Tiểu luận Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT

Tài liệu Tiểu luận Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT CHƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) 000001. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và AFTA nói riêng. 000001.1. Cơ sở của hội nhập kinh tế . Ngày nay, các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát triển đã từng bớc tạo lập nên các mối quan hệ song phơng và đa phơng nhằm từng bớc tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với những mức độ khác nhau, nhằm đa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hớng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sôi động và đặc biệt quan trọng trong những năm gần đây. ã Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh t...

pdf34 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1023 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT CHƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) 000001. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và AFTA nói riêng. 000001.1. Cơ sở của hội nhập kinh tế . Ngày nay, các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát triển đã từng bớc tạo lập nên các mối quan hệ song phơng và đa phơng nhằm từng bớc tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với những mức độ khác nhau, nhằm đa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hớng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sôi động và đặc biệt quan trọng trong những năm gần đây. ã Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó. Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hớng toàn cầu hoá đi đôi với xu hớng khu vực hoá. Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trờng thế giới thống nhất, một hệ thống tài chính tín dụng toàn cầu, là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng giao lu kinh tế và khoa học – công nghệ giữa các nớc trên quy mô toàn cầu, là việc giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội có tính chất toàn cầu nh vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trờng sinh thái… Trong khi đó, khu vực hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dới nhiều hình thức nh khu vực mậu dịch tự do, đồng minh( liên minh ) thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị trờng chung, đồng minh kinh tế …nhằm mục đích hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bớc xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển t bản, lực lợng lao động, hàng hoá dịch vụ… tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nớc thành viên trong khu vực. Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trờng phát triển ( hay còn gọi là các quốc gia công nghiệp phát triển ) thì xu hớng tham gia vào hội nhập vào nền kinh tế các nớc trong khu vực và bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng. Việc tham gia mạnh mẽ và rộng rãi vào các khối liên kết kinh tế trong khu vực, từng bớc tiến tới sự nhất thể hoá cao thông qua các văn bản, hiệp định đã kỹ kết đã đa lạicho các quốc gia trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển, các thành viên đợc hởng u đãi về kinh tế, chính trị… Tình hình này trong quá khứ, hiện tại và tơng lai đang đặt ra cho các quốc gia đang phát triển trên thế giới nói chung và các quốc gia Đông nam á nói riêng những cơ hội và những thách thức mới. Cho đến nay đã hình thành hàng chục khối liên kết kinh tế quốc tế giữa các nớc đang phát triển ở châu Mỹ Latinh, châu Phi, châu á. Sự liên kết giữa các quốc gia đang phát triển, ngoài mục đích hợp tác hỗ trợ nhau phát triển còn nhằm mục tiêu chống lại các chính sách bảo hộ mậu dịch của các nớc công nghiệp phát triển. Việc hình thành các khu vực liên kết và sự hội nhập của từng quốc gia vào nền kinh tế các nớc trong khu vực với những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng khu vực liên kết và hình thức liên kết. Cụ thể là các liên kết sau : + Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do. + Liên minh thuế quan. + Thị trờng chung. + Liên minh tiền tệ + Liên minh kinh tế. 000001.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tê đối với Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay. Đối với các nớc đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đờng tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nớc khác và có điều kiện phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Nh vậy vấn đề đặt ra đối với Việt Nam không còn là “hội nhập” hay “không hội nhập” mà phải là hội nhập nh thế nào để tận dụng tốt cơ hội, giảm thách thức trong quá trình phát triển của mình trong điều kiện thế giới có nhiều biến động khó có thể dự đoán trớc đợc. Trớc đây, tính chất xã hội hoá của quá trình sản xuất chủ yếu chỉ lan toả trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá trình sản xuất , kinh doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất đã có những thay đổi đáng kể, hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. tình hình này đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc giacó nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, những nớc này là những nớc có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý… Ngày nay, một mặt do sự phát triển cao của lực lợng sản xuất làm cho tính chất xã hội hoá của nó vợt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan toả sang các nớc trong khu vực và thế giới. Mặt khác tự do thơng mại cũng đang trở thành xu hớng tất yếu và đợc xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn bán giao lu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trởng kinh tế và nâng cao đời sống của mọi quốc gia. Vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới đều điều chỉnh các chính sách theo hớng mở cửa , giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thơng mại, tạo điều kiện cho việc lu chuyển các nguồn lực và hàng hoá tiêu dùng giữa các quốc gia. Có thể nói sự hội nhập của nền kinh tế các nớc trong khu vực đang đa lại những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả ngời sản xuất và ngời tiêu dùng trong các nớc thành viên. Đặc biệt là Việt Nam thì mở cửa và hội nhập với các nớc trong khu vực và trên toàn thế giới đang là xu thế tất yếu. Chính sự hội nhập này đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích đáng kể. Cụ thể: Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nớc thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất, nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nớc, các khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của Việt Nam đợc khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự do hội nhập khu vực đã làm tăng thêm phúc lợi thông qua thay thế các ngành, trớc hết là công nghiệp của Việt Nam có chi phí cao bằng những ngành có chi phí thấp hơn của những quốc gia nhận đợc sự u đãi. Cũng trong điều kiện này, lợi ích của ngời tiêu dùng cũng đợc tăng lên nhờ hàng hoá của các nớc thành viên đa vào Việt Nam luôn nhận đợc sự u đãi. Do đó, hàng hoá hạ xuống làm cho ngời dân ở nớc chủ nhà có thể mua đợc khối lợng hàng hoá lớn hơn với chi phí thấp hơn Hai là, hội nhập khu vực còn góp phần chuyển hớng mậu dịch, sự chuyển hớng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan vì khi đó các điều kiện cơ bản giữa các nớc thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn trớc ngay cả trong trờng hợp một nớc nào đó trong liên minh tiến hành nhập khẩu hàng hoá của các quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhng nay đợc thay thế bằng việc nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các nớc trong liên minh mà giá cả lại cao hơn( do đợc hởng chính sánh u đãi thuế quan…) chính những u đãi này giữa các nớc thành viên trong liên minh đã đa tới sự chuyển hớng mậu dịch nói trên ( tức là thay thế những ngời cung cấp những sản phẩm cùng loại có chi phí thấp hơn nhng không đợc hởng các chính sách u đãi bằng những ngời cung cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn ( kém hiệu quả ) nhng đợc hởng sự u đãi của khối. Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá Thơng Mại tạo điều kiện cho Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý…từ các quốc gia khác trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá Thơng Mại góp phần tăng năng suất lao động, tăng trởng kinh tế, tự do hoá Thơng Mại giúp tăng trởng kinh tế bằng hai cách: tăng xuất khẩu và tăng năng suất cận biên của 2 yếu tố sản xuất là vốn và lao động. Bên cạnh những lợi ích kinh tế chủ yếu trên đây, cũng cần phải thấy rằng việc hội nhập vào nền kinh tế các nớc trong khu vực với các hình thức liên kết đa dạng từ thấp đến cao đang đặt ra cho nớc ta những thử thách mới cần phải ứng xử cho phù hợp với quá trình tự do hoá Thơng Mại. Những thử thách đó là : - Phải nhanh chóng điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên cơ sở xoá bỏ những hạn chế về Thơng Mại nh thuế quan, hàng rào phi thuế quan, trong đó phải kể đến sự điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu giá và tỷ giá hối đoái. - Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp. - Cải cách hệ thống tài khoá, đặc biệt là những trờng hợp thuế quan mậu dịch có tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu ngân sách và do đó làm nảy sinh những kho khăn trong qua trình cân đối ngân sách của chính phủ. - Cần phải thiết lập khuôn khổ pháp lý chung ( luật chơi chung) đối với các nớc thành viên. Trớc hết, cần phải giải quyết một số vấn đề có liên quan tới các quy định thuế quan, hải quan, chuẩn mực lao động, môi trờng sinh thái, chất lợng sản phẩm… - Vấn đề giải quyết công bằng, bình đẳng trong xã hội và giữa các nớc trong nội bộ khu vực. Nh vậy, việc hội nhập vào nền kinh tế các nớc trong khu vực, hình thành các dạng liên kết kinh tế quốc tế luôn đa lại cho Việt Nam những thuận lợi và những khó khăn, những lợi ích kinh tế khác nhau. Vì vậy, chúng ta cần tính toán cân nhắc, lựa chọn để đa ra những quyết định thích hợp trong quá trình hội nhập nhằm đạt đợc hiệu quả kinh tế cao. 000002. Quá trình hình thành và phát triển của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA ). 