Tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế ở Việt Nam
25 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Đề tài: Chính sách tiền
tệ với việc thực hiện
mục tiêu ổn định kinh tế
ở Việt Nam
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 1
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với
hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản chất là một nên kinh tế tiền tệ. Do
đó việc ổn định giá trị đồng tiền cùng với việc thiết lập nền Tài Chính
Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu tiên cho việc kiềm chế lạm phát, và ổn
định nền kinh tế.
Ngày này việc làm và phân phối thu nhập vừa là vấn đề bức thiết
trước mắt, vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vì
vậy mà việc đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, tạo công ăn việc làm là vấn
đề thường trực. Giải pháp cho việc đẩy lùi lạm phát, trách thất nghiệp
nhiều cần tập trung vào chính sách tiền tệ nhưng việc lựa chọn giải
pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu
quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
Được sự hướng dẫn của thầy cô em xin nhận đề tài: “Chính sách
tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn đinh kinh tế ở Việt Nam”.
Tiểu luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ với việc
thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế.
Chương II: Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn
định kinh tế của Việt Nam thời gian qua.
Chương III: Một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính
sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Vì điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế, bản thân em là
người Laos chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô trong bộ môn để tiểu luận
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên: chon đao văn na
LỚP:K42-02.02
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI VIỆC THỰC
HIỆN MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH KINH TẾ.
I. ỔN ĐỊNH KINH TẾ- MỘT MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ QUAN
TRỌNG.
Ta biết rằng nhược điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trường là tự
động tạo ra các chu kì kinh doanh, sản lượng thực tế dao động lên
xuống xung quanh trục sản lượng tiền năng, nền kinh tế luôn có xu
hướng không ổn định.
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá
theo ba dấu hiệu chủ yếu: Ổn đinh, tăng trưởng và công bằng xã hội.
Trong đó ổn định kinh tế là một mục tiêu quan trọng hàng đầu của một
nền kinh tế. Ổn định kinh tế vĩ mô là kiểm soát được giá cả, tỷ giá, lãi
suất … Bằng việc duy trì và cải thiện các cân đối lớn của nền kinh tế
phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt là cân đối tiền- hàng, cán cân
thanh toán quốc tế, cân đối giữa thu- chi ngân sách Nhà nước, cân đối
vốn đầu tư, cân đối cung cầu một số mặt hàng thiết yếu nhất để từ đó
làm giảm bớt những dao động của chu kì kinh doanh, giải quyết tốt
những vấn đề cấp bách: Tránh lạm phát cao và thất nghiệp nhiều.
Ổn định kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng vì:
Thứ nhất: ổn định kinh tế vĩ mô là một điều kiện cơ bản của sự
phát triển xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: ổn định kinh tế vĩ mô là một chức năng quan trọng của
nhà nước trong vai trò quản lý nên kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước sẽ trực tiếp can thiệp vào
việc điều hành sản xuất kinh doanh, mà làm tốt chức năng định hướng
cho sự phát triển xã hội (Bao gồm cả chiến lược, quy hoạch, kế hoạch)
đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, ổn định kinh tế
vĩ mô, quản lý tốt kinh tế nhà nước, đảm bảo việc thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 3
Thứ ba: Trong thực trạng của kinh tế vĩ mô hiện nay, bên cạnh
những kết quả tích cực đã xuất hiện một số hạn chế, bất cập và đứng
trước những thách thức không nhỏ.
II. KHÁI NIỆM VÀ CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TỀN TỆ.
2.1. Khái niệm _
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính
sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối vơi nền
kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu kinh tê-xã hội trong từng giai
đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều
hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác
động đền bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục
tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định
giá cả hàng hóa. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến
khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thường là một
năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát
nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hóa.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính
chỉ tập trung vào thành phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khóa của
nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả
năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp
ứng khối lượng cần cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ
và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và
thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những
quỹ đạo đã định.
2.2 Công cụ của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng, Ngân hàng Trung ương có thể thực thi hai loại
chính sách tiền tệ, phù hợp với tình hình thực tiền của nền kinh tế, đó
là chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách thắt chặt tiền tệ.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 4
Chính sách nới lỏng tiền tệ: Là việc cung ứng thêm tiền cho nền
kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc
làm.
Chính sách thắt chặt tiền tệ: Là việc giảm cung ứng tiền cho nền
kinh tế nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền
kinh tế là kiểm chế lạm phát.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, ngân hang trung ương có
thể sử dụng hàng loạt các công cụ tiền tệ nằm trong tầm tay của m ình
đó là các công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
2.2.1 Các công cụ trực tiếp: Gọi là các công cụ trực tiếp vì thông
qua chúng,NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, mà
không cần thông qua một công cụ khác.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân
hàng kinh phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng
nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ là giảm tiền gửi, giảm khả
năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Xong biện pháp này sẽ làm cho các
ngân hàng thương mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh.
Mặt khác nó đễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại
thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng,
ngoại tệ bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng
như nguồn vốn cho vay.
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác, chính
phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt
lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính
chất bắt buộc.
2.2.2. Các công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của
nó có được là nhờ cơ chế thị trường.
- Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa
và dự trữ theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 5
chuyên dùng ở ngân hàng trung ương và để tại quỹ của mình, với mục
đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của Ngân Hàng Thương
Mại và dùng làm phương tiện kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân
hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả
năng cho vay và đầu tư của ngân hàng thương mại từ đó giảm lượng
tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu tiền để cân bằng với sự
giảm cung xã hội. Trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả
năng mở rộng cho vay của Ngân Hàng Thương Mại sẽ tăng lên, dẫn đến
sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để
cân đối tăng cầu về tiền.
- Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn:
Tái chiết khấu và tái cấp vốn là những cách thức cho vay của NHTW
đối với các NHTM.
Công cụ này có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ
của NHKD và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc
giảm tín dụng đối với nền kinh tế.
III.TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH KINH TẾ.
3.1.Dự trữ bắt buộc.
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các NHTM có khả năng biến
những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả
hệ thống, khả năng sinh ra bộ số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để
khống chế khả năng này, NHTW buộc các NHTM phải trích một phần
tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào NHTW không được
hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm
khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các
NHTM.
Khi lạm phát cao, NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng
cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số
nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung
tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và
làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại, nếu NHTW hạ thấp
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 6
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng
của các NHTM cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh
toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng
tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng
giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ dự trữ bắt buộc mang tình
hành chính áp đặt trực tiếp, đầy quyền lực và cực kì quan trọng để cắt
cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền
kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái
chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hòa mức cung tiền
cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ
thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng
lên rất lớn khó kiểm soát.
3.2. Tái chiết khấu:
Là phương thức để NHTW đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai
trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, NHTW đã
tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện việc tạo tiền,
đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền
trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính
sách tiền tệ. Tùy theo tình hình từng giai đoạn, tùy thuộc yêu cầu của
việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính
sách nới lỏng hay thắt chặt tín dụng mà NHTW quy định lãi suất thấp
hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ, phải có tác dụng
hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó.
Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các NHTM cũng phải
nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín
dụng tăng lên, giảm cầu về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ
(nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi).
3.3. hoạt động thị trường mở.
Nếu như công cụ lãi suất chiết khấu là công cụ thụ động của
NHTW, tức là NHTW phải nhờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu,
kỳ phiếu.. đến để xin “tái cấp vốn” thì nghiệp vu thị trường mở là công
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 7
cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều khiển khối lượng tiền,
qua đó kiểm soát lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền
trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách
mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước
hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của NHTM và các tổ
chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân
hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ
chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền tệ ảnh
hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát, việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay
đổi tỷ lệ lạm phát.
CHƯƠNG II
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI THỰC HIỆN MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA.
I.Sơ lược tình hình kinh tế tiền tệ Việt Nam thời gian qua:
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21 chúng ta đã thực hiện xong kế
hoạch năm năm lần thứ 6 là những năm có ý nghĩa quan trọng trong
việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế
xã hội.
1.1 chính sách tài chính.
Có nhiều đổi mới đã góp phần củng cổ và làm lành mạnh một
bước nền tài chính quốc gia, giữ ổn định và cân đối kinh tế vĩ mô, thúc
đẩy phát triển kinh tế.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2001 tăng 14,5% so với năm
2000 và đạt 21,6% GDP, năm 2002 tăng 14,6% và đạt 22,2% GDP. ước
tình 6 tháng đầu năm 2003 tăng 9,5% và đạt 22,8% GDP. Trong các
khoản thu, thu từ kinh tế nhà nước năm 2001 tăng 17,6 % và năm 2002
tăng 7,6%, thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2001 tăng
13,1% trong đó thu về dầu thô tăng 11,7%, năm 2002 tăng 2,7%, riêng
dầu thô giảm 2,6%. Thu ngân sách liên tục tăng qua các năm và tăng
mạnh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, chủ yếu do hệ thống thuế đã từng
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 8
bước được cải cách, đây là một bước tiến bộ quan trọng của quá trình
đổi mới chính sách tài chính, đã dần phù hợp với nền kinh tế thị trường
và yêu cầu của hội nhập nên đã từng bước giảm được phần thất thu.
Chi ngân sách nhà nước năm 2001 tăng 19,1% so với năm 2000
và băng 27% GDP, năm 2002 tăng 13,3% và băng 27,4% GDP, ước
tính 6 tháng năm 2003 tăng 14% và băng 13,4%. Cơ cấu chi ngân sách
nhà nước đã có những chuyển biến theo hướng tiếp tục tăng chi thường
xuyên ở mức cao. Chi đầu tư phát triển tập trung chủ yếu vào cho xây
dựng hạ tầng cơ sở, xong vẫn đảm bảo luôn ở mức 1/3 tổng chi ngân
sách nhà nước.
Chi thường xuyên năm 2001 tăng 15,8% và bằng 14,9%GDP,
năm 2002 tăng 14.9% và bằng 15,3% GDP, 6 tháng đầu năm 2003 tăng
14,3% (kể cả chi thực hiện chế độ tiền lương mới) và băng 15,2% GDP.
