếp làm phương tiện trao đổi ở phạm vi lưu thông hàng hoá trong nước cũng như mậu dịch quốc tế. Do đó, với sự đa dạng về các hình thức tiền tệ được sử dụng trong điều kiện kinh tế hiện nay, các nhà kinh tế đã xem xét các chức năng của tiền tệ ở một giác độ tổng quát hơn.
* Chức năng thước đo giá trị
Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi nó đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác và chuyển giá trị của hàng hoá thành giá cả hàng hoá.
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, giá trị của tiền được coi là “chuẩn mực” để giá trị của tất cả các hàng hoá khác phải so sánh với nó. Như vậy, thông qua quan hệ này các hàng hoá biểu hiện giá trị của mình thành những lượng có cùng tên giống nhau về chất và có thể so sánh được với nhau về lượng, đó là giá cả.
Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ trở thành một “tiêu chuẩn” để đo lường hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hoá. Đây là chức năng cơ bản nhất của tiền tệ. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có những điều kiện sau:
Tiền phải có đầy đủ giá trị.
Tiền phải có tiêu chuẩn giá cả : còn gọi là hàm kim lượng của đồng tiền
Theo nguyên lý chung, hệ thống thước đo giá trị của mỗi quốc gia bao gồm:
Tiền đơn vị (gắn với tên gọi của đồng tiền)
Tiền ước số (phần chia nhỏ hay phần thập phân của tiền đơn vị)
Tiền bội số (bội số của tiền đơn vị)
Tất cả những điểm này đều phải được quy định bởi pháp luật của Nhà nước.
Với chức năng này, tiền tệ đã trở thành thước đo chung để biểu thị và so sánh giá cả của tất cả các hàng hoá , từ đó làm cho đời sống kinh tế được đơn giản hoá rất nhiều. Bởi lẽ, trong nền kinh tế phát triển với sự tham gia của hàng nghìn mặt hàng trên thương trường nếu không có một đơn vị thanh toán chung người ta sẽ tốn nhiều thời gian để xác định những quan hệ tỷ lệ giữa các hàng hoá với nhau khi muốn thực hiện trao đổi.
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị không nhất thiết phải xuất hiện một lượng tiền thực chất, bởi vì việc đo lường giá trị hàng hoá chỉ thực hiện trong tư duy, trong ý niệm. Trong lịch sử lưu thông tiền tệ, tiền vàng là thước đo chuẩn mực nhất thông qua sự so sánh trực tiếp giữa giá trị hàng hoá và vàng. Như vậy, “phép đo” giá trị vẫn được thực hiện mà không cần sự hiện diện của thước đo. Đó là cơ sở đẫn đến hiện tượng “phi vật chất” của chức năng thước đo giá trị. Về điểm này K.Mark viết: “Giá cả , hay hình thái tiền của các hàng hoá, cũng như hình thái giá trị của chúng nói chung, là một cái gì khác với hình tháivật chất có thể cảm nhận bằng các giác quan. Do đó chỉ là một hình thái trên ý niệm, chỉ tồn tại trong quan niệm mà thôi”C.Mác. Tư bản, Quyển 1, Tập 1, NXB Sự thật Hà nội, 1962, Tr 142
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả hàng hoá, cho thấy mối tương quan giữa giá trị tiền tệ, giữa giá trị hàng hoá và giá cả hàng hoá. Thực chất giá cả hàng hoá là tỷ lệ so sánh giữa giá trị của nó với giá trị của tiền tệ.Chính vì thế mà giá cả của hàng hoá tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị tiền tệ. Mặt khác cho thấy tác dụng to lớn của tiền tệ trong chức năng thước đo giá trị đối với nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện việc thực hiện quy luật giá trị - quy luật phổ biến của nền sản xuất hàng hoá. Việc chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả là điều kiện vô cùng quan trọng và tiên quyết để đưa hàng hoá vào quá trình lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường vận dụng chức năng này của tiền tệ đã giúp cho các doanh nghiệp có thể hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm và qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh để chọn hướng đầu tư thích hợp. Hơn nữa, ở tầm vĩ mô trong hệ thống kế toán quốc gia, đồng tiền với chức năng thước đo giá trị đã được vận dụng để tính toán tổng mức GDP, GNP trong từng thời kỳ. Từ đó, ngoài việc phục vụ cho quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân, tiền còn giúp chúng ta đánh giá hiệu quả nền kinh tế để có biện pháp tận dụng những nguồn tài nguyền quốc gia phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Mỗi quốc gia có thước đo giá trị riêng. Cơ sở để xác lập thước đo giá trị ở mỗi quốc gia là năng suất lao động và trình độ phát triển của nền kinh tế ở quốc gia đó.
* Chức năng phương tiện trao đổi và thanh toán
Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi và thanh toán này khi nó xuất hiện trong lưu thông với tư cách làm môi giới trung gian cho quá trình trao đổi hàng hoá và là phương tiện để thực hiện quan hệ thanh toán các khoản nợ và các nghĩa vu tài chính.
Sự tham gia của tiền tệ vào quá trình trao đổi hàng hoá đã cho phép thay thế phương thức trao đổi hiện vật trực tiếp (H-H’) bằng phương thức trao đổi gián tiếp thông qua tiền (H-T-H’). Khi tiền thực hiện chức năng này, quá trình trao đổi hàng hoá được tách thành hai giai đoạn riêng biệt là bán và mua.Hai giai đoạn này có thể được thực hiện hoàn toàn độc lập nhau, tách rời nhau về không gian và thời gian.Từ chỗ tiền tệ là trung gian cho quá trình trao đổi hàng hóa, thì giờ đây, tiền tệ đã trở thành mục tiêu của mọi quá trình mua bán hàng hóa. Điều này lý giải cho việc ngày nay, hầu hết các nhà sản xuất kinh doanh khi tham gia quá trình kinh doanh đều theo đuổi mục tiêu lợi nhuận.
Trên thực tế, việc trao đổi hàng hóa không nhất thiết phải có sự xuất hiện của tiền tệ. Ban đầu, việc trao đổi hàng hóa thường phải có sự xuất hiện của tiền tệ, khi đó tiền tệ khi thực hiện chức năng phương tiện trao đổi hay đóng vai trò là vật môi giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Lúc này, tiền tệ luôn vận động song hành với hàng hóa.Tuy nhiên, khi nền kinh tế xã hội càng phát triển, nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng mở rộng, nhưng không phải lúc nào các chủ thể tham gia vào quan hệ trao đổi cũng có đủ lượng tiền cần thiết.Chính vì vậy, đã nẩy sinh hiện tượng mua bán chịu hàng hóa, từ đó, để thực hiện việc trả nợ, người ta đã sử dụng tiền làm phương tiên thanh toán.Nói cách khác, tiền tệ đã thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, lúc này, người ta nói tiền tệ vận động độc lập tương đối về mặt giá trị so với hàng hóa. Bên cạnh đó, tiền tệ còn được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh toán các nghĩa vụ tài chính như là trả lương, trả thưởng cho người lao động và nộp thuế vào NSNN, nộp bảo hiểm,…
Chức năng phương tiện lưu thông và thanh toán có tác dụng to lớn và rõ rệt không chỉ đối với quá trình trao đổi thanh toán hàng hoá dịch vụ và các nghĩa vụ tài chính nói riêng mà còn đối với nền kinh tế hàng hoá nói chung, nhưng nó cũng có thể tạo nên mầm mống của những cuộc khủng hoảng kinh tế.
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và thanh toán, tiền tệ phải có đủ những điều kiện sau đây:
Phải có sức mua ổn định hoặc không suy giảm quá nhiều trong 1 khoảng thời gian nhất định
Số lượng tiền tệ phải được cung ứng đầy đủ cho nhu cầu lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế.
Chức năng phương tiện lưu thông và thanh toán mang ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội:
Thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế qua việc giảm bớt thời gian và chi phí phải gánh chịu khi trao đổi hàng hóa dịch vụ và thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa.
Tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội.
Tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng và các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt phát triển
* Chức năng phương tiện cất trữ/ tích lũy giá trị
Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện cất trữ giá trị khi nó tạm thời rút khỏi lưu thông tồn tại dưới dạng giá trị dự trữ để đáp ứng cho nhu cầu mua sắm chi trả trong tương lai.
Dự trữ giá trị là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng những phương tiện chuyển tải giá trị được xã hội thừa nhận, với mục đích để chuyển hoá thành hàng hoá hoặc dịch vụ trong tương lai.Sở dĩ tiền thực hiện được chức năng phương tiện cất trữ giá trị bởi vì nó là hiện thân của của cải xã hội và nó có thể trực tiếp chuyển hoá thành hàng hoá. Để thực hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền tệ phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:
Tiền phải có giá trị nội tại (tiền đủ giá) hoặc phải có sức mua ổn định, lâu dài.
Giá trị dữ trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực và được xã hội thừa nhận. Hay nói cách khác, phải thể hiện bằng tiền mặt hoặc các phương tiện chuyển tải giá trị khác.
Khi thực hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền ở trạng thái không vận động, không phục vụ cho quá trình lưu thông hàng hoá, như vậy đối lập với tính chất của tiền trong chức năng phương tiện lưu thông. Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hay bản vị vàng, việc thực hiện chức năng cất trữ của tiền đã có tác dụng điều hoà khối lượng tiền trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu của lưu thông hàng hoá.
Chức năng phương tiện cất trữ của tiền đã cho phép người sở hữu nó dự trữ một sức mua cho các giao dịch trong tương lai. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, khi các doanh nghiệp muốn đầu tư mở rộng sản xuất, khi các tầng lớp dân cư có nhu cầu mua sắm những vật phẩm có giá trị cao để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, người ta thường cất trữ dưới dạng tiền giấy hoặc số dư tiền gửi trên tài khoản ký thác tại ngân hàng.
Ngày nay, khi nền kinh tế phải đối diện với tình trạng lạm phát người ta tích luỹ tiền vàng như một hình thức bảo tồn tài sản của mình. Bên cạnh đó, các tài sản có xu hướng gia tăng giá trị như bất động sản, chứng khoán, tài sản tài chính,... cũng được sử dụng làm phương tiện cất trữ giá trị, tuy nhiên điểm khác biệt là tiền dự trữ thì có khả năng được sử dụng ngay khi cần còn các dạng dự trữ tài sản khác đòi hỏi thời gian và chi phí giao dịch khi cần chuyển sang tiền để sử dụng.