000002.1. Quá trình hình thành và phát triển. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 7 của hiệp hội các nớc Đông nam á ASEAN. Sự kiện trọng đại này đánh dấu một thành công to lớn của chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam, đánh đấu một bớc phát triển mới trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế và liên kết kinh tế quốc tế. Với 7 thành viên và với số dân 430 triệu ngời, diện tích 3,5 triệu km2, thu nhập bình quân đầu ngời là 1680 USD. ASEAN là cửu ngõ của Đông Nam á, là nơi hội tụ các giao lu kinh tế quốc tế và đang trở thành khu vực phát triển năng động nhất của châu á cũng nh trên toàn thế giới. Kể từ ngày 1/1/1993 các nớc ASEAN cùng nhau thoả thuận cùng nhau xây dựng khối mậu dịch tự do ASEAN- AFTA một thị trờng chung rộng lớn trong long Đông nam á. Đặc biệt là chơng trình u đãi thuế quan hữu hiệu chung( CEPT ), thực hiện giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan trong khoảng thời gian lúc đầu dự định là 15 năm sau đó rút xuống 109 năm bắt đầu từ 1/1/1993 có ý nghĩa quan trọng và tác động sâu sắc đến nền kinh tế mỗi quốc gia. Mục tiêu của chơng trình này là đến năm 2003 giảm thuế quan đối với các hàng hoá sản xuất trong nội bộ khối xuống tới mức 0-5%. Hội nghị cấp cao của ASEAN lần thứ 5 vừa qua đã đề ra yêu cầu cố gắng hoàn thành mục tiêu vào năm 2000. Thực hiện đợc điều đó AFTA sẽ góp phần tích cực vào việc tăng cờng khả năng canh tranh của ASEAN trong việc thu hút đầu t trực tiếp của nớc ngoài và ngợc lại, củng cố và thúc đẩy tiến trình nhất thể hoá trong khu vực và đa tới sự phát triển năng động hơn nữa của mỗi thành viên, điều này hoàn toàn phù hợp với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới cả trên cấp độ toàn cầu và trên cấp độ khu vực. ATFA ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các nớc. Tuy thế, sự ra đời của AFTA cũng là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài sau : - Về nhân tố bên trong : Do Sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá trong hai thập kỷ qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán lẫn nhau giữa các nền kinh tế ASEAN. Vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội địa của những nhóm nớc này đã tăng khoảng 20%, chẳng hạn vào năm 1980 hàng chế tạo của Singapo chỉ chiếm 15,3% trong tổng số hàng xuất khẩu nội bộ của ASEAN thì đến năm 1990 đã tăng lên 60,2%, cùng lúc đó Inđônêsia cũng tăng từ 13,3% lên đến 46,6%, Thái Lan từ 29,1% tăng lên 48,3%... có thể nói nền kinh tế của các nớc ASEAN có tính hớng ngoại và đang rất cần tìm kiếm thị trờng xuất khẩu . Điều này càng đợc thúc đẩy nhanh hơn nhờ sự tác động tích cực của tăng trởng kinh tế khu vực đối với các chiến lợc phi điều chỉnh và biện pháp tự do hoá thơng mại. Chính phủ các nớc ASEAN cũng nhận thấy rõ sự trở ngại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lợc phát triển và đi đến đề xuất một khu vực mậu dịch tự do hoá thơng mại giữa các nớc thành viên một cách có hiệu quả. - Về nhân tố bên ngoài, Do sự chuyển đổi sang kinh tế thị trờng của nhiều nớc trên thế giới tiêu biểu nh: Trung Quốc, các nớc Đông Âu, làm cho các quốc gia ASEAN ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn trong việc thu hút đầu t nớc ngoài và cạnh tranh thơng mại. Do sự cạnh tranh của nhiều tổ chức hợp tác của các khu vực nh EU, NAFTA. Nói cách khác, sức ép của chủ nghĩa khu vực cùng sự xuất hiện của các khối EU, NAFTA và nhiều yếu tố làm giảm đi lợi thế cạnh tranh của các nớc ASEAN đòi hỏi các nớc ASEAN phải có sự thống nhất để đi đến những biện pháp thúc đẩy nhanh chóng buôn bán nội bộ và tự do hoá quan hệ thơng mại giữa khu vực với các khối liên minh kinh tế khác. 000002.2. Sự ra đời và những mục tiêu chính của AFTA. AFTA(ASEAN Free Trade Area) là diễn đàn hợp tác kinh tế quan trọng và đáng chú ý nhất của ASEAN, đợc thành lập tại hội nghị thợng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore theo sáng kiến của ThaiLand, Tháng 2 năm 1992. Khu vực mậu dịch tự do AFTA chỉ gồm có những thành viên của hiệp hội các nớc Đông nam á (ASEAN), 7 thành viên của AFTA là : Singapore, ThaiLand, Philipine, Malaysia, Indonesia, Brunei, Việt Nam. Khu vực mậu dịch tự do AFTA lớn hơn khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA ) và liên minh châu Âu(EU) về số dân và diện tích nhng thấp hơn về thu nhập bình quân đầu ngời từ 10-15 lần. Khu vực mậu dịch tự do AFTA là nơi thu hút sự chú ý của các liên minh kinh tế thế giới, các công ty, các tập đoàn đa quốc gia cũng nh cả cộng đồng quốc tế, AFTA sẽ là khối mậu dịch "hạt nhân" của diễn đàn hợp tác kinh tế châu á thái bình dơng ( APEC), AFTA có một vị trí quan trọng với những mục tiêu sau đây - Thực hiện tự do hoá Thơng Mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực. - Thu hút đầu t trực tiếp từ nớc ngoài vào ASEAN bằng cách tạo dựng ASEAN thành một thị trờng thống nhấtvà hấp dẫn các nhà đầu t quốc tế. - Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là phát triển trong xu thế tự do hoá thơng mại toàn cầu. Thông qua việc thành lập AFTA các nớc ASEAN muốn tạo ra một thị trờng mà trong đó : + Một hàng rào thuế quan đợc xoá bỏ. + Thuế suất đánh vào các mặt hàng xuất nhập khẩu chỉ từ 0-5%. + Phơng thức để tiến hành giảm thuế là chơng trình CEPT. Tóm lại, AFTA ra đời đã trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hoá thơng mại rộng lớn hơn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dơng và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng mới cho sự phát triển của ASEAN trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hoá. AFTA sẽ làm tăng khối lợng buôn bán trong nội bộ ASEAN cũng nh giữa các nớc ASEAN với các nớc ngoài khu vực. Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia do ASC chỉ định thì AFTA có thể sẽ làm cho tổng kim ngạch xuất khẩu của các nớc ASEAN sẽ tăng từ 1,5% ( Đối với Singapore) đến 5%( Đối với TháiLand) và tronng khoảng 1,5 -5% đối với các nớc khác. 000002.3. Những quy định chung về AFTA-CEPT . AFTA có các nội dung chính sau : 1/ Chơng trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). 2/ Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nớc thành viên 3/ Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau. 4/ Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với ngoại thơng. 5/ Tiến hành hoạt động t vấn vĩ mô. Trong những yếu tố trên CEPT đợc coi là yếu tố cốt lõi vì thông qua việc giảm thuế quan, dỡ bỏ dần các hàng rào phi thuế quan...ngời ta sẽ xác lập đợc nền thơng mại tự do trong nội bộ khối. Không phải tới thời điển này, nhu cầu liên kết kinh tế trong lĩnh vực thơng mại của ASEAN mới đợc đặt ra. Trớc đó, từ năm 1997, một chơng trình nhằm thúc đẩy mậu dịch giữa các nớc thành viên đã đợc đa vào thực hiện với thoả thuận u đãi thơng mại (Preferentoal Trading Arrangements-PTA). Khác với PTA, quan hệ thơng mại ASEAN theo CEPT trong môi trờng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần đợc loại bỏ hoàn toàn. * Những quy định chung của CEPT. Chơng trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT ) đợc ký kết giữa các nớc ASEAN năm 1992 là cơ chế chính để thực hiện AFTA. Mục tiêu của CEPT là giảm mức thuế quan trong Thơng Mại nội bộ ASEAN xuống còn 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lợng và các hàng rào phi thuế quan. CEPT áp dụng với sản phẩm chế tạo, kể cả sản phẩm cơ bản và sản phẩm nông sản. Tuy nhiên, chỉ có những sản phẩm có ít nhất 40% giá trị xuất sứ của ASEAN (của riêng một nớc hoặc nhiều nớc ASEAN cộng lại) và phải là các sản phẩm đợc đa vào danh mục đợc giảm thuế và đợc hội đồng AFTA xác nhận Các sản phẩm đợc đa vào chơng trình cắt giảm thuế gồm 4 khoản mục : 1- Danh mục các xản phẩm với tiến trình giảm nhanh và giảm thờng(IL) 2- Danh mục các sản phẩm tạm thời cha giảm thuế(TEL) 3- Danh mục hàng nông sản cha qua chế biến. Nhạy cảm (UAPS) 4- Danh mục loại trừ hoàn thành ( EL ). Theo CEPT, tiến trình cắt giảm đợc quy định cụ thể cho các sản phẩm trong từng danh mục trừ các sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn là những sản phẩm không thuộc diện cắt giảm thuế quan( gồm các sản phẩm có ảnh hởng tới an ninh, quốc phòng và an toàn xã hội chiếm dới 5% tổng số mã thuế của ASEAN ). Tiến trình cắt giảm bình thờng của các sản phẩm thuộc danh mục cắt giảm các thuế suất trên 20% sẽ đợc giảm xuống còn 20% vào 1/1/1998 và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm có thuế suất dới 20% sẽ đợc giảm xuống 0-5% vào 1/1/2000. Đối với tiến trình nhanh, các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm 0-5% vào 1/1/2000, các sản phẩm có thuế suất dới 20% sẽ đợc giảm xuống 0-5% vào 1/1/1998. Các sản phẩm nông sản cha qua chế biến thuộc danh mục cắt giảm ngay sẽ bắt đầu đợc cắt giảm từ 1/1/1996 đến 1/1/2003 sẽ có mức thuế suất 0-5%. Các sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời cũng đợc chuyển sang danh mục cắt giảm ( mỗi năm 20% sản phẩm). Để giảm thuế trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 đến 1/1/2000. thời hạn chuyển sang danh mục cắt giảm đối với các sản phẩm nông sản cha chế biến thuộc danh mục TEL là từ 1/1/1998 đến 1/1/2003 mỗi năm 20%. Tuy nhiên, mỗi nớc có thể giảm thuế trong những thời gian khác nhau. Nhng thời điểm hoàn thành