Chi thường xuyên đã tập trung và ưu tiên cho các nhiệm vụ quan trọng
như: Giáo dục-đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường. Bội chi
ngân sách nhà nước so với GDP bình quân hàng năm xấp xỉ 5%, ở mức
an toàn và kiểm soát được.
Thu chi ngân sách nhà nước so với GDP
2003 2004 2005
Tổng thu 20,5 21,6 22,2
Thu nội địa 10,5 10,9 11,2
Thu từ kinh tế nhà nước 4,6 4,8 4,6
Thu từ kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1,3 1,2 1,3
Thu hải quan 4,3 4,8 5,9
Thu dầu thô 5,3 5,5 4,8
Thu viện trợ không hoàn lại 0,5 0,4 0,4
Tổng chi 24,7 27,0 27,4
Chi đầu tư phát triển 6,7 8,4 8,2
Chi trả nợ, viện trợ 3,0 3,1 3,7
Chi thường xuyên 14,0 14,9 15,3
1.2 Chính sách tiền tệ.
Hoạt động ngân hàng từng bước được chấn chỉnh, đã có một số
tiến bộ trong điều hành và sử dụng công cụ chính sách tiền tệ, tín dụng
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 9
tiếp tục tăng, đáp ứng một phần quan trọng trong tạo nguồn vốn cho
đầu tư phát triển sản xuất. NHNN vẫn tiếp tục thực thi chính sách tiền
tệ thận trọng, nhằm mục đích ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thị trường không có những biến
động lớn về giá cả, lãi suất và tỷ giá. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng
vẫn chưa phát huy mạnh mẽ vai trò là công cụ quan trọng điều tiết
kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ và khả năng kiểm soát giám sát nền
kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng còn hạn chế.
II.SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM NHẰM ỔN ĐỊNH
KINH TẾ.
2.1 Lãi suất.
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các
nước. ở nước ta NHTW đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi
suất nhằm tác động tích cực đến nền kinh tế trong qua trình chuyển đối
có thể thấy rõ tình linh hoạt của chinh sách lãi suất qua các thời điểm:
- Trước ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện
cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Đồng VN, mức lãi suất cơ bản được
công bố trong những tháng đầu năm 2002 là 0,6%/tháng. NHNN cũng
đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối với ngoại tệ từ
tháng 6 năm 2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn
của VN trong qua trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát
với những diễn biến của thị trường quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước quyết định chuyển sang
cơ chế lãi suất ổn định Đồng VN của các tổ chức tín dụng đối với
khách hàng. Đây là một sự “cởi trói” cho các tổ chức tín dụng trong các
hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng chủ động
trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế
mới đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của
các tổ chức tín dụng. Nếu như với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các đầu
năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất
cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế lãi suất thỏa
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 10
thuận từ tháng 6 năm 2002 và nhất là trong các tháng 8và 9 năm 2002
lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7% thậm trí
0,72%/tháng. Mức lãi suất cao nhất trong vòng gần hai năm qua,
không dừng lại ở đó các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vốn vay trên
thị trường vẫn cao các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng vẫn
tiếp tục cuộc cạnh tranh huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi
suất huy động. Thực hiện các hình thức khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn.
Đã xuất hiện diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là
lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi lãi suất ngoại tệ giảm xuống
quá thấp.
2.2 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Ngày 12/7/2000, NHNN Việt Nam chính thức đưa công cụ
nghiệp vụ thị trường vào hoạt động đây là một sự chuyển biến quan
trọng điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam,
từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các cộng cụ gián tiếp
theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Qua hơn hai năm triển khai thực hiện, đến nay đã có 22 tổ chức
tín dụng được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường
mở trong đó có 4 ngân hàng thương mại quốc dân, 10 NHTM cổ phần,
1 ngân hàng nước ngoài, một công ty tổ chức và quỹ tín dụng nhân dân
TW.
Từ tháng 5/2002 nghiệp vụ thị trường mở được đưa vào giao dịch
hàng tuần, quy mô và doanh số ngày càng tăng, lãi suất ngày càng linh
hoạt. Trong các hình thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở thì
việc NHNN mua các giấy tờ có giá là chủ yếu (NHNN bơm tiền ra),
chiếm tỷ lệ từ khoảng 71% lên trên 90%.
2.3 Các công cụ khác.
- Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu:
Như đã biết đây là cửa sổ chiết khấu rất quan trọng để tăng hoặc giảm
khả năng cho vay của các NHTM làm tăng hoặc giảm lượng cung ứng
cho nên kinh tế. Trong thời gian vừa qua lãi suất tái cấp vồn và lãi suất
chiết khấu đã được NHNN áp dụng phù hợp với diễn biến trên thị
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 11
trường tiền tệ. Như đã nói do tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ
quá nóng từ tháng 8/2003, NHNN đã quyết định giảm đáng kể lãi suất
tái cấp vốn đây là một quyết định kịp thời đã góp phần hạ nhiệt cơn sốt
lãi suất trên thị trường trong mấy tháng gần đây.
-Dự trữ bắt buộc:
NHTM sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền
cung ứng ra qua việc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM
và tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Trong thời
gian qua, tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi nội tệ vẫn được giữ nguyên
ở mức thấp trong hơn hai năm qua, 2% với NHNN và NH phát triển
nông thôn Việt Nam, 3% với các tổ chức tín dụng đô thị khác.