1.2.2. Vai trò của tiền tệ
Lịch sử phát sinh và phát triển của tiền tệ đã chứng minh rằng: tiền tệ không phải đơn thuần chỉ là một vật trung gian trong trao đổi hàng hoá, biểu thị quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa mà nó còn biểu hiện những quan hệ xã hội khác. Ngày nay những quan điểm và định nghĩa về tiền đã được mở rộng và có sự thay đổi so với trước đây.Tuy vậy, tiền tệ vẫn khẳng định vai trò của mình đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường. Vai trò đó được thể hiện ở các mặt sau:
1.1.2.1. Tiền tệ là phương tiện để mở rộng và phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Khi nghiên cứu quá trình ra đời của tiền tệ, chúng ta đã khẳng định tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất và trao đổi hàng hóa. Song rõ ràng, khi tiền tệ ra đời, tiền tệ lại trở thành một tác nhân tích cực đối với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Tiền tệ là công cụ thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hoá (trong nước và ngoài nước) phát triển lên ở mức cao hơn vì những lí do sau:
- Nhờ có chức năng thước đo giá trị, giá trị của hàng hoá được biểu hiện một cách đơn giản. Nghĩa là, giá trị của các hàng hoá đều được biểu hiện bằng tiền, do đó chúng có thể so sánh dễ dàng với nhau. Trên cơ sở này, người lao động có thể so sánh được với nhau về mức độ và trình độ lao động mình đã bỏ ra cho xã hội trong một đơn vị thời gian.
- Nhờ chức năng phương tiện thanh toán, đã làm cho sự trao đổi hàng hoá không bị ràng buộc về không gian và thời gian, làm cho hàng hoá đi từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng một cách trôi chảy hơn.
- Nhờ chức năng phương tiện cất trữ của tiền tệ, việc hạch toán và tính toán hiệu quả kinh doanh trở nên thuận tiện và đầy đủ; quá trình tích luỹ tiền tệ được thực hiện để mở rộng qui mô sản xuất và kinh doanh.
1.1.2.2 Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế
Trong điều kiện nền KTTT, tiền tệ không chỉ là phương tiện để mở rộng và phát triển quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa ở trong và ngoài nước mà nó còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa, xã hội,… Nhờ có tiền, mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới sẽ được hình thành và phát triển, làm cho xu thế hòa nhập trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật,… giữa các nước ngày càng sâu rộng.
1.1.2.3 Tiền tệ là phương tiện phục vụ mục đích của người sở hữu chúng
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hầu như mọi quan hệ kinh tế xã hội đều bị tiền tệ hoá, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan … đều không thể thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện đó, tiền tệ trở thành công cụ để xử lí mọi ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế xã hội (trong và ngoài nước), đồng thời tất cả các hành vi kinh tế trong nền kinh tế hiện nay đều hướng đến 1 mục đích duy nhất , đó chính là lợi nhuận (là tiền). Bên cạnh đó, thực tế đã chứng minh, tiền tệ là công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể trong nền kinh tế xã hội đạt được các mục đích khác nhau. Từ các cá nhân, đến các tổ chức, để tồn tại, hoạt động và phát triển, đều cần có nguồn lực vật chất thể hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, và tất cả các mục đích đó đều có thể được thỏa mãn thông qua việc dùng tiền để mua sắm. Thậm chí, ngay cả Chính phủ, để thực hiện được các chức năng và nhiệm vụ của mình, để khuếch trương quyền lực chính trị của mình và tạo uy tín trong long dân chúng, Chính phủ cũng luôn cần đến tiền như là một phương tiện hữu ích nhất, và thỏa mãn đã dạng các mục đích nhất.
1.3. CÁC CHẾ ĐỘ LƯU THÔNG TIỀN TỆ
1.3.1. Khái niệm và các yếu tố cơ bản cấu thành chế độ lưu thông tiền tệ:
Có thể hiểu chế độ lưu thông tiền tệ một cách khái quát như sau:H
Chế độ lưu thông tiền tệ là tập hợp có hệ thống các đạo luật, quy định và những văn bản của quốc gia hay tổ chức quốc tế về quản lý và lưu thông tiền trong phạm vi không gian và thời gian nhất định.
Tiền là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, còn chế độ lưu thông là sản phẩm của pháp quyền.Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không chỉ phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế của mỗi quố gia mà còn bị cho phối bởi trình độ tổ chức quản lý của Nhà nước. Chế độ lưu thông tiền của mỗi quốc gia sẽ được hoàn thiện dần cho phù hợp với sự phát triển kinh tế trong nước và giao lưu quốc tế. Cho dù đồng tiền của một quốc gia hay của liên minh một số quốc gia và cho dù đồng tiền xuất hiện dưới dạng tiền mặt hay bút tệ thì cũng được điều chỉnh bởi chế độ lưu thông tiền tệ.
Khi xây dựng chế độ lưu thông tiền tệ, cần phải chú ý các yếu tố cấu thành cơ bản là bản vị tiền, đơn vị tiền và các chế độ về đúc tiền và lưu thông tiền.
- Bản vị tiền: Kim loại được sử dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông thống nhất của quốc gia, là bản vị tiền. Dưới chế độ nô lệ và phong kiến bản vị tiền là kẽm và đồng.Dưới thời Chủ nghĩa Tư bản, bản vị tiền là bạc sau đó là vàng.
- Đơn vị tiền tệ: Nếu nhân tố bản vị tiền tệ được qui định tương đối thống nhất giữa các quốc gia thì nhân tố đơn vị tiền tệ lại tuỳ thuộc đặc điểm riêng biệt ở mỗi quốc gia. Đơn vị tiền tệ bao gồm: tên gọi của đồng tiền và qui định tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền. Đồng tiền của mỗi quốc gia sẽ có tên gọi khác nhau. Còn tiêu chuẩn giá cả là trọng lượng kim loại được qui định cho mỗi đơn vị tiền tệ (tiêu chuẩn này sẽ thay đổi tuỳ vào điều kiện kinh tế khách quan trong từng thời kỳ của từng nước). Ví dụ: Đồng USD: Trước năm 1930, tiêu chuẩn giá cả 1 USD = 1,540 gr vàng. Sau 1945, tiêu chuẩn này là 0,888671 gr vàng.
Ngày nay, hầu hết các nước đều lưu hành tiền giấy nên việc quy định tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền không còn ý nghĩa.Trong lưu thông, người ta không quan tâm đến tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền mà họ chỉ quan tâm đến sức mua của đồng tiền.
- Qui định chế độ đúc tiền và lưu thông tiền đúc: Mỗi nước có luật đúc tiền riêng liên quan đến các vấn đề về: khuôn mẫu, hình dáng của đồng tiền, cách thức phát hành. Nhân tố này là nhân tố hết sức quan trong đối với các nước trong giai đoạn các nước còn áp dụng chế độ lưu thông tiền kim loại.
- Qui định chế độ lưu thông các dấu hiệu giá trị: Khi Chủ nghĩa Tư bản ra đời, nhịp độ phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá đã làm tăng nhu cầu về phương tiện thanh toán, trong khi đó tốc độ khai thác kim loại quí không đủ khả năng đáp ứng. Do đó, bên cạnh cơ chế phát hành và lưu thông tiền kim loại, một bộ phận giao dịch được tiến hành bằng các công cụ lưu thông tín dụng như: kỳ phiếu thương mại, kỳ phiếu ngân hàng, séc,… Việc phát hành các loại tiền dấu hiệu này, tuỳ theo pháp luật mỗi nước, sẽ có qui định riêng về cơ sở đảm bảo nhằm mục đích hạn chế khối lượng phát hành và đảm bảo lưu thông tiền tệ không bị rối loạn.
1.3.2. Các chế độ lưu thông tiền tệ:
Trải qua thời gian dài tồn tại và phát triển, có hai chế độ lưu thông tiền tệ cùng với các mức độ phát triển khác nhau của tiền tệ trong hai chế độ đó.
a. Chế độ lưu thông tiền kim loại bao gồm các giai đoạn sau:
* Lưu thông tiền kém giá: Là chế độ lưu thông tiền mà ở đó các kim loại kém giá giữ vị trí chủ yếu trong quá trình lưu thông tiền tệ. Vào thời kì này, tiền đúc từ đồng và kẽm được xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Việc đúc tiền do người đứng đầu Nhà nước độc quyền thực hiện song vẫn có hiện tượng phân tán quyền đúc tiền do tính cát cứ địa phương do nhiều lãnh chúa tự phát hành tiền. Điều này đã dẫn đến hiện tượng có nhiều đồng tiền cùng xuất hiện trong một quốc gia.
* Lưu thông tiền đủ giá: Là chế độ lưu thông tiền bạc và vàng, xuất hiện khi nền kinh tế thị trường phát triển. Gồm các thời kỳ:
- Chế độ bản vị bạc: Là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó bạc được sử dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Nửa cuối thế kỷ XIX, ở các nước Nga, Ấn độ, Hà lan, Nhật bản, … bạc đã được sử dụng phổ biến như là tiền trong lưu thông. Đến cuối thế kỷ này, hàng loạt mỏ bạc được phát hiện ở Mexico đã làm cho giá trị của bạc giảm xuống đáng kể nên ở một số quốc gia, bạc đã không còn thích hợp với vai trò là tiền tệ nữa.
- Chế độ song bản vị: Trong chế độ này, bạc và vàng đều được sử dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Trong lưu thông tiền tệ, hai thứ kim loại này có quyền lực ngang nhau và đều được thanh toán không hạn chế theo giá trị của chúng. Thực chất, đây là chế độ lưu thông tiền chuyển tiếp từ bản vị vàng sang bản vị bạc.
Do bạc khai thác được nhiều nên giá trị của nó ngày càng giảm, còn giá trị của vàng ngày càng tăng do số lượng của nó không thay đổi hoặc thay đổi rất ít. Lúc này, vàng là thước đo giá trị của bạc, còn bạc là thước đo giá trị của các hàng hoá khác, đây là chế độ song bản vị thả nổi. Để đảm bảo quá trình lưu thông tiền tệ, Nhà nước phải qui định chế độ tỷ giá. Từ đó, có hiện tượng đổi từ bạc sang vàng theo tỷ giá qui định dẫn đến hiện tượng đồng tiền xấu đuổi đồng tiền tốt ra khỏi lưu thông, nói cách khác dân chúng có xu hướng mua vàng cất trữ vì nó có giá trị hơn bạc.
- Chế độ bản vị vàng: Là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó vàng được sử dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Chế độ này có các đặc điểm sau:
+ Được tự do đúc tiền vàng: Nhà nước chỉ qui định hàm lượng, tiêu chuẩn, còn việc đúc từ vàng thoi, vàng khối thành tiền hoặc ngược lại thì Nhà nước không quy định. Mọi người dân nếu có vàng thoi, vàng khối đều có thể đúc thành tiền vàng phục vụ tieu dung và cất trữ.
+ Tự do lưu thông tiền vàng: Tiền vàng được sử dụng thanh toán không hạn chế. Tiền vàng bị hao mòn trong lưu thông, tiền kim loại kém giá và giấy bạc ngân hàng đều có thể tự do được đổi lấy tiền vàng mới theo giá trị danh nghĩa của chúng.