thuế là 1/1/2003. Các sản phẩm nông sản cha qua chế biến thuộc danh mục nhạy cảm sẽ đợc xenm xét riêng và bắt đầu cắt giảm từ 1/1/2001 hoặc chậm nhất là 1/1/2003 với mức thuế cuối cùng là 0-5% trừ một số mặt hàng nông sản đợc coi là nhạy cảm cao cha thống nhất đợc giữa các nớc ASEAN. Tuy nhiên sau một số năm thực hiện CEPT, các nớc thành viên ASEAN đã đề xuất ra một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là các nớc không nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy trình rạch ròi cho các thuế suất cần cắt giảm qua từng thời kỳ mà có thể tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế của nớc mình để xây dựng lịch trình cắt giảm thuế thích hợp, miễn sao giảm nhanh thuế quan xuống còn 0-5% trớc năm 2003, sớm hơn càng tốt. Hiện nay, Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó nh một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thơng mại ASEAN trớc thời hạn. Trên cơ sở phân tích cơ cấu các Danh mục, tại Hội đồng AFTA lần thứ 8, các nớc ASEAN đã khuyến nghị việc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình thực hiện AFTA bằng cách mở rộng các mặt hàng chịu thuế có thuế suất từ 0-5% vào năm 2003 và tối đa hoá số các mặt hàng có thuế suất giảm tới 0% vào năm 2003. Bảng: Triển vọng thực hiện CEPT của 6 nớc thành viên cũ trong ASEAN Mục tiêu đặt ra Nớc thành viên 100% tổng số dòng thuế cắt giảm có thuế 0- 5%vào năm 2002, với một số linh hoạt. 60% tổng số dòng thuế có thuế suất bằng 0% vào năm 2003 Brunây Đến 2002 sẽ đạt 99,75% 80,8% Indônêxia Đến 2002 sẽ đạt 99,08% 54,6% Malaixia Đến 2002 sẽ đạt 91,0% 60,2% Philippin Đến 2002 sẽ đạt 96,5% 0,07% Xingapo Đã đạt 100% 100% Thái Lan Đến 2002 sẽ đạt 94,8% 47,87% Nguồn : Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á 2/2002. ã Cơ chế trao đổi nhợng bộ của CEPT Khi vận dụng CEPT, chúng ta không đợc quên điều kiện bổ sung cho cơ chế giảm thuế theo CEPT. Đó là các u đãi theo CEPT giữa các quốc gia ASEAN sẽ đợc trao đổi trên nguyên tắc có đi có lại. Muốn đợc hởng nhợng bộ về thuế quan khi xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện sau: + Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục giảm thuế của cả nớc xuất khẩu và nớc nhập khẩu và phải có mức thuế quan nhập khẩu nhỏ hơn hoặc bằng 20%. + Sản phẩm đó phải có trong chơng trình giảm thuế quan đợc Hội đồng AFTA thông qua. + Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả mãn yêu cầu hàm lợng suất xứ từ các nớc thành viên ASEAN ít nhất là 40%. Công thức tính hàm lợng ASEAN nh sau: Giá trị nguyên vật liệu, Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận các sản phẩm bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu + là đầu vào không xác từ các nớc không phải định đợc xuất xứ là thành viên ASEAN x 100% < 60% Giá FOB Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ các nớc không phải là thành viên ASEAN tính theo gía CIF tại thời điểm nhập khẩu. Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận các sản phẩm là đầu vào không xác định đợc xuất xứ tính theo giá bắt đầu trớc khi đa vào chế biến trên lãnh thổ của nớc xuất khẩu là thành viên của ASEAN. Nếu một sản phẩm có đủ cả ba điều kiện trên sẽ đợc hởng mọi u đãi mà quốc gia nhập khẩu đa ra (sản phẩm đợc sử dụng u đãi hoàn toàn). Nếu sản phẩm thoả mãn các yêu cầu trên trừ việc có mức thuế nhập khẩu bằng hoặc thấp hơn 20% (tức là sản phẩm đó có thuế suất 20%) thì sản phẩm đó chỉ đợc hởng thuế suất CEPT cao hơn 20% trớc đó hoặc thuế suất MFN, tuỳ thuộc thuế suất nào nhỏ hơn. Các điều kiện trên đa ra nhằm đảm bảo sự bình đẳng hợp lý về cơ hội tiếp cận thơng mại giữa các nhà sản xuất đang cạnh tranh trong các quốc gia ASEAN. Chúng cũng góp phần khuyến khích các quốc gia nhanh chóng đa các sản phẩm vào Danh mục giảm thuế. Các sản phẩm thuộc Danh mục giảm thuế theo CEPT và các sản phẩm đủ điều kiện hởng u đãi thuế quan cuả các nớc trên khác sẽ đợc ghi rõ trong tài liệu hớng dẫn trao đổi nhợng bộ theo CEPT (CCEM) xuất bản hàng năm của mỗi nớc. 000003. Những cơ hội và thác thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia AFTA. 000003.1. Những cơ hội thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia vào AFTA Những năm gần đây đầu t của các nớc ASEAN đang có xu hớng tăng nhanh. Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA sẽ tạo ra thuận lợi cho sự phát triển kinh tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nớc Cụ thể : * Tăng cờng quan hệ thơng mại với các nớc - Việc tham gia vào chơng trình này là điều kiên thuận lợi để Việt Nam tăng nhanh tốc độ tăng trởng kinh tế và thơng mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. - Tham gia AFTA cũng là bớc đi cơ bản để Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế có quy mô rộng lớn hơn nh diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dơng APEC, tổ chức thơng mại thế giới WTO. AFTA, APEC, WTO . Nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế nhất là trong đàm phán đa phơng. * Mở rộng thị trờng u đãi. - ASEAN là thị trờng rộng lớn với khoảng trên 530 triệu dân sẽ là thị trờng tiềm năng cho việc tiêu thụ hàng hoá tại Việt Nam. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu là từ các nớc thành viên ASEAN. Các mặt hàng đợc nhà nớc u tiên nhập khẩu là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu xã hội. Khi tham gia AFTA và thực hiện chơng trình CEPT thì các mặt hàng này sẽ đợc giảm thuế nhập khẩu xuống 0-5%. Nh vậy, luồng hàng nhập khẩu đợc mở rộng nhanh chóng, ASEAN ảnh hởng rất lớn thành phẩm của các cơ sở sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu từ các nớc ASEAN . - Do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến, nếu Việt Nam tăng cờng sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích cho các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang các nớc trong khu vực và ngoài khu vực. - Một trong những quy định về sản phẩm đợc hởng quy chế hệ thống u đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ là “ trị giá nguyên vật liệu cho phép nhập để sản xuất hàng hoá đó phải dới 65% toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan của Mỹ” và “trị giá một sản phẩm đợc chế tạo ở hai hoặc trên hai nớc là hội viên của một Hiệp hội kinh tế, Liên minh thuế quan khu vc mậu dịch tự do thì đợc coi sản phẩm của một nớc”. Vì vậy, việc Việt Nam gia nhập AFTA tạo điều kiện cho Việt Nam có thể nhập nguyên liệu của các nớc ASEAN khác để sản xuất mà sản phẩm đó vẫn đợc hởng GSP. * Thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Tham gia vào AFTA, Việt Nam có điều kiện thu hút đợc nhiều vốn đầu t từ những nớc thừa vốn và đa dạng có sự dịch chuyển mạnh sang các ngành có hàm lợng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công nh: Singapo, Malaysia, Thái Lan. Việt Nam cũng có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nớc đó đang cần chuyển giao, tranh thủ nguồn vốn và những tiến bộ khoa học kỹ thuật của các nớc trong khu vực để khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất nớc, xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Đó cũng là cách “đi tắt, đón đầu” phù hợp của chúng ta. * Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tham gia AFTA sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới cơ cấu tổ chức, cách thức sản xuất, phơng pháp quản lý để nâng cao chất lợng, hạ giá thành sản phẩm tăng sức cạch tranh nền kinh tế từ đó có cơ hội để phát triển công nghiệp, nông nghiệp, thơng mại và dịch vụ tạo nên cơ cấu kinh tế thích hợp. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN hiện nay, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới chỉ đạt 18%, nông sản thực phẩm 48%, nhiên liệu 34%. Trong đó trọng tâm u đãi của chơng trình CEPT lại là các mặt hàng công nghiệp chế biến. Việc thực hiện chơng trình CEPT sẽ là cơ hội để Việt Nam chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hớng nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng các mặt hàng thô, sơ chế. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tổ chức lại sản xuất theo mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hớng tới xuất khẩu. Kết luận Những thuận lợi và lợi thế so sánh của Việt Nam chủ yếu là những nhân tố khách quan nhng những khó khăn chủ yếu là những yếu tố bắt nguồn từ chính nội lực nền kinh tế. Điều này chứng tỏ rằng, trong quá trình hội nhập khu vực, nền kinh tế Việt Nam rất dễ bị tổn thơng, trở thành thách thức to lớn đòi hỏi chúng ta phải vợt lên những trì trệ, ách tách của chính mình để tìm ra cách đi hợp lý để chiến thắng trong cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế về lâu dài để các liên kết giữa Việt Nam với các nớc thành viên ASEAN đợc bền chặt hơn trên cơ sở bình đẳng hai bên cùng có lợi . 