2.4.Công cụ tỷ giá.
NHNN đã rất linh hoạt trong sử dụng công cụ này. Từ ngày
1/7/2002 NHNN quyết định nới lỏng biên độ quy định tỷ giá của các tổ
chức tín dụng. Trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng,
quy định này đã giảm dần những quy định mang tính chất hành chính
can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Ngày
13/9/2003, thống đốc ngân hàng nhà nước đã ra quyết định
958/2002/QĐ-NHNN về quản lý ngoại hối đối với việc mua bán chứng
khoán. Từ tháng 10/2002 NHNN đã có các quy định mới về trạng thái
ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại ... cùng với việc ban hành
những chính sách nói trên, NHNN vẫn duy trì và vận hành có hiệu quả
hoạt động của thị trường ngoại tệ, liên ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ
swap trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ lấy đồng Việt Nam giữa NHTM
và NHNN.
III. NHỮNG ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG SỬ
DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THỰC HIỆN MỤC TIÊU ỔN
ĐỊNH KINH TẾ VIỆT NAM THỜI GIAN QUA.
1. Lãi suất.
Mặc dù những thành công của NHNN là đáng ghi nhận trong thiết kế
cơ chế kiểm soát lãi suất như: Hình thành hệ thống lãi suất điều tiết của
NHTW, sử dụng phối hợp các công cụ để điều tiết lãi suất thị trường ...
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 12
nhưng hiệu quả và kết quả còn nhiều hạn chế bởi nền tảng cho cơ chế
kiểm soát lãi suất chưa được thiết lập. Nó thể hiện như sau:
1.1. Chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường
tiền tệ. Do đó chưa thực vai trò hướng dẫn sự biết động của lãi suất
thị trường.
Cụ thể, mức lãi suất tái cấp vốn và lãi suất trần tăng lên vào
tháng 1 năm 1998 diễn ra sau khi mức lãi suất cho vay ngắn hạn của
NHTM đã nhích lên từ tháng 10 năm 1997 trước đó. Tượng tự, mức lãi
suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ 13,2% xuống còn 12% vào
tháng 2/1999 sau khi mức lãi suất ngắn hạn có xu hướng giảm vào
tháng 12 năm 1998 từ 14,7% xuống 14,5% và xuống tiếp 14% vào
tháng 2/1999.
Từ thời điểm tháng 2/1999 đến tháng 8/2001, mức lãi suất thị
trường giảm liên tục từ 14% xuống còn 9,3% đối với lãi suất ngắn hạn,
rồi từ 14,7% xuống còn 10,3% đối với lãi suất trung hạn và dài hạn
trong khi diễn biến lãi suất trần và cơ bản lại tách khỏi xu hướng thị
trường, sự tăng lên của lãi suất tái cấp vốn vào tháng 2/2003 tới
6,6%/năm cũng khẳng định những diễn biến của mặt bằng lãi suất thị
trường đã có xu hướng tăng vào cuối năm.
1.2 Những phản ứng của lãi suất thị trường đối với lãi suất.
Thực tế cho thấy mối quan hệ giữa các mức lãi suất lỏng lẻo,
không phối hợp hiệu quả và chức năng của chúng có biên giới. Từ
tháng 6/2002 NHNN chủ yếu sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để phản
ứng biến động của thị trường tiền tệ. Mặt nữa mối quan hệ nhân quả
truyền thống giữa lãi suất chủ đạo và lãi suất thị trường không được thể
hiện trong mối liên hệ của lãi suất tái cấp vốn và lãi suất liên ngân
hàng.
Có thể chứng mình bằng con số như sau: Vào quý 4 năm 2000 và
quý 3,4 năm 2001 khi thị trường lâm vào cảnh căng thẳng về nguồn vốn
VNĐ, lãi suất liên ngân hàng tăng tới 60% từ 4,5% vào tháng 9/2000
tới hơn 7% vào tháng 9/2001 và tăng nhẹ vào năm 7/2001tới 5,5% vào
tháng 11,12/2001 trong khi lãi suất tái cấp vốn không có biểu hiện biến
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 13
động. Hầu như từ tháng 8/2001 đến tháng 8/2002 lãi suất liên ngân
hàng luôn ưu thế hơn lãi suất tái suất vốn.
1.3 Các thị trường do ngân hàng nhà nước tổ chức mà thông
qua đó tác động vào lãi suất huy động vốn và cho vay của tổ chức tín
dụng ngày càng lớn, quy mô tăng, doanh số cao nhưng diễn biến lại
bất thường.
Trong lúc nhiều ngân hàng thương mại thiếu vốn chung, dài hạn
phải huy động với lãi suất trên 8%/năm thì phải đầu tư hàng trăm tỷ
đồng vào tín phiếu kho bạc nhà nước, chịu lỗ để giải quyết vần đề
thanh khoản và vốn khả dụng. Ngược lại, trong khi nhiều phiên dao
dịch nghiệp vụ thị trường mở lại không có thành viên. Điều đó chứng
tỏ khả năng điều hành vốn khả dụng của NHTM, của NHNN chưa
thông suốt. Bên cạnh đó các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài vẫn ngoài cuộc, đặc biệt là các công ty bảo hiểu lại vắng
bóng trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc.