+ Vàng được tự do luân chuyển giữa các quốc gia: Trong quan hệ thanh toán liên quan đến các hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia đều được dùng vàng thanh toán không hạn chế, không bị cản trở bởi quy định của Nhà nước.
+ Lưu thông tiền vàng dưới chế độ này là lưu thông tiền đủ giá nên không bị lạm phát.
Tuy nhiên, chế độ lưu thông vàng cũng bộc lộ những nhược điểm là:
+ Gây ra sự lãng phí của cải của xã hội: Trong lưu thông, với đặc tính lý hóa học của mình, vàng bị hao mòn nhiều, dẫn đến rất lãng phí.
+ Gây khó khăn trong thanh toán: Do vàng là kim loại quý hiếm, có trữ lượng hạn chế nên khi nhu cầu sử dụng tiền ngày càng nhiều thì nền kinh tế sẽ không đủ phương tiện lưu thông và thanh toán.
b. Chế độ lưu thông phù hiệu (dấu hiệu) giá trị:
Khi nghiên cứu chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán của tiền tệ, người ta thấy rằng tiền tệ chỉ là vật trung gian chốc lát trong trao đổi hàng hoá chứ không thể hiện một cách độc lập giá trị của hàng hoá, vì vậy giá trị nội tại của tiền tệ có hay không cũng không có ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy, trong lưu thông, tiền đúc bằng kim loại dần dần bị hao mòn đi một phần, mặc dù vậy nó vẫn thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông. Đây là bước đầu tiên để dẫn đến việc thay thế tiền có giá hoàn toàn bằng các dấu hiệu của giá trị. Bên cạnh đó, việc Nhà nước phát hành vào lưu thông những đồng tiền không đủ giá thực chất là làm giảm bớt trọng lượng của đồng tiền. Từ đó, người ta phát hành tiền giấy thay thế cho tiền đủ giá để làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán.
Bản chất của tiền giấy:
Tiền giấy là một dạng tiền dấu hiệu được phát hành vào lưu thông để thay thế cho tiền đủ giá trị ở những chức năng mà lưu thông không đòi hỏi phải sử dụng tiền đủ giá. Với tư cách là đại biểu của tiền đủ giá nên tiền giấy chỉ mang giá trị danh nghĩa. Giá trị nội tại của nó thường không đáng kể so với mệnh giá của nó. Ở đây, cần lưu ý rằng nếu như vàng được sử dụng trong lưu thông vì nó có giá trị thì tiền giấy không phải do có giá trị mới lưu thông mà chính nhờ lưu thông mà nó có giá trị. Giá trị của tiền giấy không phải là giá trị bản thân nó mà chính là phản ánh giá trị của tiền đủ giá đáng lẽ phải có mặt trong lưu thông.
Giá trị tiền giấy và quy luật lưu thông tiền giấy:
Xuất phát từ bản chất của tiền giấy chỉ là tiền dấu hiệu nên nói đến giá trị tiền giấy nghĩa là chúng ta muốn nói đến giá trị danh nghĩa của nó. Giá trị đại diện danh nghĩa của một đơn vị tiền giấy là con số được ghi trên tờ giấy bạc hay còn gọi là mệnh giá của đồng tiền.
Khi nghiên cứu các vấn đề về tiền tệ, K. Mark đã đưa ra qui luật lưu thông tiền giấy. Nội dung của qui luật là: “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng (hay bạc) do tiền đó đặc trưng, mà lẽ ra phải lưu thông thực sự”.
Từ qui luật này có thể rút ra:
Giá trị đại diện thực tế
(= 1 đơn vị tiền giấy)
=
Số lượng vàng (bạc) cần thiết cho lưu thông
Số lượng tiền giấy thực tế trong lưu thông
Như vậy:
Nếu số lượng tiền giấy phát hành vào lưu thông cân đối với số tiền đủ giá cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định thì giá trị đại diện cho một đơn vị tiền giấy phù hợp với giá trị danh nghĩa của nó.
Nếu số lượng tiền giấy phát hành vượt quá lượng tiền đủ giá cần thiết cho lưu thông thì giá trị đại diện thực tế của nó sẽ bị giảm sút, nói cách khác tiền giấy bị mất giá và sức mua của nó bị giảm.
Qua đó ta thấy, nếu số lượng tiền cần thiết cho lưu thông do giá cả hàng hoá quyết định thì trái lại giá trị của tiền giấy lại do số lượng của chính nó quyết định.
Chương 2
CUNG - CẦU TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
Điều tiết cung cầu tiền tệ và phòng chống lạm phát là vấn đề quan trọng đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Chương học này giới thiệu các vấn đề cơ bản về cung cầu tiền tệ và lạm phát như là các khái niệm, các lý thuyết, học thuyết về cung cầu tiền và nguyên nhân, tác động của lạm phát cũng như các biện pháp phòng chống, kiểm soát lạm phát. Qua chương học này, người học có thể hiểu được mối quan hệ mật thiết giữa các khối tiền trong lưu thông, cũng như hiểu được sự tác động của khối lương tiền cung ứng cho lưu thông, khối lượng tiền có mặt trong lưu thông và lạm phát. Từ đó, các giải pháp kiềm chế lạm phát được xây dựng nhằm rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, cân đối với nhu cầu về tiên của nền kinh tế.
2.1. CUNG - CẦU TIỀN TỆ.
2.1.1. Các khối tiền trong lưu thông.
2.1.1.1 Các loại tiền tệ trong nền kinh tế hiện đại
Ngày nay, cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, quan niệm về tiền tệ đã được mở rộng. Tiền tệ không chỉ là tiền pháp định do NHTW phát hành mà ngay cả các tài khoản ký thác tại ngân hàng, các chứng từ có giá có khả năng hoán chuyển trên thị trường tài chính,… cũng được xem là tiền theo nghĩa rộng hơn. Nói cách khác, các loại tiền trong nền kinh tế thị trường phát triển thường được xếp theo trình tự căn cứ vàonhận dạng theo “tính lỏng trong giao dịch” - một thuật ngữ được sử dụng khá thường xuyên ở hầu hết các sách nghiên cứu về tiền tệ. “Tính lỏng” biểu hiện cho khả năng dễ dàng chuyển sang tiền mặt nhằm đáp ứng cho nhu cầu giao dịch. Theo đó, có thể thấy tiền pháp định do nhà nước phát hành đạt “tính lỏng” cao nhất, sau đó mới đến các loại tiền tài sản khác. Để cụ thể hơn, sau đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét các loại tiền trong nền kinh tế hiện đại.
- Tiền có tính lỏng cao
Loại tiền này có tính lỏng cao nhất khi thực hiện các quan hệ trao đổi và đây cũng là tính chất nổi bật so với các loại tiền tài sản khác. Vì thế, tiền có tính lỏng cao được xếp vào khối tiền giao dịch trong các phép đo tổng lượng tiền của NHTW các nước. Tiền có tính lỏng cao bao gồm:
* Tiền pháp định:
Bao gồm các loại tiền giấy, tiền kim loại do nhà nước phát hành. Tên gọi “tiền pháp định” đã cho thấy các loại tiền này được nhà nước thống nhất phát hành và cho phép lưu thông với mệnh giá được ghi trên đồng tiền theo luật định. Đồng tiền pháp định thể hiện quyền lực của nhà nước trong quá trình điều tiết lưu thông tiền tệ qua hoạt động phát hành cũng như thu hồi tiền từ lưu thông nhằm thực hiện những mục tiêu của Chính phủ trong từng thời kỳ. Mặt khác, đồng tiền pháp định còn khẳng định chủ quyền quốc gia, sự độc lập của hệ thống tiền tệ mỗi quốc gia đó trên trường quốc tế. Do vậy, về hình thức, tiền pháp định luôn có dấu quốc huy trên đồng tiền, đặc biệt đối với các loại tiền giấy, thường còn phải có số sêri phát hành và chữ ký của một quan chức Chính phủ.
Trong lưu thông, tiền pháp định có thể được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như: tiền mặt, tiền NHTW, tiền của nhà nước,… Mặc dù là một loại tiền có tính thanh khoản cao đáp ứng ngay cho nhu cầu giao dịch song việc nắm giữ lại tiền này có mức sinh lợi thấp nhất.
* Tiền gửi không kỳ hạn hay các khoản tiền gửi trên các tài khoản thanh toán tại các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
Là một loại tiền có tính lỏng thấp hơn so với tiền pháp định vì phải thông qua một số thủ tục thanh toán theo quy định khi thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, trong điều kiện những dịch vụ thanh toán qua ngân hàng trở nên tiện ích thì vấn đề thanh toán từ tiền gửi không kỳ hạn hay các tài khoản thanh toán có thể phát hànhséc,… sẽ góp phần giảm đáng kể những chi phí không cần thiết trong thanh toán bằng tiền mặt. Ngoài ra, hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại còn thực hiện trả lãi cho các khoản tiền gửi thanh toán nên so với tiền mặt, nó còn đáp ứng phần nào mục tiêu sinh lời cho người sở hữu tiền tệ. Điều đó giải thích tại sao ở những nước phát triển, bộ phận tiền này chiếm đến 75% tổng khối tiền dùng cho giao dịch.
- Các loại tiền tài sản
Xét về thực chất, tiền tài sản không phải là tiền giao dịch vì người ta không thể sử dụng nó như là một phương tiện trao đổi không hạn chế về thời gian như tiền mặt cũng như không thể đáp ứng nhu cầu giao dịch ngay lập tức như các loại tiền có tính lỏng cao nhưng chúng được xem như là tiền vì người ta có thể dễ dàng chuyển đổi chúng ra thành tiền mặt thông qua hoạt động của thị trường tài chính. Mặt khác, với tên gọi “tiền tài sản” cho thấy đây là loại tài sản được người sở hữu nắm giữ như là một hình thức đầu tư sinh lợi song chúng lại có khả năng hoán chuyển linh hoạt sang tiền mặt trong thời gian ngắn. Từ đó, việc thừa nhận loại tiền tài sản trong kết cấu khối tiền của NHTW các nước phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phát triển kinh tế thị trường của nước đó mà đặc biệt là thị trường tài chính. Các loại tiền tài sản bao gồm:
* Các loại tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và tổ chức tại các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng: loại tiền này đem lại mức sinh lợi khá ổn định cho người sở hữu và được thực hiện với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao, bao gồm:
+ Tiền gửi tiết kiệm của công chúng tại các quỹ tiết kiệm, các ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và doanh nghiệp tại các tổ chức tín dụng.
Sự phân biệt này giúp cho NHTW sắp xếp vào các khối tiền tương ứng để dễ theo dõi mức độ đầu tư và khả năng huy động nguồn tài chính trong công chúng qua hệ thống ngân hàng.
* Các khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ.