000003.2. Những khó khăn và thách thức đặt ra cho Việt Nam khi tham gia vào AFTA-CEPT . Khu vực hoá và toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế của các mình mà tham gia vào lĩnh vực khác nhau, nớc ta tham gia vào AFTA bên cạnh những thuận lợi còn gặp không it những khó khăn trở ngại, cụ thể là : - Tham gia vào AFTA là thừa nhận tự do hoá Thơng Mại, tự do hoá lu chuyển hàng hoá trong khu vực. Đây là những việc làm mà nớc ta cha thực hiện bao giờ, bắt đầu tham gia AFTA ở trình độ kinh tế thấp, các nớc ASEAN đều đạt tốc độ tăng trởng cao, do đó ta phải cố gắng nhiều hơn. hiên tại sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn rất yếu, yếu toàn diện nếu so sánh về mặt giá cả và chất lợng. Hàng nhập ngoại nhập vào sẽ xảy ra tình trạng rất nhhiều ngành công nghiệp địa phơng không cạnh tranh đợc, sản xuất ra không ai tiêu thụ. Tiêu biểu là các ngành Dệt may, Dầy dép, Điện gia dụng…Trớc sức ép của thị trờng do hàng rào thuế quan giảm đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh sản xuất, đổi mới công nghệ, cải tiến kĩ thuật để hàng hoá Việt Nam có đủ sức cạnh tranh trên thị trờng thế giới. - Tham gia AFTA tác động trực tiếp đến giá cả hàng hoá, đơn giản thủ tục nhập khẩu thì giá cả hàng hoá sẽ giảm. Hiện nay hàng hoá Việt Nam còn chịu nhiều loại thuế khác nhau, nhiều chi phí khác không cần thiết đã góp phần đẩy giá lên. do đó, giá cả của hàng hoá Việt Nam thờng cao hơn rất nhiều so với giá cả hàng hoá của các nớc khác là thành viên của ASEAN. Vấn đề trớc mắt là ta phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá nằm trong danh mục cắt giảm thuế CEPT thì các doanh nghiệp Việt Nam mới có điều kiện phát triển, có lợi về giá cả khi xuất khẩu sang ASEAN. - Để hội nhập về kinh tế và mậu dịch với ASEAN, một thách thức không nhỏ đặt ra cho Việt Nam là xây dựng một chính sách quản lý nhà nớc thích hợp nhằm đảm bảo tự do hoá thơng mại nhng không làm mất đi chức năng quản lý nhà nớc về thơng mại, xoá bỏ những thủ tục hành chính rờm rà, quan niêu,không hiệu quả, cần có sự nghiên cứu các hiệp định, chơng trình hợp tác trong ASEAN tận dụng những cơ hội tốt để có những giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và chủ trơng phát triển kinh tế trong nớc … - tham gia afta, Việt Nam sẽ ảnh hởng đến nguồn thu ngân sách nhng thực sự không ảnh hởng lớn, trong danh mục cắt giảm thuế có tới 57% mặt hàng hiện có mức thuế từ 0-5%, trong đó hơn một nửa là thuế suất 0%. Điều đó có nghĩa là trên thực tế hầu nh chúng ta đã hoàn tất việc cắt giảm rồi, số mặt hàng có miền thuế đến 20% chỉ chiếm tỷ trọng 17á21% Tóm lại, nhìn tổng thể vào sự đóng góp vào ngân sách nhà nớc thì AFTA sẽ tạo nên sự hẫng hụt trong ngân sách nhà nớc. Việt Nam tham gia AFTA-CEPT chúng ta cần ý thức rõ những thuận lợi, cơ hội và những khó khăn thách thứcđể đề ra những quyết sách thích hợp với đờng lối đổi mới của đất nớc, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và khu vực. CHƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN LỘ TRÌNH AFTA-CEPT 000004. Quá trình thực hiện cam kết của Việt Nam với AFTA-CEPT . 000004.1. Các hoạt động chuẩn bị để thực hiện CEPT/ AFTA của Việt Nam. Hiệp định CEPT đợc các nớc thành viên thoả thuận và ký kết từ năm 1992, song việc thực hiện thực sự chỉ bắt đầu từ tháng 01/01/1994. Nh vậy, các nớc ASEAN có khoảng thời gian là 2 năm để chuẩn bị tất cả các vấn đề có liên quan.Còn đối với Việt Nam, công việc nghiên cứu chuẩn bị cho việc gia nhập thực hiện Hiệp định CEPT thực sự đợc bắt đầu từ giữa năm 1995. Thời gian chuẩn bị nh vậy là rất bị động, nhất là nếu liên hệ với thời gian chúng ta phải bắt đầu từ việc tổ chức các Bộ ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng các Danh mục hàng hoá. Theo chơng trình CEPT để trình lên Ban th ký ASEAN vào tháng 12/1995. Tuy nhiên, đợc sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Chính phủ, cùng sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành có liên quan, chúng ta đã hoàn thành những nghĩa vụ bớc đầu của một thành viên ASEAN tham gia AFTA. 000004.2. Về tổ chức. Việt Nam là nớc tham gia sau, trình độ phát triển còn thấp xa so với các nớc ASEAN khác và hầu hết các ngành kinh tế còn non yếu, mặt khác thuế nhập khẩu còn là nguồn thu quan trọng của ngân sách, nên việc xây dựng và đa ra danh mục hàng hoá cắt giảm thuế, danh mục các biện pháp phi thuế quan, các nội dung hợp tác hải quan để thực hiện CEPT …Ngoài yêu cầu phải phù hợp với hiệp định CEPT, về nguyên tắc đều phải cố gắng đạt đợc các mục tiêu sau: - Không gây ảnh hởng lớn đến nguồn thu ngân sách - Kéo dài đến mức có thể sự bảo hộ hợp lý đối với sản xuất trong nớc để có thêm thời gian chuẩn bị đối phó với những thách thức của AFTA. - Tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc. - Tranh thủ u đãi để mở rộng thị trờng cho xuất khẩu và thu hut đầu t nớc ngoài. Trên cơ sở các mục tiêu đặt ra. Việt Nam đã từng bớc thực hiện CEPT . Cụ thể về tổ chức : - Ngày 15/11/1995 tại Hội nghị Bộ trởng kinh tế ASEAN (AEM), Việt Nam đã công bố Danh mục giảm thuế đợt một áp dụng từ 01/01/1996. - Ngày 10/02/1995, tại Hội nghị Hội đồng AFTA, Việt Nam đã công bố nguyên tắc là cam kết cắt giảm thuế cho toàn bộ quá trình 1996-2006. - Ngày 18/12/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 91/CP quy định việc cải cách thuế quan, thực hiện CEPT. - Ngày 02/04/1996 Bộ Tài chính thành lập cơ quan AFTA quốc gia của Việt Nam với chức năng là cơ quan đầu mối của Việt Nam thực hiện, giải quyết các vấn đề liên quan đến AFTA. - Cũng trong năm 1996, Việt Nam công bố Danh mục thực hiện giảm thuế CEPT trong năm 1997. - Ngày 12/03/1998, Danh mục hàng hoá Việt Nam thực hiện CEPT do Bộ Tài chính xây dựng đã đợc Chính phủ thông qua và ban hành kèm Nghị định số 15/1998/ NĐ-CP. - Đầu năm 1998, Bộ Tài chính công bố 1.717 mặt hàng tham gia CEPT năm 1998, đồng thời chuẩn bị Danh mục thuế năm 1999, xem xét để giảm bớt một số mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời. - Năm 2000, Bộ Tài chính đã công bố lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể của Việt Nam để thực hiện CEPT/AFTA cho giai đoạn năm 2001-2006. 000004.3. Về lịch trình cắt giảm thuế tổng thể. Phù hợp với quy định của ASEAN, căn cứ vào tình hình đặc thù của Việt Nam, Việt Nam nhìn chung không áp dụng tiến trình cắt giảm nhanh. Tuy nhiên đối với những sản phẩm hiện đang có thuế suất trong khoảng từ 0-5% tức là đã thoả mãn mục tiêu của CEPT, ta có thể xếp vào loại thực hiện tiến trình cắt giảm nhanh. Trong 2 năm 1996-1997, Việt Nam sẽ không thực hiện cắt giảm mà chỉ đa các sản phẩm đạt mục tiêu của CEPT ( có thuế suất 5% trở xuống) vào thực hiện hiệp định. Đối với những sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong danh mục cắt giảm thuế quan hớng thực hiện bớc cắt giảm đầu tiên thực tế chỉ bắt đầu từ 1998 để đảm bảo cho nguồn thu và hỗ trợ một phần cho sản xuất trong nớc. Trong 2 năm 1996-1997, Việt Nam thực hiện bớc 2 của cải cách thuế, trong đó đối với chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt Nam sẽ thực hiện việc phân tích 2 loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hiện cũng đánh trên hàng nhập khẩu ra khỏi thuế nhập khẩu hiện nay, trớc khi tiến hành việc cắt giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998 . Do đó, mức thuế nhập khẩu phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại sẽ là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích hai loại thuế trên. Có thể nói Việt Nam thực hiện rất ngiêm túc và rất thậm trọng việc giảm thuế quan, để tránh ảnh hởng tới nguồn thu ngân sách và làm giảm đợc giá hàng nhập khẩu góp phần cải thiện điều kiện kinh doanh và tiêu dùng trong nớc còn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đợc hởng mức thuế u đãi khi xuất khẩu hàng hoá sang các nớc ASEAN. Các Danh mục hàng hoá thực hiện CEPT của Việt Nam đợc xây dựng tuân theo nguyên tắc chỉ đạo của Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội và công bố với các nớc ASEAN ngày 10/12/1995 tại phiên họp lần thứ 8 của Hội đồng AFTA cụ thể nh sau: Bảng 3: Danh mục hàng hoá trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam năm 1995 Danh mục hàng hoá Số nhóm mặt hàng chịu thuế Tỷ lệ % Giảm thuế ngay 1633 54,1 Loại trừ tạm thời 1189 39,5 Loại trừ hoàn toàn 65 5,5 Nhạy cảm 26 0,9 Tổng 3013 100 Nguồn: Ban th ký ASEAN Đến tháng 02/1998, các Danh mục trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam thay đổi do việc phân loại hàng hoá vào các Danh mục thực hiện CEPT và thực hiện thống nhất biểu thuế quan. Bảng 4: Danh mục hàng hoá trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam từ 1996-1998 Danh mục hàng hoá Tổng số các nhóm hàng chịu thuế 1996 1997 1998 Giảm ngay 857 1497 1661 Loại trừ tạm thời 1189 1143 1317 Nhạy cảm 26 26 26 Loại trừ hoàn toàn 146 146 213 Tổng 2218 2812 3217 Nguồn: Bộ tài chính và Ban th ký ASEAN Đến năm 2003, tổng các mặt hàng đợc đa vào danh mục các mặt hàng cắt giảm ngay(IL) là 4230 dòng thuế, trong đó 2960 dòng có thuế suất 0-5%. Dự kiến có khoảng 1940 dòng thuế thuộc danh mục loại trừ tạm thời đợc chuyển vào cắt giảm năm 2001-2003 để đến năm 2006 thuế suất nhập khẩu toàn bộ các dòng thuế thực hiện AFTA dúng theo cam kế 0-5% 000004.4. Các biện pháp phi thuế quan. Ở nớc ta, các biện pháp phi thuế quan bao gồm những biện pháp hạn chế số lợng mặt hàng, hạn ngạch, giấy phép, các tiêu chuẩn kỹ thuật. Những hạn chế về số lợng và hạn ngạch đợc thể hiện trong quy định của Chính phủ về các mặt hàng xuất nhập khẩu. Trong đó những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu là những mặt hàng để bảo đảm an ninh xã hội, sức khoẻ con ngời, bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiểm và môi trờng. Các mặt hàng có liên đến cân đối của nền kinh tế quốc dân Chính phủ sẽ quy định khối lợng đợc phép nhập và phân bổ hạn mức nhập khẩu nh: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng không đợc vợt quá 20% giá trị xuất hàng năm. Ngoài ra, Chính phủ cũng đa ra những nhóm hàng thuộc diện quản lý theo bộ chuyên ngành và những nhóm hàng quản lý bằng hạn ngạch. Cho đến nay, Việt Nam chỉ áp dụng hạn ngạch đối với 2 nhóm hàng là gạo và dệt may xuất khẩu vào EU và Canada do đó năm 2001 sẽ là năm tất cả các hàng vào phi thuế quan phải đợc loại bỏ đối với các sản phẩm trong Danh mục này của Việt Nam. Vào đầu mỗi năm Việt Nam ban hành một thông t hớng dẫn vào các hạn chế định hớng sẽ đợc áp dụng. Tuy nhiên, Việt Nam đã sẵn sàng đệ trình một Danh mục chính thức về các hạn chế định lợng cho ban th ký ASEAN. Các hạn chế định lợng cần đợc loại bỏ ngay với một số các hàng hoá