2. Công cụ thị trường mở.
Bên cạnh những kết quả khả quan nghiệp vụ thị trường mở vân
bộc lộ một số hạn chế:
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là một hoạt động hoàn toàn
mớ lên một số tổ chức vẫn còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia. Nghiệp vụ
thì trường mở ra đời trong điều kiện nền kinh tế còn đang ỏ trình độ
phát triển thấp, chưa ổn định, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ
chưa phát triển, nền kinh tế thế giới lại không ngừng biến động, môi
trường hoạt động của các tổ chức tín dụng còn chứa đựng nhiều rủi ro.
-Hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động, mỗi phiên
giao dịch chỉ có từ 1-4 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ tương đối thấp
so với tổng số các thành viên và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các
TCTD. Các thành viên tham gia là các NHTM quốc doanh do lượng
hàng hóa trên thị trường chủ yếu tập trung tại các ngân hàng này, còn
việc tham gia các TCTD khác trên thị trường còn nhiều mở nhạt.
- Hàng hóa còn nghèo nàn, không đa dạng về chủng loại và thời
hạn. Luật NHNH quy định chỉ có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn mới
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 14
được giao dịch trên thị trường mở, do vậy đã giới hạn và thu hẹp phạm
vi hoạt động của thị trường mở.
3.Hoạt động tín dụng.
Tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn tăng và không tương xứng vơi tốc
độ tăng nguồn vốn huy dộng của các loại vốn này. Trong vòng quay
của kinh tế thị trường, nhu cầu vốn là rất cao, thì nguồn vốn đầu tư từ
ngân sách hàng năm cho đầu tư còn rất hạn hẹp, vốn tự có của các
doanh nghiệp rất nhỏ, do vậy các doanh nghiệp khi cần vốn cho sản
xuất kinh doanh đều trông chờ vào nguồn vốn trung và dài hạn của hệ
thông ngân hàng. Trong khi đó nguồn vốn chủ yếu của các NHTM là
nguồn vốn ngắn hạn nên NHTM không đáp ứng được nhu cầu vốn trung
và dài hạn. Tình trạng này chưa có giải pháp tối ưu, mới chỉ có giải
pháp tình thế là ngành ngân hàng cho phép. Sở dĩ tình trạng trên tồn tại
vì :
- Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến huy động vốn trung và dài hạn
và ngân hàng là thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay ở giai đoạn
sơ khai, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn
giản, thuần túy. Mặt khác hệ thống pháp luật còn thiếu những quy định
toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt động, tiếp theo là những hạn
chế của chính ngành ngân hàng trong mọi hoạt động chu chuyển nguồn
vốn của các doanh nghiệp.
4. Tái cấp vốn và việc kiểm soát lượng tiền cung cấp.
Thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính NHNN đã sử dụng
nghiệp vụ tái cấp vốn như là công cụ để điều tiết việc mở rộng hay thu
hẹp tổng khối lượng tiền hay tổng phương tiện thanh toán trong nền
kinh tế. Từ tổng khối lượng tiền cung ứng được phép tăng lên hàng
năm NHNN kiểm soát chặt chẽ khối lượng tín dụng cho các NHTM qua
nghiệp vụ tái cấp vốn. Tuy nhiên do trong nền kinh tế chưa lưu thông
hối phiếu và thương phiếu nên NHNN chưa có điều kiện thực hiện tái
cấp vốn qua tái chiết khấu các kỳ phiếu thương mại cũng như chưa tái
cấp vốn qua các thế chấp bằng những chứng từ có giá. Trên tầm vĩ mô
NHNN vẫn chưa kiểm soát được toàn bộ các kênh tín dụng nằm ngoài
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 15
ngân hàng, như khối lượng của tổng cục đầu tư và hệ thống kho bạc.
Đây là 1 mảng của tổng phương tiện thanh toán cần nằm trong sự kiểm
soát của NHNN>
5. Dự trữ bắt buộc:
Từ năm 1991, dự trữ bắt buộc được áp dụng như một công cụ chủ
yếu để điều hành chính sách tài chính theo pháp lệnh ngân hàng, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc có thể ở mức 10-35% tổng nguồn vốn huy động của các
NHTM. Song xét hoàn cảnh thực tế, tiềm lực của các NHTM Việt Nam
quyết định dự trữ bắt buộc ở mức 10%. Tỷ lệ này từ năm 1991 tới nay
nhưng kỷ luật chấp hành của các NHTM chưa nghiêm túc nên tác dụng
của công cụ này kém hiệu quả.