Các nước có thị trường tiền tệ phát triển luôn có xu hướng huy động rất đa dạng các nguồn tiền gửi với quy mô từ nhỏ đến lớn cũng như thời gian huy động từ ngắn đến dài. Người sở hữu các khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ có lợi thế vừa được hưởng lãi suất cao mà khi cần có thể phát hành séc để thanh toán hoặc chuyển nhượng dễ dàng ngay trên thị trường tiền tệ.
* Các chứng từ nợ ngắn hạn, trung hạn được mua bán trên thị trường tiền tệ
Tín phiếu kho bạc, trái phiếu tiết kiệm do các ngân hàng, các cấp chính quyền địa phương, công ty tài chính,… huy động, các hợp đồng mua lại qua đêm, tiền gửi Euro-dollar qua đêm, tiền gửi Euro-dollar có kỳ hạn…
* Các loại tiền tài sản khác:
Tùy theo khả năng thanh khoản nhanh hay chậm mà một số nước công nghiệp phát triển còn xếp các chứng thư như: trái phiếu kho bạc, thương phiếu, hối phiếu thương mại đã được ngân hàng chấp nhận vào loại tài sản có độ lỏng kém hơn các loại tiền đã nêu trên nên thường được xếp vào khối tiền sau cùng trong phép đo tổng lượng tiền của NHTW các nước.
2.1.1.2. Phép đo tổng lượng tiền trong nền kinh tế hiện đại
Trong phần trên chúng ta đã xem xét các loại tiền tệ trong nền kinh tế hiện đại, từ đây, vấn đề đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách mà cụ thể là NHTW mỗi nước-cơ quan chịu trách nhiệm chính trong xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, là phải biết một cách chính xác các thành phần của lượng tiền cung ứng vào lưu thông bao gồm các bộ phận nào để có thể dự báo được những biến động kinh tế cũng như có những biện pháp điều chỉnh hợp lý. Thông thường, NHTW các nước sẽ vừa áp dụng phương pháp lý thuyết trên cơ sở vận dụng linh hoạt các học thuyết kinh tế tiền tệ vừa áp dụng phương pháp kinh nghiệm trên cơ sở kiểm nghiệm thực tiễn để xây dựng một phép đo tổng lượng tiền trong lưu thông từ hẹp đến rộng một cách phù hợp nhất với diễn biến của môi trường kinh tế nước mình. Trước khi tìm hiểu cụ thể về phép đo tổng lượng tiền trong lưu thông và các thành phần của nó, cần phải biết khái niệm “Khối lượng tiền tệ trong lưu thông”. Khối lượng tiền trong lưu thông là khái niệm dùng để chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị trường cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân biệt các khối tiền trong lưu thông. Thành phần mức cung tiền tệ thay đổi thường xuyên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và khác nhau giữa các nước. Thành phần mức cung tiền tệ hay phạm vi các phép đo khối lượng tiền có thể được trình bày khái quát như sau:
- Khối tiền tệ M1 (Khối tiền tệ giao dịch): Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hoá, mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
+ Tiền đang lưu hành: gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng. Xét về chủng loại, tiền đang lưu hành bao gồm các loại tiền giấy, tiền xu, ngân phiếu ...
+ Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại: là loại tiền gửi mà chủ sở hữu của nó có thể rút ra hoặc phát hành séc để thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ vào bất kỳ lúc nào.
- Khối tiền tệ M2 (Khối tiền giao dịch mở rộng): Đây là phép đo khối lượng tiền rộng hơn trong lưu thông. Khối tiền tệ này bao gồm:
+ Khối tiền tệ M1.
+ Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại.
- Khối tiền tệ M3: Khối tiền tệ này bao gồm:
+ Khối tiền tệ M2.
+ Các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
- Khối tiền tệ L: Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
+ Khối tiền tệ M3.
+ Các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao, tức là dễ chuyển thành tiền mặt, có thể kể đến như: thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu,....
Trong các khối tiền kể trên, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao nhất. Khi khối tiền tệ được mở rộng theo các phép đo từ M1 đến L thì tính lỏng của nó càng thấp.
2.1.2. Nhu cầu tiền trong nền kinh tế:
Có thể hiểu cầu tiền tệ là số lượng tiền mà các chủ thể trong xã hội cần sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Trong nền kinh tế tiền tệ, có 2 nhu cầu sử dụng tiền chủ yếu chi phối đời sống kinh tế xã hội là nhu cầu tiền phục vụ đầu tư và nhu cầu tiền phục vụ tiêu dùng.
* Nhu cầu tiền phục vụ đầu tư:
Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu tiền cho đầu tư của các chủ thể càng đa dạng và phong phú. Xảy ra điều này do các DN muốn mở rộng qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh, muốn sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi; Các cá nhân muốn kiếm lợi nhuận từ đồng tiền tiết kiệm của mình,...
Nhu cầu tiền cho đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố quan trọng là mối quan hệ giữa lãi suất tín dụng của ngân hàng với mức tỷ suất lợi nhuận trên vốn và yếu tố thu nhập của các chủ thể. Mức lãi suất ngân hàng là mức thu nhập mang tính bình quân của các phương án đầu tư trong nền kinh tế. Nếu lãi suất ngân hàng lớn hơn tỷ suất lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư như sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc đầu tư tài chính thì nguồn tiền tiết kiệm sẽ chảy vào ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất ngân hàng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động đầu tư thì nhu cầu tiền cho đầu tư sẽ tăng. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế thì phải có tích luỹ mà mức tích luỹ lại phụ thuộc vào nhân tố thu nhập. Nếu thu nhập cao, tích luỹ sẽ càng lớn, khi đó nhu cầu tiền cho đầu tư sẽ tăng lên trên nhiều lĩnh vực.
* Nhu cầu tiền phục vụ tiêu dùng:
Nhu cầu tiền trong nền kinh tế xã hội cũng rất phong phú. Các DN, cá nhân cần tiền để phục vụ cho các giao dịch của mình như mua sắm hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ, nộp thuế hoặc dành một phần thu nhập bằng tiền cho mục đích dự phòng rủi ro. Chính phủ cần tiền để tiêu dùng, cung cấp các hàng hóa dịch vụ công.
Nhu cầu tiền cho tiêu dùng phụ thuộc vào mức thu nhập và giá cả của các hàng hóa dịch vụ. Khi kinh tế tăng trưởng, thu nhập quốc dân tăng lên thì mức cầu về tiêu dùng mới có cơ sở nâng cao và ngược lại. Ngoài ra, sự biến động của giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức cầu tiêu dùng. Khi giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tăng lên sẽ khiến cho nhu cầu tiêu dùng của toàn nền kinh tế gia tăng và ngược lại.
2.1.3. Cung tiền cho lưu thông
Cung tiền cho lưu thông là việc đưa vào lưu thông một khối lượng tiền nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của các chủ thể trong nền kinh tế.
Các chủ thể cung ứng tiền trong nền kinh tế bao gồm:
- NHTW: Là cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của tổ chức tín dụng và chỉ đạo thực thi chính sách tiền tệ. Ở Mỹ, cơ quan đóng vai trò NHTW là Cục Dự trữ Liên bang, còn ở Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. NHTW là cơ quan độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông. NHTW cung tiền thông qua các nghiệp vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Các loại tiền NHTW cung ứng bao gồm các loại tiền giấy, tiền xu, ngân phiếu, trái phiếu… nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng thanh toán trong nền kinh tế xã hội.
- Các ngân hàng trung gian: là các trung gian tài chính, họ nhận tiền gửi từ các cá nhân và các tổ chức, đồng thời thực hiện cho vay. Các ngân hàng trung gian chính là các NHTM, các công ty tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng. Trên thị trường tài chính, các ngân hàng trung gian có chức năng điều tiết lưu thông tiền tệ giữa các chủ thế cung ứng vốn và chủ thể cầu vốn, đồng thời cung ứng một số loại tiền vào lưu thông, đó là tiền ghi sổ được sử dụng thông qua các phương tiên thanh toán không dùng tiền mặt (như là séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu ….), các loại thẻ thanh toán và các giấy tờ có giá như trái phiếu ngân hàng thương mại, kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng….
-Các chủ thể khác: Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển, các loại chứng từ có giá có tính thanh khoản cao thì Nhà nước và các doanh nghiệp cũng có thể được coi là các chủ thể cung ứng tiền trong nền kinh tế. Vì, khi đó, các chứng từ có giá do Nhà nước và các doanh nghiệp (đặc biệt là công ty cổ phần) phát hành có thể làm cho thành phần khối tiền thêm phong phú. Các loại giấy tờ có giá được xem như là một hình thức tiền trong nền kinh tế do Nhà nước và các doanh nghiệp phát hành là Trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu…..
2.1.4. Một số lý thuyết về tiền tệ
2.1.4.1. Quy luật lưu thông tiền tệ của K. Mark
Theo quan điểm của K. Mark, khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ bằng tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông chia cho tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ.
Kc = H/V
Trong đó: Kc là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
H là tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông
V là tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ.
K. Mark cho rằng:
- Khối lượng tiền tệ trong lưu thông phải bằng khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông. Điều này giải thích cung tiền tệ đáp ứng cầu tiền tệ, khi đó lạm phát sẽ không phát sinh.
- Nếu khối lượng tiền tệ trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ làm cho giá cả hàng hoá tăng lên, hay nói cách khác là cung đã vượt quá cầu tiền tệ, nguy cơ lạm phát sẽ xuất hiện. Trong tình huống này, biện pháp khắc phục là rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông và gia tăng số sản phẩm để cân đối với lượng tiền trong lưu thông.
- Nếu khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhỏ hơn khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông sẽ làm cho giá cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống, thiểu phát sẽ xuất hiện. Trong trường hợp này, biện pháp khắc phục là tăng khối lượng tiền trong lưu thông bằng các hình thức như kích cầu, giảm thuế, tăng cường xuất khẩu,….
Tiền tệ tham gia vào lưu thông không chỉ với tư cách là phương tiện lưu thông, mà còn cả với tư cách là phương tiện thanh toán. Do vậy, công thức đầy đủ của qui luật có thể viết như sau:
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
=
Tổng giá cả hàng hóa và dịch vụ
-
Giá cả hàng hóa, dịch vụ bán chịu
+
Giá cả hàng hóa, dịch vụ bán chịu đến hạn thanh toán
-
Giá cả hàng hóa, dịch vụ thanh toán bù trừ
Tốc độ lưu thông bình quân của tiền trong kỳ
Trong đó:
Tốc độ lưu thông bình quân của tiền: là một đại lượng chỉ rõ trong một thời gian nhất định, một đơn vị tiền tệ trong lưu thông bình quân thực hiện được bao nhiêu lần chức năng phương tiện lưu thông.