Đầu năm 1994, NHTW đã có quy định bổ xung: Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đơn vị loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với loại tiền gửi là
7% nhưng cũng là để thi hành cho một thời gian dài. Sự ổn định như
vậy đã nói lên rằng, ở nước ta vào thời kỳ này mới bước đầu sử dụng
công cụ này, nên chưa có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt
theo thị trường tài chính luôn biến động trong lưu thông, nên chưa thực
hiện đầy đủ vai trò điều khiển khối lượng tiền lưu thông hạn chế bởi số
tín dụng của các NHTM như chức năng vốn có của công cụ này.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ GÓP PHẦN ỔN ĐỊNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Nước ta đang theo đuổi một chính sách phát triển kinh tế theo cơ
chế thị trường với định hướng XHCN và hội nhập dần với khu vực.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 16
Những ảnh hưởng chu kì do tác động của lực lượng thị trường trong và
ngoài nước là hiện tượng tất yếu trong cơ chế này. Chính sách kinh tế
vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ phải đảm bảo tính chủ động, sáng
tạo, linh hoạt và nhạy bén nhằm giảm thiểu các biến động chu kì trong
ngắn hạn và tạo sự ổn định về dài hạn. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay
vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập hơn, cơ chế thị
trường vẫn đang trong quá trình thiết lập, quản lý nhà nước vẫn còn
kém hiệu lực, hoạt động của các khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa
đạt hiệu quả cao... Trong những năm tới các cân đối kinh tế vĩ mô có
nhiều khó khăn hơn đặc biệt là cân đối ngân sách, cán cân thanh toán
quốc tế, lạm phát, áp lực về lao động và việc làm lớn, cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực còn ảnh hưởng nhiều thêm vào đó là ảnh
hưởng của thiên tai và chúng ta vẫn chưa khắc phục hết. Tuy nhiên,
những thuận lợi có thể nhìn thấy được là sự ổn định về chính trị-xã hội,
sự lớn mạnh về thế và lực nền kinh tế Việt Nam qua nhiều năm đổi
mới, quan hệ kinh tế đối ngoại còn nhiều cơ hội để tăng thêm tiềm lực
kinh tế thông qua hoạt động thương mại, đầu tư, góp phần hỗ trợ cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế. Đồng thời các chính sách đã triển
khai trong những năm trước sẽ phát huy tác dụng tốt. Như vây, giai
đoạn tới nền kinh tế Việt Nam còn phải đối đầu với rất nhiều những
khó khăn và việc giữ vững mức tăng trưởng, phát triển và ổn định là rất
khó, đòi hỏi sự hoàn thiện dần của tất cả các chính sách kinh tế trong
đó chính sách tiền tệ một công cụ hữu hiệu tạo lên một phần những
thành công trong giai đoạn qua và sẽ là công cụ đắc lực trong giai đoạn
tới.
1.Điều hành cung ứng tiền tệ.
NHNN cần tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong đó
kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, vừa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
phương tiện thanh toán của nền kinh tế theo tín hiệu thị trường, vừa kịp
thời có những biện pháp để thu hút tiền mặt về, giảm bớt sức ép lạm
phát. Khối lượng tiền tệ tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu có tính định
hướng NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, sự biến
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 17
đổi giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền
sao cho việc tăng, giảm khối lượng tiền không ảnh hưởng tới giá cả thị
trường và làm tắc nghẽn lưu thông. Việc điều chỉnh này phải thực hiện
thông qua các nhu cầu đối ứng tạo ra trong lĩnh vực tạo tiền bằng các
chính sách tín dụng về ngoại hối. Trong qua trình điều hành, căn cứ vào
tín hiệu của thị trường NHNN cần điều hòa khối lượng tiền cung ứng
vào các mục tiêu cho thích hợp và phương thức cung ứng tiền thông
qua các kênh:
- Mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ.
- Cấp tín dụng cho NHTM thông qua chương trình tín dụng của
nhà nước, vốn cho ngân hàng phục vụ người nghèo.
- Cho vay tái cấp vốn và tái chiết khấu.
- Cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước.
- Tăng vốn điều lệ cho NHTM quốc doanh.
- Nghiệp vụ thị trường mở.
2. Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỉ giá:
2.1 Chính sách quản lý ngoại hối.
Chính sách quản lý ngoại hối phải hướng tới mục tiêu chủ yếu là
bảo vệ đồng tiền Việt Nam, tạo tiền đề cho tương lai có một đồng tiền
Việt Nam chuyển đổi. Chính sách quản lý ngoại hối cần được kết hợp
chặt chẽ với chính sách ngoại thương để có kết quả bội thu trong cán
cân thương mại, ổn định tỉ giá hối đoái, tăng dự trữ ngoại tệ.
Cán cân thanh toán quốc tế phải được sử dụng như một công cụ
điều tiết vĩ mô. NHNN phải phân tích điều chỉnh cán cân thanh toán
quốc tế để đảm bảo cân bằng hợp lý trong giao dịch đối ngoại. Cần linh
hoạt trong quản lý ngoại hối cho phù hợp với quá trình chuyển đổi nền
kinh tế nhằm đảm bảo ổn định tỷ giá, ổn định tiền tệ tạo cơ để điều
hành chính sách tiền tệ một cách thuận lợi.
2.2. Chính sách điều hành tỷ giá.
Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ và có
nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ kiềm chế lạm phát góp phần tăng
trưởng kinh tế mức độ cao, bền vững.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 18
2.2.1 Hưởng tới chính sách tỷ giá cân bằng cung cầu.
Để thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả với doanh số dao dịch
cực đại có độ thanh quản cao và chi phí giao dịch thấp thì tỷ giá phải
được hình thành một cách khách quan theo quy luật cung cầu. Với vai
trò là NHTW, hiện nay NHNN quản lý thị trường ngoại tệ chủ yếu
thông qua quan hệ mua bán, công bố tỷ giá bình quân giao dịch liên
ngân hàng, quy định trần tỷ giá giao dịch ngay, tỷ giá phần trăm gia
tăng của tỷ giá kì hạn và các biện pháp quản lý ngoại hối.
2.2.2 Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng.
- Thực hiện vai trò của NHTW là người mua bán cuối cùng trên
thị trường ngoại hối, hiện tại do tỷ giá chưa thực sự làm chức năng điều
tiết quan hệ cung cầu thì vai trò hướng dẫn điều tiết của NHTW cần
được thể hiện thông qua việc mua bán ngoại tệ cuối cùng trên thị
trường ngoại hối. Ngoài ra NHNN cần tham gia và thực hiện các nghĩa
vụ kinh doanh ngoại tệ kì hạn, hoán đổi đúng như quy định nhằm tạo
điều kiện cho NHTM tham gia tích cực hơn vào thị trường ngoại hối.
- Tiến hành thiết lập thị trường ngoại lệ liên ngân hàng theo quy
mô, hình thực tổ chức kép bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới.
- Mở rộng số lượng thành viên, mặt khác cần tạo ra môi trường
và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường một cách tích cực
hơn. Nghiên cứu hình thành hiệp hội các nhà kinh doanh ngoại hối Việt
Nam.
- Hoàn thiện cơ chế giao dịch, hiện đại hóa khâu thanh toán trang
thiết bị công nghệ, thông tin tiên tiến nâng cao trình độ và kĩ năng kinh
doanh cho các cán bộ.
2.2.3 Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ.
Về nghiệp vụ kì hạn và hoán đổi, trước mắt lên cho phép các
ngân hàng thực hiện các hợp đồng với các kì hạn linh hoạt mà không bị
khống chế thời hạn. Bên cạnh đó, từng bước nới rộng tỷ lệ % gia tăng
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 19
cho phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh trang cho thị trường có
độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn.
- Mở rộng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ: Để phù hợp với trình độ
thị trường và nhu cầu thực tiễn, trước mắt NHNN cho phép và hướng
dẫn các NHTM tiến hành thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.
- Về nghiệp vụ tương lai: Nghiệp vụ này nổi tiếng là một cuộc
chơi dành cho những người chấp nhận rủi ro cao. Do đó với thị trường
non trẻ của Việt Nam thì chưa lên mở rộng nghiệp vụ thi trường này.
3.Chính sách huy động vốn và tín dụng
Đây là kênh đã, đang và còn tiếp tục đóng vai trò chủ lực trong
việc huy động vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên do độ sâu tài chính bình
quân của các ngân hàng Việt Nam còn quá thấp: Năm 2002 chỉ số tổng
huy động trên GDP mới đạt 55%, trong khi đó con số này của Thái Lan
là 94%, Trung Quốc là 137%... điều đó nói lên rằng tiền năng vốn trong
dân cư còn rất lớn. Để huy động tốt qua kênh chủ lực này cần ít nhất ba
điều kiện cơ bản là ổn định kinh tế vĩ mô, tăng tiềm lực tài chính cho
các ngân hàng và nâng cao uy tín đồng tiền Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng đóng vai trò
điều tiết thường xuyên đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và lạm phát. Dựa vào việc mở rộng tín dụng người ta có
thể đạt đến sứ mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản
và ngược lại. Vì vậy công cụ hạn mức tín dụng có ý nghĩa quan trọng
và việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu
chống lạm phát và ổn định kinh tế.
3. Điều hành chính sách tiền tệ với công cụ quản lý.
3.1 Dự trữ bắt buộc.
Thông qua việc thực hiện chế độ dự trữ bắt buộc NHNN điều
hành tổng phương tiện thanh toán qua cơ chế tác động đến khối lượng
và giá tín dụng của các ngân hàng thương mại. Muốn công cụ này trở
lên có hiệu quả hơn thì: Trước mắt phải hoàn hiện từng bước các văn
bản pháp lý trong lĩnh vực này, linh hoạt điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc cho phù hợp với tình hình thực tế. NHNN có thể hoàn lại số tiền
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 20
lãi mà NHTM phải trả cho khách hàng có tiền gửi để đảm bảo cho
NHTM kinh doanh có lãi. Cần thống nhất một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho
các loại tiền gửi có kì hạn và không có kì hạn. Thống nhất lập số tiền
dự trữ bắt buộc vào một tài khoản tiền gửi không kì hạn và quản lý theo
hạn mức; thực hiện việc thay đổi hay hoàn lại tiền lãi số tiền lãi, số tiền
hụt hay vượt mức dự trữ, sử phát nghiêm ngặt với các trường hợp vi
phạm.
3.2 Chính sách lãi suất:
Đây là công cụ sử dụng hiệu quả trong suốt những năm qua, và
chắc chắn sẽ là công cụ thiết yếu trong những năm tới, bởi chính sách
lãi suất là chính sách quan trong hàng đầu trong điều hành chính sách
tiền tệ Việt Nam hiện nay.
NHNN vẫn thực hiện vai trò kiểm soát và định hướng mức lãi
suất cho vay của hệ thống NHTM dưới hình thức quy định mức lãi suất
trần cho vay tối đa của các TCTD đổi vơi nền kinh tế.