2.1.4.2. Lý thuyết về số lượng tiền tệ:
*Thuyết của I. Fisher
Đầu thế kỷ 20, I. Fisher - nhà kinh tế học người Mỹ- đã đưa ra phương trình trao đổi nổi tiếng:
M. V = P. Q
Trong đó:
M: Khối lượng tiền tệ trong lưu thông
V: Tốc độ lưu thông tiền tệ
P: Mức giá trung bình
Q: Tổng lượng hàng hoá và dịch vụ được trao đổi
Theo Fisher, M tỷ lệ thuận với P,Q (chủ yếu là P) và tỷ lệ nghịch với V. Song các yếu tố V, Q tương đối cố định trong ngắn hạn do tính thiếu co giãn của chúng. Bởi lẽ, trong thời gian ngắn các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, giao thông vận tải, tín dụng,… ít thay đổi do tập quán tiêu dùng, thói quen chi trả, tần số chi trả chậm thay đổi. V, Q chỉ thay đổi trong dài hạn. Tư tưởng chủ đạo của Fisher vẫn là M quyết định P. Từ công thức trên ta có:
P = M.V/Q
Ở đây, P bị Q, V và M chi phối nhưng chủ yếu vẫn là M.
Trên quan điểm V là một hằng số, gọi K= 1/V là thời gian trung bình mà người dân nắm giữ tiền mặt; P.Q: Thu nhập danh nghĩa. Từ công thức:
M= K. (P.Q)
Fisher đã đi đến kết luận:
Cầu về tiền tệ là một hàm số được xác định bởi:
- Mức thu nhập danh nghĩa (yếu tố này được biểu thị qua thành phần P.Q)
- Thói quen tiến hành các giao dịch của dân chúng và nguồn cung ứng vào lưu thông tăng hay giảm là do chính sách phát hành của NHTM (Yếu tố này biểu thị qua thành phần K)
* Thuyết của Milton Friedman:
Theo Friedman, số cung tiền tệ hoặc được xác định bằng số lượng tiền kim loại đưa vào lưu thông hoặc bởi số tiền do Nhà nước hay hệ thống ngân hàng tạo ra. Nhu cầu tiền là hàm số với nhiều biến số trong đó có thu nhập, giá cả, lãi suất, cơ cấu tài sản và sự ưu thích cá nhân,…
Luận điểm của Friedman được diễn tả bằng công thức sau:
Md = f(yn,i)
Trong đó: Md là số lượng tiền cần cung ứng cho lưu thông
yn là thu nhập danh nghĩa
i là lãi suất danh nghĩa.
Theo ông, cầu tiền tệ là nhân tố ngoại sinh nên từ công thức trên có thể viết đơn giản là:
Md = f(yn)
Friedman cho rằng mức cầu tiền là một hàm số của thu nhập (thu nhập thực tế, thu nhập từ chênh lệch giá, thu nhập từ đầu tư,…). Ông cũng cho rằng mức cung tiền phụ thuộc nhiều vào quyết định chủ quan của các cơ quan quản lý vĩ mô nên mang tính không ổn định. Theo ông, việc tăng cung tiền một cách ổn định (3-4%/năm) sẽ làm cho GNP tăng lên ổn định. Điều này cho phép hạn chế những biến động giá cả và đạt được tốc độ tăng trưởng.
2.1.4.3. Thuyết ưa thích thanh khoản của J.M.Keynes
Keynes coi của cải dưới dạng tiền tệ là linh hoạt nhất, việc chuyển tiền thành tư bản cho vay được ông gọi là “sở thích chi tiêu”, Khi cho vay, người cho vay đã chấp nhận mạo hiểm nên lãi suất được gọi là phần thưởng dành cho họ.
Lãi suất có chiều hướng biến động tỷ lệ nghịch với lượng tiền đưa vào lưu thông nên theo ông, muốn giảm lãi suất để kích thích đầu tư thì nhà nước nên phát hành thêm tiền vào lưu thông. Lãi suất cũng chịu ảnh hưởng từ sự ưa thích tiền mặt mà sự ưa thích tiền mặt cũng được phát sinh từ các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng tiền mặt trong lưu thông. Khi nhu cầu về tiền mặt để đáp ứng các giao dịch trong nền kinh tế tăng lên thì khối lượng tiền nhàn rỗi để gửi tiết kiệm sẽ giảm xuống, từ đó làm cho lãi suất tín dụng có xu hướng tăng lên. Cũng như vậy, khi nhu cầu dự phòng bằng tiền mặt hoặc đầu cơ tiền mặt tăng lên trong nền kinh tế xã hội thì người dân có xu hướng giữ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu này thay vì đem gửi tiết kiệm. Khi đó, do khan hiếm tiền, các ngân hàng có xu hướng tăng lãi suất để huy động vốn. Như vậy, có ba yếu tố tác động đến sự ưa thích tiền mặt trong xã hội, đó là động cơ giao dịch, động cơ dự phòng và động cơ đầu cơ.
Trong ba động cơ trên, thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng mạnh nhất đến động cơ đầu cơ. Nếu gọi r là lãi suất, M là khối lượng tiền tệ và L là hàm số ưa chuộng tiền mặt thì:
M = L(r)
Từ đó, ông đưa ra phương trình:
M = M1 + M2 = L1(R) + L2 (r)
Trong đó:
M là sự ưa thích tiền mặt
M1 là số tiền mặt dùng cho động cơ giao dịch và động cơ dự phòng.
M2 là số tiền mặt dùng cho động cơ đầu cơ.
L1(R) là hàm số tiền mặt xác định M1 tương ứng với lãi suất R.
L2(r) là hàm số tiền mặt xác định M2 tương ứng với lãi suất r.
Từ đó, Keynes đã kết luận: Sự ưa thích tiền mặt là hàm số của lãi suất. Có thể thấy học thuyết lãi suất là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tư tưởng của Keynes. Theo ông, Nhà nước có thể dùng chính sách điều chỉnh lãi suất như một chính sách vĩ mô không chỉ ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ mà còn tác động vào nền kinh tế.
Những học thuyết trên cho thấy ý nghĩa của việc nghiên cứu cung cầu tiền tệ trong điều hành chính sách tiền tệ như sau: Cung cầu tiền tệ là một trong những quan hệ cân đối lớn của chính sách quản lý kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tiền tệ. Nếu cầu tiền bị chi phối bởi những quy luật kinh tế khách quan thì cung tiền lại phụ thuộc nhiều vào ý thức chủ quan của các cơ quan quản lý vĩ mô. Việc nghiên cứu cung cầu tiền tệ sẽ giúp Nhà nước có chính sách, biện pháp điều tiết cung cầu tiền tệ cho phù hợp với từng giai đoạn nhất định của nền kinh tế.
2.2. LẠM PHÁT
2.2.1. Khái niệm và các mức độ lạm phát:
2.2.1.1. Khái niệm:
Cho đến nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát. Xét trên góc độ dấu hiệu biểu hiện và nguyên nhân chính của lạm phát, người ta thường đề cập đến các quan điểm thông dụng về lạm phát như sau:
- Quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và sự tăng giá - gọi là lạm phát giá cả. Theo quan điểm này thì lạm phát là sự tăng giá nói chung của hàng hoá. Khi đó, giá cả của hàng hoá không phản ánh đúng giá trị của chúng (giá cả cao hơn giá trị thực của hàng hoá), điều đó có nghĩa sức mua của đồng tiền bị giảm sút.
- Lạm phát lưu thông tiền tệ: Đây là quan điểm cho rằng lạm phát là kết quả của việc gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông với một tỷ lệ cao, ngược lại lạm phát cao kéo theo một sự tăng trưởng tiền tệ cao.
- Lạm phát nhu cầu: là lạm phát do cầu quá mức- gọi là lạm phát cầu kéo. Lạm phát này xảy ra khi các hiện tượng của nền kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn dến tăng tổng cung tiền, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế không tương xứng đã dẫn đến lạm phát. Lạm phát nhu cầu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là tăng cầu tiền do thâm hụt ngân sách hay tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa.
Khi các nhà hoạch định chính sách theo đuổi mục tiêu duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thì họ sẽ phải hoạch định các chính sách để tăng tổng cầu (để đạt được một chỉ tiêu sản phẩm YT lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm YN). Tác động đó đã làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2, điểm cân bằng của nền kinh tế dịch chuyển từ điểm 1 đến 1’. Tuy nhiên, tại điểm này, tỷ lệ thất nghiệp là dưới mức tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng cung sẽ dịch chuyển từ AS1 đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1 đến điểm 2. Nền kinh tế lui về tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở mức giá P2 cao hơn. Nhưng đến đây tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn chỉ tiêu dự định nên các nhà hoạch định chính sách lại sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt được chỉ tiêu sản phẩm ở điểm 2 và quá trình sẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn nữa.
P
LRAS
AS4 AS3 AS2 AS1
P4
P3
3’
3
4
1’
2’
2
P2
P1
0
1
AD3
AD4
AD2
AD1
YN YT Y
- Lạm phát chi phí: là lạm phát do chi phí tăng trong khi khối lượng sản xuất không tăng hoặc tăng ít- gọi là lạm phát chi phí đẩy. Chi phí sản xuất tăng lên khiến cho mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm phát. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát phí đẩy, như là: tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội; đầu tư cơ bản sử dụng vốn từ NSNN và vốn tín dụng kém hiệu quả; nguyên liệu đầu vào của một số sản phẩm thiết yếu tăng lên; sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội; nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu các chứng từ có giá bị lạm dụng;…
Giả sử công nhân đòi tăng lương làm cho đường tổng cung di chuyển từ AS1 đến AS2. Nếu chính sách tiền tệ của Chính phủ vẫn không thay đổi thì điểm cân bằng của nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 tới điểm 1’. Sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên của nó (YN® Y’) và giá cả sẽ tăng đến P1’.
Do sản phẩm giảm và tỷ lệ thất nghiệp tăng nên các nhà hoạch định chính sách sẽ thực hiện chính sách làm tăng tổng cầu lên đến AD2 để quay lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm, khi đó mức giá cả là P2.
Khi chính sách này được thực hiện, tiền lương của công nhân sẽ được tăng lên. Kết quả là đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS3, thất nghiệp lại phát triển và lại có các chính sách tác động để di chuyển đường tổng cầu đến AD3, đẩy mức giá cả lên P3. Nếu quá trình này tiếp tục thì kết quả là việc tăng liên tục của mức giá cả, tức là một tình trạng lạm phát chi phí đẩy.
P
LRAS
AS4 AS3 AS2 AS1
P4
P3
3’
3
4
2’
2
P2
P1’
P1
0
1’
1
AD3
AD4
AD2
AD1
Y’ YN Y
Tóm lại, có thể hiểu lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông quá lớn, vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà nó đại diện.
2.2.1.2. Các mức độ lạm phát:
Có 3 mức độ lạm phát:
- Lạm phát vừa phải: Đây là lạm phát mà tỷ lệ tăng giá của hàng hoá trong khoảng dưới 10%/ năm, còn gọi là lạm phát 1 con số. Trong điều kiện lạm phát vừa phải xảy ra, giá cả hàng hóa tăng nhẹ nên giá trị tiền tệ tương đối ổn định, tạo môi trường thuân lợi cho các chủ thể kinh tế và toàn bộ nền kinh tế phát triển. Tác hại của lạm phát vừa phải là không đáng kể, thậm chí lạm phát loại này còn có tác dụng tích cực đối với sự phát triển cho nền kinh tế xã hội. Chính vì thế, khi xây dựng chiến lược quản lý và phát triển nền kinh tế vĩ mô, các nhà hoạch định chính sách thường định hướng chỉ số lạm phát nằm trong giới hạn một con số.
- Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số (tối đa là 200%). Trong điều kiện lạm phát phi mã, nền sản xuất sẽ không phát triển và hệ thống tài chính quốc gia đó sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Các quốc gia Mỹ La tinh đã hứng chịu lạm mức lạm phát từ 20% đến 200% trong suốt thời kỳ từ 1980 đến 1999. Việt nam những năm 1976 đến 1994 cũng trải qua thời kỳ lạm phát cao, hầu hết chỉ số lạm phát các năm đều là 2 con số.
- Siêu lạm phát: là loại lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng với tỷ lệ trên 200%. Siêu lạm phát phá hủy toàn bộ nền kinh tế và luôn đi kèm với hiện tượng suy thoái nền kinh tế nghiêm trọng. Điển hình ví dụ về hiện tượng lạm phát này là lạm phát ở Đức những năm 1922-1924; lạm phát ở Nga sau Cách mạng tháng 10; lạm phát ở Mỹ thời kỳ nội chiến hay ở Zinbabwe với tốc độ lạm phát tại thời điểm tháng 7/2008 là 2.200.000%. Việt nam cũng đã trải qua siêu lạm phát trong những năm 1986-1987-1988 với mức độ lạm phát đỉnh điểm vào năm 1987 là 776%.
2.2.2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế:
Khi xem xét nguyên nhân dẫn đến lạm phát, người ta thường chia thành các nhóm nguyên nhân như sau:
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chính sách của Nhà nước: Lạm phát do nguyên nhân này thường xảy ra khi có những thay đổi về chính sách tài chính-tiền tệ của Chính phủ như chính sách thu chi NSNN, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách tỷ giá,…làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế biến động hay làm cho giá ngoại tệ tăng lên. Nhìn chung, Chính phủ chỉ ra những quyết định thay đổi các chính sách trên nhằm mục đích điều tiết vĩ mô theo hướng có lợi cho nền kinh tế, nhưng đôi khi do không lường trước được những biến động thực tế nên đã gây ra tình trạng lạm phát. Chẳng hạn, trong một số trường hợp do sự thay đổi chính sách thu chi NSNN của Chính phủ đã dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách và buộc phải phát hành tiền để bù đắp. Do phát hành vượt quá lượng tiền cần thiết nên lạm phát đã xảy ra; hoặc những thay đổi trong chính sách tiền tệ tín dụng: ngân hàng trung ương ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm gia tăng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, nếu lượng tiền gia tăng này quá lớn, vượt quá nhu cầu của nền kinh tế sẽ dẫn đến lạm phát xảy ra.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chủ thể kinh doanh: Trong thực tế, do quản lý điều hành kinh doanh yếu kém, các cơ sở kinh doanh có thể làm tăng giá cả các yếu tố đầu vào. Khi giá cả của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất tăng lên, đặc biệt là giá các nguyên nhiên vật liệu cơ bản của nền sản xuất (xăng, dầu, sắt, thép, xi-măng,...) gia tăng sẽ đội giá thành sản phẩm và làm cho giá bán sản phẩm tăng lên. Khi giá bán của các các sản phẩm thiết yếu tăng lên, sẽ gây ra hiệu ứng tăng giá dây chuyền trên diện rộng. Lúc này, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát.Trong trường hợp này, khi giá cả của hàng hóa tăng lên trên diện rộng sẽ có tác động ngược trở lại đối với giá cả các yếu tố đầu vào. Quá trình này cứ tiếp diễn sẽ gây ra vòng xoáy lạm phát. Lạm phát ở mức độ cao đều ẩn chứa các nguyên nhân này.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên: Khi xảy ra những rủi ro như dịch bệnh, hạn hán, lũ lụt, động đất, núi lửa,... trên diện rộng thường để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế xã hội và để khắc phục đòi hỏi Nhà nước cần chi một lượng tiền không nhỏ vào lưu thông. Bên cạnh đó, tình trạng khan hiếm hàng hóa cục bộ và nhất thời cũng là một hiện tượng tất yếu của hậu thiên tai, dịch bệnh. Lúc này, nếu Chính phủ không có những kế sách khắc phục những rủi ro này một cách phù hợp thì chính những hiện tượng này đã đẩy khu vực đó và nền kinh tế rơi vào lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân này hầu như chỉ xảy ra ở những nền kinh tế yếu kém.
Ngoài những nhóm nguyên nhân trên, lạm phát còn có thể xảy ra bởi một số nguyên nhân khác như là: xảy ra chiến tranh, bất ổn chính trị, xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ,…
Thông thường, một nền kinh tế xảy ra lạm phát không thể chỉ bắt nguồn bởi một hoặc một nhóm nguyên nhân, mà sẽ là kết quả của tổng hợp tác động của nhiều nguyên nhân nêu trên.
2.2.3. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế xã hội.
Lạm phát là một hiện tượng rất phổ biến của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Tùy thuộc vào mức độ của lạm phát mà nó có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế xã hội.
- Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải thì nó sẽ có tác dụng kích thích nền kinh tế xã hội phát triển. Thậm chí nhiều nước còn coi đây là như là một chính sách của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông thường, khi chính phủ tăng cung tiền tệ ở mức hợp lý thì sẽ có tác dụng kích thích sản xuất trong nước phát triển, giảm tình trạng thất nghiệp,…. Tuy nhiên, khi đó, giá cả có xu hướng tăng và giá trị của đồng nội tệ bị mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Song, điều này sẽ kích thích hoạt động xuất khẩu, hạn chế hoạt động nhập khẩu,....
- Nếu lạm phát ở mức độ cao và quá cao (lạm phát phi mã và siêu lạm phát) thì lại có ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực của nền kinh tế, cụ thể:
+ Đối với lĩnh vực sản xuất, lạm phát làm cho giá cả vật tư, nguyên liệu, hàng hoá tăng nhanh, từ đó dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút, doanh thu của ngày hôm nay chưa chắc đã bù đắp được chi phí kinh doanh của ngày hôm sau, qui mô sản xuất ngày càng bị thu hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản xuất. Tình trạng này kéo dài sẽ khiến các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển hướng cơ vào những hàng hóa an toàn, giữ được giá trị (vàng, ngoại tệ,…) nhằm bảo toàn vốn.
+ Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá: lạm phát làm rối loạn quá trình lưu thông hàng hoá, kích thích tâm lí đầu cơ tích trữ hàng hoá, tạo nên nhu cầu giả tạo, làm cho sự mất cân đối giữa cung và cầu ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh sản xuất ngày càng thu hẹp, nhu cầu đầu cơ tăng lên, điều này càng khiến cho giá cả hàng hóa ngày càng leo thang, tức là lạm phát ngày càng tăng mạnh.
+ Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng: lạm phát phá vỡ các chức năng của tiền tệ, làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút một cách nhanh chóng, dân chúng mất lòng tin vào đồng tiền mất giá, không muốn nắm giữ đồng tiền đó nữa. Chính vì thế, việc dân chúng từ chối gửi nội tệ vào ngân hàng thương mại là tất yếu. Khi xảy ra lạm phát cao, dân chúng có xu hướng rút tiền gửi tiết kiệm để chuyển sang những hàng hóa, tài sản an toàn giữ được giá trị như vàng, ngoại tệ,… Điều này làm hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ của ngân hàng.
+ Đối với lĩnh vực tài chính Nhà nước: lạm phát làm cho nguồn thu NSNN ngày càng bị thu hẹp, giảm sút cả về số lượng lẫn giá trị thực tế, trong khi chi tiêu chính phủ ngày càng gia tăng về mặt giá trị thực tế, điều này dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách ngày càng tăng.
+ Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động: lạm phát làm cho tiêu dùng thực tế giảm, đời sống dân cư trở nên khó khăn do tiền lương danh nghĩa không đủ bù đắp cho nhu cầu tiêu dùng cần thiết, đồng thời tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát cao là rất nặng nề và nghiêm trọng, ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế xã hội của đất nước.
2.2.4. Các biện pháp kiểm soát lạm phát.
2.2.4.1. Giải pháp tình thế:
Đây được coi là những giải pháp được áp dụng với mục đích giảm tức thời "cơn sốt" lạm phát để có cơ sở áp dụng các giải pháp chiến lược lâu dài.
- Biện pháp về tiền tệ- tín dụng: Mục đích của biện pháp này là giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, và kiểm soát được quá trình lưu thông tiền tệ. Vì thế, NHTW và các ngân hàng thương mại cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
+ Thắt chặt cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng băng tiền tệ. Trong thời kỳ lạm phát cao xảy ra, NHTW không được phép phát hành thêm tiền vào lưu thông dưới bất kì hình thức nào, thậm chí ngay cả đối với những khoản tiền nhằm thực hiện các chương trình, chính sách chưa thực sự cấp thiết của Chính phủ cũng có thể bị hoãn lại nhằm hạn chế tối đa hiện tượng tăng tiền trong lưu thông.
+ Quản lí và hạn chế tối đa khả năng "tạo tiền" của NHTM bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng, xây dựng hạn mức tín dụng tối đa đối với các ngân hàng thương mại…nhằm hạn chế việc các ngân hàng thương mại cho các cá nhân và các tổ chức vay vốn không cần thiết.
+ Nâng cao lãi suất tín dụng: NHTW có thể sử dụng lãi suất cơ bản hoặc khung lãi suất để can thiệp vào biểu lãi suất huy đông và cho vay của các ngân hàng thương mại. Theo đó, mức lãi suất tín dụng chung trên thị trường được điều tiết tăng lên, một mặt để hạn chế các chủ thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng một cách không cần tiết, mặt khác, để thu hút dân chúng gửi tiền tiết kiệm hưởng lãi cao nhằm hút bớt lượng tiền có xu hướng nhàn rỗi, dư thừa trong lưu thông. Để biện pháp này thật sự có hiệu quả thì mức lãi suất phải đủ "hấp dẫn" và biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo lãi suất thực phải lớn hơn 0.