- Cần lựa chọn mức lãi suất mục tiêu thích hợp và thiết lập được
mô hình kiểm soát mức lãi suất mục tiêu đó một cách hiệu quả. Lựa
chọn lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động là thích hợp hơn
cả. Đồng thời sử dụng mô hình kiểm soát lãi suất mục tiêu phù hợp
nhất đối với điều kiện cụ thể của thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay
là mô hình kiểm soát lãi suất liên ngân hàng thông qua nghiệp vụ thị
trường mở. Theo mô hình này, NHTW phải xác định được một mức
mục tiêu cho lãi suất liên ngân hàng và sử dụng nghiệp vụ thị trường
mở một cách thường xuyên.
3.3 Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng bậc nhất
trong điều hành chính sách tiền tệ. ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở
chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò để NHNN điều tiết mức
cung tiền. Vì vậy để sớm có thể đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt
động, xin kiến nghị một số đề xuất sau:
- Cần phải tổ chức tuyên truyền, tập huấn chỉ tiết, đi vào từng
nghiệp vụ cụ thể để từ đó giúp các thành viên thấy được vai trò, tác
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 21
dụng và sự linh hoạt của nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN, cũng như hiệu quả đạt được của TCTD
trong việc điều hành nguồn vốn của mình.
- NHNN cần phải có sự phối hợp giữa các công cụ và biện pháp
điều hành chính sách tiền tệ cần hạn chế các hình thức cung ứng vốn tín
dụng khác từ NHNN như: tái cấp vốn, cho vay theo chỉ định, bên cạch
tiếp tục thực hiện việc khoanh nợ, cũng như việc củng cố và phát triển
thị trường tiền tệ, đặc biệt phải hỗ trợ cho sự phát triển của tiền tệ liên
ngân hàng, nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động mua bán
giấy tờ có giá... Bên cạnh đó, NHNN cần kết hợp trong việc điều hành
hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở với các nghiệp vụ khác như:
Chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn, hoán đổi ngoại tệ .... Để tạo ra
được môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các TCTD,
đồng thời giúp cho nghiệp vụ thị trường mở ngày càng củng cố và trở
thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả của NHTW.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 22
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia nói riêng và
chính kinh tế vĩ mô nói chung, chúng ta thấy rõ được vai trò và ý nghĩa
của nó trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền
kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ trở nên hết
sức quan trọng.
Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự
linh hoạt và sự thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối
cảnh kinh tế quốc tế hiện nay.
Bằng sự nỗ lực hiện tại và trong tương lai, sự kế thừa và phát huy
những thành tựu của chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ
Việt Nam sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng một đất
nước Việt Nam giầu mạnh, ổn định và phát triển sánh vai với các bạn
bè quốc tế.
Qua bài viết, tuy bản thân là người Laos, em cũng hiểu rõ phần
nào về chính sách tiền tệ, tuy còn nhiều vấn đề bất cập song em cũng
cố gắng hoàn thành bài viết, em mong có được sự đóng góp ý kiến của
Thầy cô và bạn đọc.
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lý thuyết tiền tệ- Trường Học Viện Tài Chính Hà
Nội
2. Đổi mới chính sách tiền tệ và kiểm soát ở Việt Nam.
3. Tạp chí nghiên cứu tài chính số 4 (2003), số 5,6 (2004)
4. Thời báo kinh tế và dự báo số 4 (2004)
5. Tạp chí nghiên cứu khoa học sinh viên số 5 (2004)
6. Tạp chí thuế nhà nước số 8 (2004)
7. Kinh tế học –david begg
8. Kinh tế xã hội Việt Nam từ năm 2001-2010
TiÓu luËn kinh tÕ vÜ m«
SV: chon ®ao v¨n na Líp : K42 – 02.02 24
MỤC LỤC
A.Lời nói đầu:.................................................................................. 1
Chương I: Lý luận chung về chính sách tiền tệ với việc thực hiện
mục tiêu ổn định kinh tế.............................................................. 2
I.ổn định kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng............... ..2
II.Khái niệm và công cụ của chính sách tiền tệ ...................................3
III.Tác động của chính sách tiền tệ đối với thực hiện mục tiêu ổn định
kinh tế................................................................................................5
Chương II: Chính sách tiền tệ với thực hiện mục tiêu ổn định kinh
tế của Việt Nam thời gian qua...........................................................8
I.Sơ lược tình hình kinh tế tiền tệ Việt Nam thời gian qua................ 8
II.Sơ lược về tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ của
Việt Nam nhằm ổn định kinh tế....................................................... 10
III.Những đánh giá chung về thực trạng sử dụng chính sách tiền tệ thực
hiện mục tiêu ổn định kinh tế Việt Nam thời gian qua ...................... 13
Chương III: Một số ý kiến đề suất đổi mới và hoàn thiện chính sách
tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay............................................................................................ 18
I.Điều hành cung ứng tiền tệ ........................................................... 18
II.Chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá ......................... 19
III.Điều hành chính sách tiền tệ với công cụ quản lý......................... 22
B.Kết luận.......................................................................................24
Tài liệu tham khảo.....................................................................25
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn đinh kinh tế ở Việt Nam.pdf