+ Các NHTM phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong công chúng: bên cạnh các hình thức nhận tiền gửi thông thường, cần phát triển các hình thức hấp dẫn như là gửi tiền có thưởng, gửi tiền nhận lãi trước, tiền gửi lãi suất bậc thang,.. hay phát hành các loại trái phiếu, tín phiếu ngân hàng có lãi suất cao,… nhằm thu hút dân chúng gửi tiền hoặc mua trái phiếu…
- Biện pháp về điều hành ngân sách: Mục đích là làm giảm bớt tình trạng mất cân đối trong thu chi NS tiến tới cân bằng ngân sách.
+ Tiết kiệm chi NS bằng cách cắt giảm các khoản chi không tác động một cách trực tiếp đến sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế: chi cho bộ máy quản lí hành chính, chi phúc lợi xã hội,…
+ Tăng cường và nâng cao hiệu quả thu của NSNN bằng cách: cải cách chính sách thuế theo hướng mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu (chống thất thu thuế, thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống).
+ Thực hiện chính sách thu bù đắp thiếu hụt ngân sách: Vay trong và ngoài nước, kêu gọi viện trợ,…
- Các biện pháp khác:
+ Kiểm soát giá cả và có biện pháp điều tiết giá cả thị trường đối với một số mặt hàng thiết yếu của sản xuất và đời sống, như: trợ giá, qui định mức giá trần, điều tiết thông qua quĩ dự trữ quốc gia,..
+ Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng thuế quan nhằm mục đích tăng quĩ hàng hoá tiêu dùng, giảm bớt sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong lưu thông.
+ Ổn định giá vàng và ngoại tệ nhằm tạo tâm lí ổn định giá cả các mặt hàng khác trong thị trường, như: tung quĩ dự trữ ngoại hối ra để điều tiết thị trường, kiểm soát chặt chẽ ngoại hối,...
2.2.4.2. Giải pháp ổn định tiền tệ chiến lược:
Đây là biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ nguyên lí "lưu thông hàng hoá là tiền đề của lưu thông tiền tệ" , nên nếu quĩ hàng hoá được tạo ra với số lượng lớn, phong phú về chủng loại, giá cả ổn định,… sẽ là tiền đề vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ.
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển ngành hàng hoá "mũi nhọn" cho xuất khẩu. Mục đích của giải pháp này là vừa đáp ứng các nhu cầu cơ bản đời sống và việc làm của nhân dân lao động, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác. Do đó, đây là cơ sở quan trọng để ổn định lưu thông tiền tệ trong nước.
- Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lí Nhà nước: Vai trò của Nhà nước đối với quản lí kinh tế vĩ mô là rất to lớn. Nhà nước là chủ thể duy nhất đảm bảo tính công bằng và ổn định trong kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động để thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Để đảm bảo thực hiện vai trò này, cần phải tinh giản biên chế, kiện toàn bộ máy hành chính,… từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi NSNN, ổn định ngân sách vững chắc và ổn định tiền tệ và góp phần ổn định lạm phát.
2.3. Thiểu phát
2.3.1. Khái niệm
Thiểu phát có thể được hiểu là hiện tượng kinh tế tiền tệ xuất hiện khi lượng cung hàng hóa dịch vụ lớn hơn nhu cầu của nền kinh tế làm cho giá cả của các hàng hóa, dịch vụ giảm xuống.
2.3.2. Nguyên nhân của thiểu phát:
Hiện tượng thiểu phát có thể xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Sự tăng nhanh của tổng cung hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Điều này có thể do:
+ Sự tiến bộ của KH công nghệ trong lĩnh vực sản xuất khiến hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều.
+ Sản lượng sản xuất gia tăng nhanh hơn so với khả năng tiêu thụ của nền kinh tế. + Hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ gia tăng.
+ Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới giảm, từ đó làm khả năng xuất khẩu giảm dẫn đến hàng hóa trong nước dư thừa.
- Sự suy giảm của tổng cầu trong nền kinh tế có thể do:
+ Tổng mức vốn đầu tư của XH giảm dẫn đến cầu đầu tư giảm
+ Tiền lương và thu nhập của người lao động giảm nên người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu.
+ Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ dẫn đến giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới giảm. Từ đó, làm cho xuất khẩu giảm và hậu quả là thu nhập của người lao động và Nhà nước giảm.
+ Chính phủ thắt chặt chi tiêu làm cho tổng cầu xã hội giảm.
2.3.3. Ảnh hưởng của thiểu phát đến nền kinh tế xã hội
Mặc dù là một hiện tượng không phổ biến như lạm phát trong nền kinh tế, nhưng khi thiểu phát xảy ra, cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định.
+ Đối với lĩnh vực sản xuất, thiểu phát làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm, dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút. Hàng hóa dịch vụ trở nên khó tiêu thụ hơn, từ đó làm cho qui mô sản xuất ngày càng bị thu hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản xuất.
+ Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thiểu phát làm hiện tượng hàng hóa bị ế thừa tồn đọng ngày càng tăng lên, do lượng cung hàng quá lớn trong khi tổng cầu của xã hội giảm làm cho sự mất cân đối giữa cung và cầu ngày càng gia tăng.
+ Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng, thiểu phát rối loạn quá trình lưu thông tiền tệ, hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nhu cầu vay vốn của toàn nền kinh tế giảm, ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ của ngân hàng.
+ Đối với lĩnh vực tài chính Nhà nước, thiểu phát làm cho nguồn thu NSNN ngày càng bị thu hẹp do các nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế thu nhập của các DN,... giảm. Từ đó đã làm cho tình trạng bội chi NS ngày càng tăng.
+ Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng do các DN phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công…., thu nhập cá nhân xem xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế bị giảm sút, dẫn đến chi tiêu thực tế giảm sút, đời sống dân cư khó khăn hơn.
Tóm lại, cũng giống như lạm phát ở mức độ cao, hậu quả của thiểu phát đối với nền kinh tế xã hội là rất nặng nề và nghiêm trọng, đặc biệt, nếu để tình trạng thiểu phát kéo dài, thì ngay sau đó tất yếu sẽ xảy ra hiện tượng lạm phát ở mức độ cao. Chính vì vậy, Chính phủ các quốc gia cần phải có các giải pháp phòng chống thiểu phát nhằm ổn định nền kinh tế xã hội.
2.3.4. Các biện pháp ổn định tiền tệ trong điều kiện thiểu phát
Thiểu phát là một hiện tượng bất ổn của nền kinh tế, tuy không phổ biến như lạm phát nhưng tác hại của thiểu phát nếu để lau dài cũng nghiêm trọng không kém gì lạm phát ở mức độ cao. Vì vậy, khi đối mặt với thiểu phát, Chính phủ các nước cần xây dựng hệ thống các giải pháp hợp lý để ổn định tiền tệ và lấy lại giá trị cho đồng nội tệ một cách nhanh chóng nhất nhằm hồi phục nền kinh tế.
2.3.4.1. Các giải pháp tình thế
Nhóm giải pháp tình thế bao gồm các chính sách mang tính cấp bách nhằm đem lại hiệu ứng tức thì đối với nền kinh tế trong cơn thiểu phát. Nhìn chung, những chính sách này đều hướng tới một mục tiêu chung nhất, đó là gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, đáp ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế và từ đó, thức đẩy nhu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội.
* Chính sách tài khóa: Nội dung của chính sách này là tăng chi tiêu của NSNN thông qua các khoản chi đầu tư phát triển, chi giải quyết công ăn việc làm, chi phúc lợi XH,… nhằm bơm thêm tiền vào nền kinh tế qua lĩnh vực chi tiêu công; thực thi chính sách giảm thuế, đặc biệt là thuế trực thu nhằm gia tăng khả năng thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế.
* Chính sách tiền tệ: NHTW điều tiết giảm lãi suất tín dụng trên thị trường, gia tăng hạn mức tín dụng cho người vay, nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm kích cầu tín dụng. Một mặt, hạn chế bớt lượng dân cư gửi tiền tiết kiệm ở các tổ chức tín dụng bởi lãi suất tiền gửi thấp, mặt khác, kích thích các chủ thể khác vay tiền từ tổ chức tín dụng bởi được hưởng lãi suất vay thấp. Qua đó, khối lượng tiền phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế sẽ tăng lên.
* Chính sách thu nhập: Tăng tiền lương cho người lao động, tăng các khoản phúc lợi XH… nhằm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, đáp ứng nhu cầu thanh toán trong tieu dùng, mua sắm hàng hóa dịch vụ của người dân.
* Các giải pháp khác:
+ Nhà nước có chính sách hỗ trợ DN trong việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
+ Hạn chế nhập khẩu (bảo hộ hàng hóa nội địa, chống buôn lậu,…), đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu (điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái, giảm thuế và trợ cấp để kích thích xuất khẩu,mở rộng thị trường xuất khẩu, …)
2.3.4.2. Giải pháp chiến lược
Giải pháp chiến lược nhằm đem lại hiệu quả lâu dài đối với nền kinh tế. Nhóm giải pháp này được áp dụng ngay cả trong điều kiện nền kinh tế không rơi vào tình trạng thiểu phát.
+ Nhà nước điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư và cơ cấu xuất nhập khẩu để đảm bảo sự phát triển cân đổi, ổn định và bền vững của nền sản xuất, tránh tình trạng dư thừa sản lượng tiêu thụ ở một số mặt hàng trong dài hạn, dẫn đến tác động dây chuyền (hiệu ứng đô-mi-nô) tới hàng loạt các hàng hóa khác và là nguyên nhân gây ra thiểu phát.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước, thường xuyên theo dõi các biến động của nền kinh tế, để từ đó có thể đưa ra các giải pháp điều chỉnh kịp thời, ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực của nền kinh tế ngay từ khi mới xuất hiện mầm mống.
Chương 3
CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
Sự hình thành và phát triển các tổ chức tài chính trung gian bắt nguồn từ nhu cầu giao lưu vốn trong nền kinh tế. Các tổ chức tài chính trung gian được xem là cầu nối giữa các chủ thể tạm thời thừa vốn và các chủ thể tạm thời thiếu vốn. Mục đích của chương này là cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về các tổ chức tài chính trung gian. Nội dung của chương đề cập đến những vấn đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm, chức năng và vai trò của các tổ chức tài chính trung gian; Trên cơ sở đó, phần tiếp theo của chương đi vào nghiên cứu các đặc điểm và các hoạt động cơ bản của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
3.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
3.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tổ chức tài chính trung gian
a. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, khi mà số lượng và mức độ tiết kiệm của các chủ thể ngày càng gia tăng, đồng thời quy mô sản xuất không ngừng mở rộng vượt quá khả năng tài trợ bằng vốn tự có đã dẫn đến một nhu cầu khách quan là phải có sự ra đời và phát triển các hình thức điều tiết vốn giữa các chủ thể với nhau. Quá trình điều tiết vốn từ chủ thể có vốn sang chủ thể cần vốn có thể được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản:
- Điều tiết vốn gián tiếp: Vốn được chuyển từ chủ thể dư thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn thông qua các trung gian tài chính (Ngân hàng, các công ty tài chính,..)
- Điều tiết vốn trực tiếp: Vốn được chuyển từ chủ thể dư thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn không phải thông qua các trung gian tài chính mà được thực hiện trực tiếp trên thị trường tài chính thông qua việc phát hành, mua bán các loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp.
Sự phát triển của các hoạt động kinh tế đã làm gia tăng khả năng tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn. Khi đó, việc mua bán chuyển nhượng quyền sở hữu và quyền sử dụng về tài sản, tiền vốn đã đòi hỏi cần phải có các tổ chức tài chính trung gian.
Thuật ngữ tổ chức tài chính trung gian (còn có thể gọi là định chế tài chính trung gian) được sử dụng trong chương này được hiểu theo hai góc độ:
- Tổ chức được thành lập vì mục đích đặc biệt và nó có những thể chế hay những quy tắc được xã hội và pháp luật thừa nhận;
- Chức năng của tổ chức này là làm trung gian tài chính. Đây là chức năng phản ánh sự điều phối nguồn vốn giữa người tiết kiệm cuối cùng và người cần vốn cuối cùng.
Như vậy, có thể định nghĩa: “Các tổ chức tài chính trung gian là những tổ chức thực hiện huy động nguồn tiền của những người tiết kiệm cuối cùng và sau đó cung cấp cho những người cần vốn cuối cùng ”
TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNGGIAN
Nhóm người cần vốn cuối cùng
- Tổ chức kinh tế (Doanh nghiệp)
- Nhà nước
- Hộ gia đình, cá nhân
- Các tổ chức XH.
Nhóm người tiết kiệm cuối cùng
- Hộ gia đình, cá nhân
- Các tổ chức XH.
- Tổ chức kinh tế (Doanh nghiệp)
- Nhà nước
Vốn Vốn
Những người tiết kiệm cuối cùng là những chủ thể nắm giữ các nguồn tiền nhàn rỗi, các chủ
thể này bao gồm các hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức kinh tế, Nhà nước và các tổ chức xã hội. Trên cơ sở số thu nhập có được, bằng việc tiết kiệm các khoản chi tiêu trong tiêu dùng, các chủ thể này sử dụng số tiền tiết kiệm được để cung cấp cho hệ thống tài chính mà chủ yếu là tổ chức tài chính trung gian để kiếm lời. Những chủ thể cần vốn cuối cùng là các chủ thể có nhu cầu vốn để tài trợ cho các hoạt động của mình, họ chính là các tổ chức kinh tế, Nhà nước, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức xã hội. Những chủ thể này đang tiến hành thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa cho xã hội nhưng nhu cầu vốn đầu tư vượt quá khả năng tự tài trợ nên họ buộc phải tìm kiếm nguồn tài trợ từ người tiết kiệm cuối cùng trên thị trường tài chính.
b. Đặc điểm
Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều tổ chức tài chính trung gian, tuy nhiên nhìn chung các tổ chức tài chính trung gian đều có các đặc điểm chung sau đây:
- Các tổ chức tài chính trung gian là các cơ sở kinh doanh tiền tệ và giấy tờ có giá nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Xét về khía cạnh này, các tổ chức tài chính trung gian có đặc điểm giống như các đơn vị kinh doanh khác, đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Có thể mô tả hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian theo sơ đồ sau:
Các dịch vụ đầu ra
- Nhận tiền gửi tiết kiệm
- Cho vay
- Các dịch vụ tài chính khác
TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
Các yếu tố đầu vào
- Nhà cửa, máy móc, trang thiết bị, phương tiện...
- Vốn bằng tiền
- Người lao động
- Tiến trình tạo ra các đầu ra của các tổ chức tài chính trung gian gồm 2 giai đoạn: huy động nguồn tiền của những người tiết kiệm cuối cùng; chuyển số vốn tiết kiệm này cho những người cần vốn cuối cùng.
+ Ở giai đoạn thứ nhất: Để huy động nguồn tiền của những người tiết kiệm cuối cùng, các tổ chức tài chính trung gian phát hành các loại tài sản tài chính, như trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, tài khoản thanh toán, để thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội.
+ Ở giai đoạn thứ hai: Các định chế tài chính trung gian mua lại các loại tài sản tài chính do các đơn vị cần vốn cuối cùng phát hành, như: thương phiếu, trái phiếu, các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm,...
- Các tổ chức tài chính trung gian đảm nhận những hoạt động trung gian như:
+ Trung gian mệnh giá: Các tổ chức tài chính trung gian thực hiện huy động các khoản tiền tiết kiệm có quy mô nhỏ tập trung thành quỹ cho vay có quy mô lớn để tài trợ cho những người cần vốn.
+ Trung gian rủi ro ngầm: Các tổ chức tài chính trung gian phát hành những loại tài sản tài chính tương đối an toàn, có rủi ro thấp như các chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng,… để thu hút tiền tiết kiệm của những người không chấp nhận rủi ro; còn các tổ chức tài chính trung gian lại chấp nhận những tài sản tài chính có rủi ro cao hơn như cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, …do những người cần vốn phát hành.
+ Trung gian kỳ hạn: Các tổ chức tài chính trung gian huy động những khoản tiền tiết kiệm với những thời hạn khác nhau, sau đó chuyển hoá và tài trợ cho những người cần vốn với những kỳ hạn cũng khác nhau.
+ Trung gian thanh khoản: Các tổ chức và cá nhân nắm giữ các loại tài sản tài chính có tính thanh khoản cao, khi có nhu cầu chi tiêu tiền mặt có thể đến các tổ chức tài chính trung gian chuyển đổi thành tiền tệ.
+ Trung gian thông tin: Bằng những kỹ năng của mình, các tổ chức tài chính trung gian thay thế những người tiết kiệm tiếp cận thông tin và đánh giá khả năng của người cần vốn cuối cùng để đánh giá và đặt vốn đầu tư một cách có hiệu quả.
3.1.2. Phân loại các tổ chức tài chính trung gian:
a. Căn cứ vào phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng:
Các tổ chức tài chính trung gian được chia làm hai nhóm:
- Ngân hàng: là tổ chức tài chính trung gian thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Tổ chức tài chính phi ngân hàng: là loại hình tổ chức tài chính trung gian không hội đủ các điều kiện để trở thành ngân hàng.
b. Căn cứ vào đặc điểm hoạt động:
Theo tiêu thức phân loại này, các tổ chức tài chính trung gian được chia thành các loại hình sau:
- Ngân hàng thương mại: Đây là tổ chức tài chính trung gian thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Các ngân hàng thương mại thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi có thể phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay, chủ yếu là cho vay thương mại, hoặc để mua trái phiếu Chính phủ. Đây là trung gian tài chính chủ yếu nhất ở bất kỳ quốc gia nào, là nơi mà các tổ chức, đơn vị và cá nhân thường xuyên giao dịch nhất.
- Các loại quỹ tiết kiệm: Nguồn vốn chủ yếu được huy động của tổ chức tài chính trung gian này là các khoản tiền gửi tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn và các khoản tiền gửi có thể phát séc. Số vốn huy động được chủ yếu sử dụng để cho vay thế chấp. Đây là điểm khác biệt cơ bản với ngân hàng thương mại.
Do các khoản cho vay thế chấp chủ yếu là các khoản cho vay dài hạn, các tổ chức này ban đầu chịu những ràng buộc khắt khe hơn so với ngân hàng thương mại.
Hiện nay, ở nhiều nước, pháp luật cho phép các loại quỹ tiết kiệm mở rộng phạm vi và đối tượng cho vay, nhằm xoá bỏ dần sự khác biệt với các ngân hàng thương mại. Do vậy, các trung gian tài chính này đang trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại.
- Các quỹ tín dụng: Tổ chức tài chính trung gian này thường hoạt động có tính chất tương trợ như là một hợp tác xã, được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt, các thành viên của quỹ là những người lao động trong các công ty. Trung gian tài chính này huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi để tiến hành cho vay. Thông thường, các quỹ tín dụng cung cấp các món vay quy mô nhỏ.
- Các công ty bảo hiểm: Là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc huy động vốn bằng cách bán các hợp đồng bảo hiểm đồng thời sử dụng vốn vào các hoạt động đầu tư, bù đắp bồi thường thiệt hại cho người mua bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra.
Cụ thể, các công ty bảo hiểm thực hiện trung gian tài chính bằng cách sử dụng phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản tài chính như trái phiếu, cổ phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món vay khác ít rủi ro để sinh lời. Từ những tài sản này, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng để thanh toán, bồi thường tổn thất cho những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm theo hợp đồng đã bán.
- Các công ty tài chính: Công ty tài chính là một trung gian tài chính tín dụng, được thành lập dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Khác với ngân hàng thương mại, công ty tài chính không được nhận tiền gửi thường xuyên dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, không thực hiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán.
- Các loại quỹ đầu tư: Là những tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc huy động vốn của các nhà đầu tư thông qua việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư và dùng số tiền thu được để đầu tư góp vốn kinh doanh hoặc đầu từ vào các loại chứng khoán khác như cổ phiếu, trái phiếu,...
- Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương: Tổ chức tài chính trung gian này cũng giống như các quỹ tiết kiệm, nhưng khác ở chỗ, chúng được tổ chức như những hiệp hội tương trợ, tức là hoạt động như kiểu hợp tác xã, trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu ngân hàng.
- Các quỹ hưu trí: Là trung gian tài chính huy động vốn bằng cách nhận đóng góp từ người lao động trong các doanh nghiệp hoặc khu vực Nhà nước, sau đó đầu tư tiền vào các loại chứng khoán để sinh lời. Tiền sẽ được trả lại cho các thành viên của quỹ dưới hình thức tiền hưu trí.
b. Căn cứ vào mức độ thực hiện chức năng trung gian:
- Các tổ chức nhận tiền gửi:
Đây là các tổ chức tài chính trung gian hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ các tổ chức và cá nhân, sau đó sử dụng nguồn vốn này để cho vay. Thuộc về các tổ chức nhận tiền gửi gồm có:
+ Các ngân hàng thương mại
+ Các quỹ tín dụng
+ Các quỹ tiết kiệm
+ Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương.
- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng:
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng thu nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở các hợp đồng thoả thuận với khách hàng và đầu tư chúng vào thị trường vốn dưới các loại tài sản tài chính dài hạn như: chứng khoán vốn, chứng khoán nợ. Do nguồn vốn huy động có đặc điểm là ổn định và dự đoán được, nên tính lỏng của các tài sản tài chính không phải là tiêu thức ưu tiên hàng đầu trong quản lý tài sản của các định chế tiết kiệm theo hợp đồng. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng bao gồm:
+
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Tài chính tiền tệ.doc