trong Danh mục giảm thuế ngay của Việt Nam đã đệ trình cho ASEAN vào năm 1995 để các mặt hàng này đợc hợp pháp hoá hởng các u đãi theo CEPT. Còn về các hàng rào phi thuế quan khác, việc thực hiện cam kết bãi bỏ theo CEPT sẽ rất khó về tính bảo thủ, thiếu lành mạnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, một bản thảo Danh sách các hàng rào phi thuế liên quan.Trong đó nhiều nhóm mặt hàng quan trọng với lịch trình cắt giảm mang tính chất bảo hộ có vẻ đã làm chậm đi tiến trình thực hiện cam kết xoá bỏ hàng rào phi thuế quan theo CEPT. Các hàng rào về tiêu chuẩn kỹ thuật về đảm bảo vệ sinh môi trờng và sức khoẻ hiện nay vẫn đang đợc tiếp tục áp dụng cho các hàng hoá trong Danh mục giảm ngay. Việt Nam đã cam kết đệ trình sớm danh mục các hạn chế về số lợng(QRS) và các biện pháp phi thuế quan khác(NTBS) xong do các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam đơn giản chủ yếu là các biện pháp nh : giấy phép hay hạn ngạch trong khi đó các biện pháp phi thuế quan mà các nớc ASEAN khác đang áp dụng lại rất đa dạng đặc biệt là các biện pháp về tổ chức kỹ thuật và chất lợng là những biên pháp phức tạp và tinh vi mà ở Việt Nam hiện nay cha áp dụng, cho nên để đáp ứng đợc yêu cầu bảo hộ hợp lý sản xuất trong nớc, trớc mắt Việt Nam cần phải gấp rút ban hành bổ sung các biện pháp phi thuế quan tơng tự nh các nớc ASEAN đang áp dụng, nhất là các biện pháp mà trong tơng lai có thể không bị loại bỏ trớc khi chúng ta đệ trình danh mục các biện pháp phi thuế quan của ta cho ASEAN và tiến hành loại bỏ chúng. 000004.5. Trong lĩnh vực hải quan. Việt Nam cũng đã hợp tác và đang đàm phán với các nớc ASEAN trên một loạt các vấn đề nh : điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan, điều hoà thống nhất trị giá hải quan, điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan, lập luồng xanh để thông qua nhanh cho các sản phẩm của CEPT, đặc biệt là tiến lới hiệp định hải quan ASEAN sẽ ký kết. * Thống nhất biểu thuế quan Việt Nam có nghĩa vụ xem xét lại hệ thống phân loại thuế quan của mình sao cho phù hợp với quy định của hiệp định hợp tác hải quan. Theo đó các nớc thành viên khối ASEAN sẽ sử dụng biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của hội đồng hợp tác hải quan hệ 8 chữ số. Biểu thuế quan điều hoà ASEAN (AHTN) đợc hy vọng sẽ có khoảng 6400 nhóm mặt hàng khi ASEAN hoàn thành. Việc thống nhất Danh mục phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu năm 1992 của Việt Nam (hệ 6 chữ số) với biểu 8 chữ số đợc bắt đầu từ năm 1995 và đợc thực hiện vào năm 1996 (nh một phần của quá trình chuẩn bị để trở thành thành viên ASEAN, tham gia ASEAN. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khác biệt lớn giữa hệ thống phân loại thuế hiện nay của Việt Nam và biểu thuế quan điều hoà HS 8 chữ số. Điều này là do việc phân loại một số mặt hàng của Việt Nam dựa trên việc sử dụng chứ không phải kiểu mặt hàng. Trong những trờng hợp này, cần có những ghi chú, giải thích đi kèm các mã số hải quan và những vấn đề của việc giải thích đã dẫn tới các thủ tục hành chính rờm rà và mâu thuẫn nhau. Theo các quan chức Chính phủ cho biết thì Việt Nam hiện đang làm việc trên cơ sở phân loại thuế quan đợc sả đổi phù hợp với AHTN và dự định sẽ sớm đa vào áp dụng. * Thống nhất hệ số tính giá hải quan. Việc tính giá hải quan (nghĩa là cách định giá trị hàng nhập khẩu của nớc nhập) có 3 mục đích chính: Tính thuế nhập khẩu, thu nhập số liệu thống kê và quy định hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu. Do vậy, để thực hiện đợc cải cách thuế quan trong khuôn khổ AFTA các quốc gia cần thống nhất hệ thống tính giá hải quan. Hiện nay có 3 phơng pháp tính giá hải quan đợc các nớc ASEAN áp dụng: gồm chính sách giá theo giá các giao dịch GATT (GATT Transactions Value - GTV) ,theo quy định giá Brussels (BDV), theo giá tiêu dùng trong nớc (HCV). Các quốc giá ASEAN đã đồng ý thực hiện việc định giá theo GVT vào năm 1997 và Việt Nam năm 2000. Trong khi đó, hiện nayViệt Nam đang áp dụng đồng thời phơng pháp tính BDV, GTV và cả hệ thống giá tham khảo (bảng giá tối thiếu để tính thuế) cho một số nhóm hàng nhất định hệ thống giá tham khảo là giá tối thiểu sử dụng để tính trị giá thuế. Việc chuyển sang hệ thống GTV là rất khó khăn đối với Việt Nam vì sự tồn tại các hoạt động gian lận thơng mại quốc tế. Tuy nhiên, nhận thức đợc tầm quan trọng của việc thống nhất cách tính giá hải quan, Việt Nam đã xây dựng kế hoạch áp dụng GTV. Hiện nay, Tổng cục Hải quan cũng đang trong quá trình nghiên cứu và đào tạo các nhân viên của mình về Hiệp định định giá GATT (GVT) * Thống nhất thủ tục hải quan Các quốc gia ASEAN gồm cả Việt Nam đã đồng ý áp dụng mẫu tờ khai hàng hoá ASEAN chung và bộ thủ tục hải quan chung dựa trên các tập quán quốc tế tốt nhất. Ở nớc ta do sự thiếu đồng nhất và việc sử dụng bảng giá tham khảo trong định giá hải quan đã làm cho việc thống nhất các thủ tục hải quan trở nên rất khó khăn. Việt Nam vẫn cha áp dụng tờ khai hải quan chung ASEAN vì thiếu hệ thống mã số hoàn chỉnh trên toàn quốc và hệ thống quản lý thiếu hoàn thiện. Do vậy, để áp dụng mẫu này, Việt Nam đã và đang cải thiện hệ thống đánh mã số, đào tạo cán bộ hải quan và hệ thống mới và cải thiện hoạt động quản lý. * Tham gia xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan Việt Nam bắt đầu tham gia hệ thống luồng xanh hải quan vào ngày 01/01/1996 nh các quốc gia ASEAN khác. Mục tiêu hiện nay của Việt Nam là xem xét và rà soát lại việc thực hiện để tìm những cách thức cải thiện hệ thống. Theo nguồn tin Chính phủ, trong năm 1996 chỉ có 100 giấy chứng nhận xuất xứ đợc ban hành để tham gia hệ thống này. Nguyên nhân chủ yếu là do khoản lợi chênh lệch giữa thuế suất thông thờng và thuế suất CEPT rất nhỏ (ở Việt Nam hiện nay hai thuế suất này hầu nh bằng nhau), không đủ để khuyến khích các nhà xuất nhập khẩu tham gia hệ thống này. * Thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật Bộ khoa học công nghệ và môi trờng chịu trách nhiệm quản lý các tiêu chuẩn đo lợng và quản lý chất lợng. Cho đến nay, Việt Nam đã ban hành hơn 5000 tiêu chuẩn hiệu quả. Việt Nam cũng đã thống nhất các biện pháp kỹ thuật và áp dụng các chứng nhận tiêu chuẩn theo hớng và các tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn thế giới (ISO). Việt Nam cũng đang trong tiến trình áp dụng những hớng dẫn của Uỷ ban cố vấn ASEAN về tiêu chuẩn và chất lợng (ACCSQ). Các điều luật quy định về tiêu chuẩn vệ sinh của Việt Nam đã đợc ban hành từ năm 1993. * Phụ phí hải quan Các nớc ASEAN quyết định các quốc gia thành viên ASEAN phải có lịch trình xoá bỏ các phụ phí hải quan vào cuối năm 1996. Việt Nam có 2 nhóm hàng phải chịu phụ phí hải quan là thép xây dựng nhập khẩu và hạt điều nhập khẩu. Theo các quan chức Chính phủ, phụ phí này sẽ đợc loại bỏ trong tơng lai. 000005. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình thực hiện lộ trình AFTA-CEPT . 000005.1. Tình hình kim ngạch xuất khẩu từ 1986 đến nay. Chiến lợc phát triển kinh tế hớng về xuất khẩu trong những năm qua của Việt Nam đã thu đợc những thành tựu đáng khích lệ. Tốc độ tăng trởng xuất khẩu hàng năm thời kỳ 1990-1999 đạt 20%, đợc xếp vào mức cao nhất thế giới (xấp xỉ Trung Quốc).Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập quốc dân (GDP) 24% năm 1991, đến nay xuất khẩu đã chiếm gần 50% (2002). Nếu nh năm 1992 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt xấp xỉ 2tỷ USD thì đến năm 2002 đã đạt 16,5 tỷ USD, gấp gần 8 lần so với năm 1992. năm 2003 đạt khoảng 20 tỷ USD nhịp độ tăng trởng xuất khẩu trong 8 năm(1996-2003) đạt 17,5%/năm; gấp 2,5 lần so với tốc độ tăng trởng bình quân của GDP. Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các thị trờng lớn trên thế giới nh EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ASEAN … Có thể nói trong 18 năm đổi mới xuất khẩu của Việt Nam đã trở thành trụ cột của nền kinh tế và là động lực tăng trởng kinh tế chủ yếu, xuất khẩu cũng góp phần vào việc giải quyết các vấn đề cấp bách của xã hội nh : giải quyết công ăn viẹc làm, xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy quá trình chuyển sang kinh tế thi trờng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi của thị trờng thế giới. Bảng: Kim ngạch xuất khẩu qua các năm. Năm Xuất khẩu ( triệu USD) Tốc độ tăng (%) 1991 2087,1 -13,2 1992 2580,7 23,7 1993 2985,2 15,7 1994 4054,3 35,8 1995 5448,9 34,4 1996 7255,9 33,2 1997 9185,0 26,6 1998 9360,3 1,9 1999 11541,4 23,3 2000 14482,7 25,5 2001 15027,0 3,8 2002 16705,8 11,2 2003 19880,0 19,0 Nguồn : Số liệu bộ Thơng Mại Bảng: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng(%). Năm 1995 2000 2001 2002 2003 Hàng công nghiệp và khoáng sản 25,3 37,2 34,9 31,2 30,9 Hàng công nghiệp và tiểu thủ CN 28,5 33,9 35,7 38,3 40,0 Hàng nông, lâm sản 34,8 18,8 17,3 18,4 17,9 Hàng thuỷ sản 11,4 10,2 12,1 12,1 11,2 000005.2. Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng. - Giai đoạn trớc 1989 : Việt Nam cha có dầu thô và gạo để xuất khẩu nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả nớc cha bao giờ vợt quá 1 tỷ USD. Trong cơ cấu xuất khẩu chung hàng nông- lâm-hải sản có xu hớng giảm dần, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hớng tăng dần, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp không thay đôi. Bắt đầu từ năm 1989, kim ngạch xuất khẩu của ta đạt trên 1 tỷ USD do các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt hàng dầu thô, điều này làm tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản lại có chiều hớng tăng lên trong thời kỳ này từ 0,8% năm 1986 lên 15,6% năm 1990 - Giai đoạn 1991-1995: xu hớng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản vẫn tiếp tục tăng cao nhất là năm 1992 chiếm 37% kim ngạch xuất khẩu của nớc, sau đó là sự lên ngôi của mặt hàng dệt may, chế biến hải sản và giày dép xuất khẩu. Nh vậy, kinh tế nớc ta đang ở trong giai đoạn mở đầu để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp , giai đoạn để nền công nghiệp khởi động bằng lợi thế về địa lý, về nhân lực…làm cho nền kinh tế tăng trởng theo hớng xuất khẩu. - Giai đoạn 1996-2000: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có sự thay đổi tích cực xong sự chuyển dịch này vẫn còn chậm. Năm 1996 cơ cấu mặt hàng nông lâm hải sản và công nghiệp nặng, khoáng sản chiếm 71,6% . năm 2000 tỷ trọng này là 62,%. Riêng đối với hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh năm 1997 nhng có xu hớng trững lại ở năm 1998và 1999. Đến năm 2000 tỷ trọng này đạt tới 37,9% trong cơ cấu xuất khẩu của cả nớc. Nh vậy, trong thời kỳ đổi mới, đã hình thành một số mặt hàng chủ lực. Năm 1991 đó là 4 mặt hàng: dầu thô, thuỷ hải sản, gạo, dệt may. Năm 2000 có thêm 8 nặt hàng: cà phê, cao su, nhân điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả, chúng sẽ là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh của Việt Nam trong những năm tới. Năm 2001 cà fê và hạt tiêu vẫn giữ vị trí cao trên thế giới. Gạo trở lại vị trí số hai thế giới sau Thái Lan, Dệt may tăng mạnh, năm 2001 cha tới 2 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,6 tỷ USD, năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Thuỷ sản đến tháng 10/2000 mới đạt 1 tỷ USD thì năm 2002 vợt 2 tỷ USD, năm 2003 dù gặp khó khăn vẫn đạt 2,3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tôm vào Nhật dứng thứ nhì sau Indonexia… Bảng: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong những năm qua. Mặt hàng 1 996 1 997 1 998 1 999 2 000 2 001 2 002 2 003 Dầu thô(nghìn tấn) 8 750,0 9 638,0 1 2145,0 1 4881, 9 1 5423, 5 1 6731, 6 1 6879, 0 1 7169, 0 Dệt may(triệu tấn) 1 150,0 1 503,0 1 450,0 1 746,2 1 891,9 1 975,4 2 752,0 3 630,0 Giày dép(triệu USD) 5 30,0 9 78,0 1 031,.0 1 387,1 1 471,7 1 578,4 18 67,0 2 225,0 Thuỷ sản(triệu USD) 6 97,0 7 82,0 8 58,0 9 73,6 1 478,5 1 816,4 2 023,0 2 217,0 Gạo(ng hìn tấn) 3 003,0 3 575,0 3 730,0 4 508,3 3 476,7 3 721,0 3 241,0 3 820,0 Cà fê(nghìn tấn) 2 84,0 3 92,0 3 82,0 4 82,0 7 33,9 9 31,0 7 19,0 7 00,0 Điện tử máy tính (triệu USD) 5 85 7 88,6 6 95,6 5 05,0 6 86,0 Thời báo kinh tế Việt Nam 2003-2004 Bảng: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng(%) Mặt hàng chủ lực 2000 2001 2002 2003 Dầu thô 24,2 20,8 19,6 19,0 Dệt may 13,1 13,1 16,5 18,3 Giày dép 10,2 10,6 11,2 11,2 Thuỷ sản 10,2 12,1 12,1 11,2 Gạo 4,6 4,1 4,3 3,6 Điện tử, máy tính 5,4 4,7 2,9 3,5 Sản phẩm gỗ 2,0 2,2 2,6 2,8 Cà phê 3,5 2,6 1,9 2,4 Cao su 1,1 1,1 1,6 1,9 Thủ công mỹ nghệ 2,0 2,1 2,0 1,8 Dây điện và dây cáp điện 0,0 1,2 1,1 1,5 Hạt điều 1,2 1,0 1,3 1,4 Than đá 0,6 0,8 0,9 0,9 Sản phẩm nhựa 0,7 0,8 0,9 0,9 Xe đạp và phụ tùng xe đạp - - 0,9 0,8 Rau quả 1,5 2,3 1,2 0,8 Hạt tiêu 1,0 0,6 0,6 0,5 Cộng 17 mặt hàng 81,3 80,1 81,5 82,4 Nguồn Thời báo kinh tế Việt Nam phần kinh tế năm 2003-2004 000005.3. Tình hình xuất khẩu theo thị trờng. Tính tới thời điểm năm 2000, Việt Nam có quan hệ Thơng Mại với 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định Thơng Mại với 61 nớc và đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc(MFN) với 72 nớc. Một trong những thành tựu to lớn trong 18 năm qua là Việt Nam đã vợt qua đợc cuộc khủng hoảng khi từ tởng truyền thống không còn nũa, ,đảm bảo đợc yêu cầu xuất khẩu hàng hoá.Thay vào thị trờng liên xô -đông âu, châu á nay đã nhanh chóng trở thành thị trờng xuất khẩu chính của Việt Nam ,năm 1991 tỷ trọng của thị trờng này chiếm 77% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc, trong hai năm sau đó do khai thông thị trờng Đông âu và Bắc mỹ, tỷ trọng của thị trờng châu á có giảm xuống nhng vẫn duy trì ở mức trên dới 60%tổng kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU nói riêng và châu âu nói chung tăng đều qua các năm. Năm 1991 tỷ trọng xuất khẩu vào EU mới chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhng đến năm 2000 đã là 21,7%. Quan hệ thơng mại với bắc mỹ, trong đó chủ yếu là mỹ đã có bớc phát triển nhanh kể từ khi bình thờng hoá quan hệ năm 1995. Lúc đó kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 170 Triệu USD đến năm 2000 đã đạt 732,44 triệu USD, chiếm tỷ trọng 5,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nớc hơn hẳn con số 3,1% năm 1995. Triển vọng ở thị trờng này rất lớn nhất là khi Việt Nam đã ký hiệp định Thơng Mại với Mỹ và đợc hởng quy chế quan hệ Thơng Mại bình thờng. Xuất khẩu sang thị trờng châu Đại Dơng cũng đợc tăng lên khá nhanh, tỷ trọng của thị trờng này từ chỗ chỉ chiếm 0,2% năm 1991 lêm 8,89% năm 2000. Bảng:Những bạn hàng lớn của Việt Nam 10 tháng năm 2003. Tên nớc và vùng lãnh thổ Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất siêu(+) nhập siêu(-) Mỹ 3401,5 1030,0 +2371,5 Nhật 2354,3 2495,0 -140,7 CHND Trung Hoa 1331,5 2496,1 -1164,6 Australia 1159,5 221,9 +937,6 Singapore 860,1 2335,2 -1475,1 Đức 674,9 479,7 +195,2 Đài Loan 607,6 2317,5 -1709,9 Anh 604,9 177,9 +427,0 Indonesia 413,7 459,9 -46,2 Hà lan 398,7 302,6 +96,1 Nguồn số liệu bộ Thơng Mại-Thời báo kinh tế Việt Nam . 000005.4. Những tác động khi tham gia AFTA tới xuất khẩu của Việt Nam Cũng giống nh các nớc thành viên khác, AFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội mới, nhng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế tập chung quan niêu bao cấp kém hiệu quả sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN, hầu hết các ngành công nghiệp còn non yếu xuất khẩu chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô và thuế nhập khẩu còn là một nguồn thu quan trọng của ngân sách. Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA từ 1/1/1996 bằng việc đa ra 875 mặt hàng vào thực hiện CEPT , xong tất cả các mặt hàng này đều ở khung thuế suất 0-5%. Mặt khác chúngta cũng cha đệ trình cho ASEAN danh mục các biện pháp phi thuế quan để tiên hành loại bỏ chúng nên có thể nói thực tế đến nay AFTA vẫn cha tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó trớc mắt cũng nh lâu dài AFTA đã tác động tới xuất khẩu của Việt Nam nh thế nào? Những thuận lợi và khó khăn trớc mắt của xuất khẩu Việt Nam khi tham gia vào AFTA ? 000005.4.1. Thuận lợi. - Việc tham gia AFTA sẽ giúp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nớc ASEAN đợc hởng thuế suất u đãi CEPT thấp của các nớc ASEAN, hạ giá thành các sản phẩm xuất khẩu, tăng cờng khả năng cạnh tranh về giá của các hàng hoá này tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu. - Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đợc hởng lợi thế từ việc nhập khẩu nguyên liệu vật t từ các nớc ASEAN với mức thuế nhập khẩu thấp góp phần làm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm thúc đẩy sản xuất phát triển tiến tới thúc đẩy xuất khẩu phát triển . - Việt Nam sẽ có một thị trờng xuất khẩu rộng lớn nằm kề bên có đòi hỏi về chất lợng không phải quá cao, với các u đãi buôn bán sé đợc mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam khi ASEAN bao gồm 10 thành viên với 500 Triệu dân thì đây là một thị trờng không nhỏ có đợc thị trờng tiêu thụ mới là một yếu tố giúp huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu. - Về lâu dài, AFTA có tác động làm thay đổi cơ cấu công nghiệp ở các nớc ASEAN, một số ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên nh dệt may, chế biến thực phẩm… ở một số nớc sẽ giảm đi trong khi đó Việt Nam lại có lợi thế phát triển các ngành nàyvà nh vậy tất yếu sẽ dẫn đến khả năng Việt Nam sẽ tăng xuất khẩu các sản phẩm thuộc các ngành này trên thị trờng ASEAN. - AFTA sẽ cũng có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trờng ngoài ASEAN do nhập đợc đầu vào cho sản xuất xuất khẩu từ các nớc ASEAN với giá rẻ hơn. Mặt khác, với t cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam sẽ có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ Thơng Mại với các nớc lớn. 000005.4.2. Khó khăn. - Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nớc còn yếu( về giá cả, chất lợng, mẫu mã…). Do quy mô sản xuất còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấ,a công tác quản lý kém hiệu quả. - Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng dầu thô, nông lâm hải sản cha qua chế biến hoặc mới sơ chế, dệt may, giầy dép và các sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ, một số khoáng sản thô…Những mặt hàng này cũng tơng tự nh những mặt hàng xuất khẩu của ASEAN nên ta không có nhiều lợi thế khi xuất khẩu những mặt hàng này trong điều kiện hội nhập AFTA- CEPT - CEPT dành u đãi chủ yếu cho hàng chế biến trong khi đó tỷ trọng hàng chế biến trong xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 18% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong những mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu thì nhiều mặt hàng cha đợc các nớc ASEAN khác đa vào danh mục cắt giảm thuế quan tuy có một số mặt hàng nông sản mới đợc bổ xung vào thực hiện CEPT. Xong tỷ trọng của nó trong xuất khẩu của Việt Nam lại rất nhỏ. - 2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam của ASEAN là với Singapore. Trong khi đó thuế suất nhập khẩu của nớc này gần nh bằng 0 trớc khi thực hiện AFTA và rất nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore đợc tái xuất đi các nớc phát triển khác. - Các bạn hàng khác nh Inđônêsia, ThaiLand, Philipine hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nông sản cha chế biến. Những nớc này cũng xuất khẩu hàng nông sản rất mạnh và nhiều mặt hàng nông sản cha chế biến đợc các nớc này xếp trong danh mục hàng nông sản nhạy cảm để cha phải thực hiện cắt giảm thuế, nh vậy Việt Nam cha đợc hởng nhiều u đãi lắm khi tham gia vào AFTA. 000006. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ khi tham gia AFTA-CEPT đến nay. 000006.1. Những kết quả đạt đợc. Nhìn chung, tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ khi tham gia AFTA-CEPT đến nay đã đạt đợc những thành tựu đáng kể, đến nay sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trờng của hơn 150 nớc thuộc khắp các châu lục. Trong những năm qua Việt Nam đã ký thêm đợc 60 hiệp định Thơng Mại với các nớc, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 6 lần so với năm 1990 và đến năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đạt gần 20 tỷ USD. Giai đoạn 1991-2000 kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu ngời năm 2000 đạt 180USD/Ngời/năm là mức của một quốc gia có ngoại thơng tơng đối phát triển, năm 2003 kim ngạch tính theo đầu ngời khoảng 250 USD. Một số sản phẩm của Việt Nam trên trờng quốc tế: hàng thứ 2 về gạo( sau ThaiLand),nhân Điều ( sau Ấn Độ) hàng thứ 3 về CàFe… Cơ cấu xuất khẩu đã đợc cải thiện theo hớng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lợng lớn và thị trờng tơng đối ổn định. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến tăng từ khoảng 8% năm 1991 lên 40% năm 2000 trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tóm lại xuất khẩu đã thực sự khởi sắc, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trởng kinh tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cần thiết cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc, góp phần tích cực tiến tới cân bằng cán cân vãng lai, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trờng quốc tế ảnh hởng tích cực tới phát triển thị trờng trong nớc, kích thích sản xuất, tăng thu nhập cho ngời lao động. 000006.2. Những hạn chế và nguyên nhân. Hạn chế : Quy mô xuất khẩu của nớc ta còn quá nhỏ so với các nớc trong khu vực kim ngạch tính theo đầu ngời năm 2003 là 250 USD, trong khi đó năm 2000 Trung Quốc đạt 358,8 USD, Thái Lan đạt 1113,8 USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu còn lạc hậu so với các nớc, tỷ trọng hàng thô, hàng sơ chế còn cao, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn trong các sản phẩm công nghiệp. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp và giá thành cao cha phù hợp với yêu cầu của thi trờng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn cha bám sát tín hiệu của thi trờng, do đó có nhiều sản phẩm làm ra khó tiêu thụ hơn cac nớc trong khu vực nh gạo, cà fê, chè, cao su …Việc đầu t nâng cao khả năng cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu còn hạn chế ; đầu t trực tiếp cho các khâu tiêu thụ sản phẩm nh hoạt động xúc tiến thơng mại, lập các trung tâm thơng mại, kho ngoại quan ở nớc ngoài..ít đợc quan tâm. Nguyên nhân : - Đầu t cho sản xuất hàng xuất khẩu những năm gần đây tuy có đợc chú trọng nhng còn dàn trải , rờm rà, cha tập chung vốn đầu t cho chơng trình sản xuất hang xuất khẩu trọng điểm để tăng sản lợng và nâng cao sức cạnh tranh củahàng xuất khẩu. Các DN có vốn đầu t nớc ngoài cha quan tâm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của DN mà còn nặng về sản xuất tiêu dùng trong nớc. - Việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phơng châm hớng mạnh về xuất khẩu và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới còn lúng túng và thiếu đồng bộ nên môi trờng và cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế. - Sự phối hợp giữa các bộ và địa phơng đã có những chuyển biến tích cực nhng cha tạo đợc nguồn lực, sức mạnh tổng hợp nhất là việc xây dựng kết cấu hạ tàng trong thơng mại phục vụ hoạt đọng xuất khẩu và xúc tiến thơng mại. CHƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN LỘ TRÌNH AFTA - CEPT 000007. Quan điểm xuất khẩu của Việt Nam. Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại nhng chỉ khi ra đời nền sản xuất hàng hoá TBCN mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất kép kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nớc. Tự do thơng mại gắn thị trờng dân tộc với thị trờng thế giới, gắn phân công lao động trong nớc với phân công lao động quốc tế. Ngoại thơng trở nên không thể thiếu đợc đối với nền sản xuất đó, nh LêNin đã nhận xét:" không có thị trờng bên ngoài thì một số nớc TBCN không thể sống đợc". Nớc ta và một số nớc khác đã có lúc xem vấn đề độc lập kinh tế và xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cung tự cấp để tránh sự lệ thuộc vào nớc ngoài. Thực tế đã chỉ ra rằng không có một quốc gia nào có thể đề ra một mục tiêu đầy tham vọng nh vậy. Bởi vì không có quốc gia nào dù giàu mạnh nh Mỹ hay Trung Quốc lại xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp tốn kém về cả vật chất và thời gian. Đất nớc ta cũng vậy, chúng ta nhận thức đợc vai trò và tầm quan trọng của xuất khẩu, quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu ở nớc ta trong giai đoạn vừa qua đã diễn ra rất sôi động. Đảng ta xác định phải thực hiện 3 chơng trình: lơng thực- Thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu. Đến nay, sau 15 năm đổi mới, với chính sách đa phơng hoácác hoạt động kinh tế quốc dân và thực hiện chủ trơng khuyến khích xuất khẩu của đảng và nhà nớc , hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bớc tiến vợt bậc, ngày càng có khả năng cạnh tranh trên thị trờng thế giới 000008. Một số biện pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT Để khắc phục những tồn tại trong quá trình hội nhập đồng thời để nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực thơng mại mà còn trong các lĩnh vực khác. qua bớc đầu nghiên cứu, xin đa ra một số giải pháp cơ bản sau. 000008.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với các nớc khác có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, vị trí địa lý thuận lợi trong giao lu quốc tế, nguồn lao động trẻ và dồi dào...Đây là những lợi thế dựa trên các điều kiện sản xuất vốn có lợi thế về chi phí sản xuất. Nhờ những lợi thế này mà hàng hoá và dịch vụ đợc sản xuất ra ở Việt Nam có sức cạnh tranh về giá cả, đặc biệt là những hàng hoá có hàm lợng lao động và nguyên liệu cao. Những lợi thế này đã góp phần quyết định cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam.Việt Nam chủ yếu xuất khẩu dầu thô, gạo, khoáng sản, dệt may... Do vậy, để nâng cao tính cạnh tranh, trớc hết phải sử dụng triệt để và có hiệu quả hơn những lợi thế này thông qua việc áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại và công nghệ phù hợp. Hơn thế nữa, các điều kiện sản xuất vốn có phải luôn đợc hoàn thiện, tái tạo và phát triển, nhất là đối với sức lao động, biến lợi thế "cấp thấp" thành lợi thế "cấp cao" thông qua việc phát triển nguồn nhân lực (đặc biệt là giáo dục và đào tạo) cũng nh khoa học công nghệ. Nguồn nhân lực với trình độ kỹ thuật và tri thức khoa học cao không những hấp thụ đợc công nghệ tiên tiến, làm chủ đợc kinh doanh mà còn có khả năng cải tạo, hoàn thiện công nghệ đã có và sáng tạo ra công nghệ mới. Công nghệ tiên tiến kết hợp với các lợi thế về tài nguyên, vị trí, địa lý, nguồn nhân lực là điều kiện lý tởng cho việc tranh giành và giữ vững lợi thế cạnh tranh. Đổi mới công nghệ còn là một biện pháp để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm - một yếu tố sống còn đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện nay. Trong cuộc gặp gỡ giữa Thủ tớng Chính phủ và các doanh nghiệp gần đây, Chính phủ đã thể hiện quyết tâm làm hết sức mình để tạo ra thị trờng khoa học và công nghệ, nhà khoa học công nghệ với các doanh nghiệp. Từng doanh nghiệp cần đánh giá đúng thực trạng về công nghệ của mình, cùng các nhà khoa học về công nghệ tìm giải pháp khắc phục những nhợc điểm, nhất là tìm cách đầu t đổi mới công nghệ phù hợp. Trên cơ sở thực lực của mình, các doanh nghiệp đề ra chiến lợc, kế hoạch đầu t cho công nghệ mới hay đầu t chiều sâu đổi mới công nghệ. Sự lựa chọn công nghệ do doanh nghiệp quyết định, khi doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn chịu lỗ hoặc hởng lãi để quyết định đầu t công nghệ thì yêu cầu là phải chọn công nghệ phù hợp nhất: phù hợp về chi phí, về năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Lúc này các doanh nghiệp cần đến sự trợ giúp, t vấn về các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng nh việc đánh giá, thẩm định các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Không nhất thiết phải là công nghệ hiện đại và hiện đại nhất. 000008.2. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hớng nâng cao tỷ trọng các mặt hàng chế biến. - Chuyển hoàn toàn và chuyển mạnh sang hàng chế biến sâu, giảm tới mức tối đa hàng nguyên liệu, và giảm tới mức thấp các hàng sơ chế, nghĩa là chuyển hẳn từ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên sang xuất khẩu giá trị thăngj d. Phải mở ra các mặt hàng hoàn toàn mới. Một mặt, chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu hàng chế biến đối với những mặt hàng đã có. Mặt khác, cần mở ra các mặt hàng hiện nay cha có, nhng có tiềm năng và triển vọng, phù hợp với xu hớng quốc tế. Đó là các mặt hàng: sản phẩm kỹ thuật điện, sản phẩm điện tử, máy công nghiệp, dịch vụ. - Đầu t chế biến: Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các loại giống cao sản trong nuôi trồng và công nghệ chế biến rau quả thực phẩm, nông sản, hải sản... đáp ứng đúng nhu cầu và thị hiếu của thị trờng đợc hởng u đãi miễn giảm các loại thuế nh thế xuất khẩu, thuế lợi tức. Nguyên tắc để hởng u đãi là chế biến càng sâu, tăng giá trị càng cao thì mức u đãi trong chính sách càng lớn. Ngoài ra, còn đợc hởng u đãi về miến thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng nh quy định của luật khuyến khích đầu t trong nớc. - Đầu t cho sản xuất các nguyên phụ liệu (kể cả thiết bị phụ tùng để sản xuất hàng xuất khẩu). Trờng hợp này nhằm tạo nên sự đồng bộ trong sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, làm tăng tỷ trongj chế biến của mặt hàng. Do đó nên có những u đãi về miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế lợi tức. - Đối với sản phẩm thô hoặc sơ chế Cần phải hạn chế đến mức tối đa việc xuất khẩu hàng thô nh tài nguyên, nguyên liệu thô và hàng sơ chế bằng việc nâng cao thuế xuất khẩu với từng mức độ khác nhau. Có loại cần phải áp dụng mức độ quản lý tuyệt đối nh cấm xuất khẩu đã áp dụng đối với gỗ tròn, gỗ xẻ, song mây nguyên liệu, hạt điều thô. - Khuyến khích các hình thức đầu t, liên doanh, liên kết với nớc ngoài để sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. Thông qua hình thức này, Việt Nam có thể tiếp cận đợc công nghệ sản xuất mới và các loại máy móc thiết bị tơng đối hiện đại mà trong nớc không có. Từ đó sẽ nâng cao chất lợng và hàm lợng chế biến của sản phẩm. 000008.3. Thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ và cung cấp thông tin Điều rất cấp bách là ngay từ bây giờ cần có một bộ máy đủ mạnh có thẩm quyền điều phối sự tham gia cuả tất cả các Bộ, ngành trong việc tiến hành các công tác liên quan đến quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt chuẩn bị cho việc đàm phán gia nhập WTO. Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo việc tham gia hiệu quả vào quá trình hội nhập là cần phải có lực lợng lao động đợc đào tạo tốt về nghề nghiệp và khẻo mạnh về chất.Việt Nam tham gia các phiên họp của AFT và APEC nên phải tăng cờng thêm cán bộ có chuyên môn để giải quyết nhiều vấn đề tại chỗ mà không nhất thiết phải gửi vấn đề đó về nớc. Do đó, phát triển nguồn nhân lực phải là u tiên hàng đầu. Đồng thời để đáp ứng những đòi hỏi của các tiêu chuẩn thơng mại quốc tế, Nhà nớc cần chú trọng chính sách đào tạo và tái đào tạo lực lợng lao động cho phù hợp với những thay đổi và yêu cầu của thị trờng thế giới, cần có thị trờng lao động linh hoạt hơn. Nhà nớc cũng nh các doanh nghiệp cần thờng xuyên mở các lớp đào tạo, các khoá bồi dỡng ngắn hạn hay dài hạn để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý cũng nh đội ngũ công nhân lao động, đề ngời lao động tiếp thu đợc phơng pháp quản lý và kỹ thuật công nghệ mới, nâng cao hiệu quả làm việc. Bên cạnh đó cần tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của Ban th ký ASEAN, APEC, WTO, các nớc thành viên và các tổ chức quốc tế khác trong việc giúp Việt Nam đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực để chuẩn bị cho việc gia nhập các tổ chức này và tiếp tục tham gia các hoạt động sau này của các tổ chức đó. Thiếu thông tin về thị trờng nớc ngoài là một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay. Trong thời gian tới Bộ thơng mại, các tổ chức xúc tiến thơng mại cần đảm bảo cung cấp thông tin cho cá doanh nghiệp một cách nhanh nhất. Có lẽ đến lúc cần có luật thông tin hay các quy định nói rõ việc mua bán thông tin nh thế nào, thông tin nào đợc mua bán, vấn đề sử dụng, truy cập Internet, đa thông tin lên mạng... Trong từng doanh nghiệp cần có bộ phận tiếp nhận và xử lý thông tin, hơn thế nữa phải tích cực chủ động tìm kiếm thông tin, bởi vì chính doanh nghiệp là những ngời biết tìm thông tin gì có lợi cho mình nhất, phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình nhất. Từ đó có những quyết định kịp thời và đúng đắn. Bên cạnh các thông tin về thị trờng, về bạn hàng, cần phổ cập những kiến thức về hội nhập, những kiến thức liên quan đến định chế khu vực cũng nh toàn cầu về lĩnh vực thơng mại cho các doanh nghiệp. Hơn nữa, cũng cần cung cấp thông tin đầy đủ về chính sách, quan điểm và lịch trình hội nhập của Đảng và Nhà nớc. Từ đó các doanh nghiệp nắm bắt đợc thực tiễn cũng nh các vấn đề của hội nhập để xác định đợc chiến lợc kinh doanh có hiệu quả trong điều kiện mở cửa và tự do hoá thơng mại. 000009. Một số kiến nghị với nhà nớc . Để đẩy nhanh, mạnh quá trình hội nhập kinh tế của nớc ta với các nớc trong khu vực. Tăng nhanh sản lợng cũng nh chất lợng các mặt hàng xuất khẩu tận dụng tối đa những lợi thế do chơng trình cắt giảm thuế quan CEPT mang lại. Bên cạnh những cố gắng của doanh nghiệp thì cũng cần có sự cải cách của nhà nớc trên một số lĩnh vực nhằm đảm bảo môi trờng thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu . ở đây tôi chỉ đa ra những kiến nghị nhỏ với mong muốn đáp ứng đợc các yêu cầu đó. 000009.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách 000009.1.1. Chính sách thơng mại Trên cơ sở những mặt còn hạn chế trong chính sách thơng mại, căn cứ vào phơng hớng phát triển ngoại thơng của nớc ta đến năm 2010 - 2020 cùng với xu hớng phát triển của thế giới, chính sách thơng mại của Việt Nam cần sửa đổi nhiều hơn nữa mới đáp ứng đợc nhu cầu phát triển của đất nớc và nhanh chóng đa nền kinh tế nớc ta hoà nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Việc cải cách chính sách thơng mại phải tuân theo các nguyên tắc sau: + Cải cách chính sách thơng mại phải đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội, nghĩa là phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế và không gây lên những bất ổn, biến động mạnh, ảnh hởng đến đời sống nhân dân. + Tuân thủ các hiệp định, các thoả thuận quốc tế hiện có: Trớc hết những biện pháp nào không cần thiết ta có thể loại bỏ và làm cho các biện pháp còn lại thực hiện đơn giản nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất nhập khẩu. Việt Nam cần chú trọng xây dựng các biện pháp phi thuế quan tinh vi hơn nh các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, về nhãn hiệu hàng hoá, về chất lợng sản phẩm và có định hớng theo chính sách bảo hộ sản xuất trong nớc. Tiến trình loại bỏ các rào cản phi quan thuế đợc tiến hành kết hợp chặt chẽ với quá trình cắt giảm thuế quan. Bớc 1: Bắt đầu bằng việc giảm các biện pháp hành chính Bớc 2: Giảm các biện pháp phi thuế quan phổ thông: giấy phép, hạn ngạch... Bớc 3: Tăng cờng áp dụng các biện pháp kỹ thuật và các hình thức bảo hộ gián tiếp vô hình khác (cơ chế tỷ giá hối đoái, lãi suất, tín dụng ngân hàng...). Việt Nam cần tự do hoá hoàn toàn quyền kinh doanh xuất nhập khẩu để tất cả các sản phẩm không phải chịu hạn chế định lợng (trừ các mặt hàng vì các lý do sức khỏe, an toàn, môi trờng) và đợc nhập khẩu tự do với việc trả thuế thích hợp. Đối với một số mặt hàng nh xăng đầu, phân bón, những hạn chế nhập khẩu cần xoá bỏ tức thì và đợc thay thế bằng thuế quan. Đối với sắt thép xi măng, những mặt hàng Việt Nam cha sản xuất đủ đáp ứng nhu cầu trong nớc và có mức giá cao gần gấp đôi giá nhập khẩu, thuế suất tạm thời chỉ nên đợc áp dụng trong một thời gian ngắn, sau đó phải loại bỏ để các ngành vơn lên theo kịp các ngành tơng ứng của các nớc khác. Cần giảm nhanh chóng số các mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành của các Bộ và chỉ áp dụng đối với các mặt hàng có liên quan đến sức khoẻ, an toàn và môi trờng. Đối với nhóm hàng hoá cần dợc bảo hộ mạnh để duy trì sự tồn tại và phát triển nh: dệt, da, may mặc, hoá chất... Việt Nam có thể áp dụng biện pháp chuyển hạn ngạch thành thuế quan, trớc mắt có thể đánh thuế quan cao để bảo hộ nhng mức thuế đất cũng sẽ đợc giảm dần. Nh vậy, cần phân loại hàng hoá thành nhiều nhóm theo yêu cầu của bảo hộ và tình hình sản xuất, phát triển của từng ngành. Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu. Việt Nam cần cố gắng đơn giản hoá và điều hoà thủ tục nhằm thông quan sản phẩm của ASEAN nhanh chóng và hiệu quả, triển khai hệ thống luồng xanh hải quan để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải quan cho các sản phẩm của CEPT, giảm thiểu mọi rắc rối về vấn đề thủ tục trong quan hệ thơng mại của Việt Nam với các nớc. Để thực hiện đợc điều này đòi hỏi Việt Nam phải có một sự đổi mới toàn diện, đặc biệt về cơ chế quản lý và bộ máy làm việc còn quan liêu, qua nhiều cửa. 000009.1.2. Chính sách thuế Ngày nay, thuế không còn là một vấn đề chỉ mang tính quốc gia nữa mà đã mang tính quốc tế. Một trong những tiêu chuẩn gia nhập các khối kinh tế trên thế giơí là phải cải cách hệ thống chính sách thuế phù hợp các chuẩn mực của khu vực và thế giới. Hệ thống thuế của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Do vậy, việc cải cách hệ thống thuế, mà quan trọng nhất đối với quá trình hội nhập là thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một ất yếu. Việc cải cách đó phải đáp ứng đợc một số nguyên tắc: + Thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải là công cụ điều tiết xuất nhập khẩu để tiến tới bỏ hạn chế xuất nhập khẩu theo hạn ngạch và định hớng. + Hệ thống cơ cấu thuế suất, định giá và tính thuế phải đảm bảo các nguyên tắc chuẩn mực quốc tế, phù hợp với thông lệ quốc tế và chính sách kinh tế - tài chính của nớc ta. Để đảm bảo thực hiện các mục tiêu và định hớng phát triển kinh tế xã hội và tham gia hiệu quả vào AFTA, trong tơng lai, Việt Nam cần có một chính sách thuế năng động và hợp lý, thực sự là đòn bẩy kinh tế, phát huy các tác dụng trong quá trình phát triển kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập vào khu vực và thế giới. Những định hớng về chính sách thuế trong điều kiện Việt Nam hội nhập đợc xác định theo hai mục tiêu chính: cố gắng hạn chế phần giảm thu của ngân sách khi thực hiện cam kết và giảm thuế nhập khẩu, đồng thời sử dụng hệ thống thuế nh một công cụ kinh tế vĩ mô để khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Hai mục tiêu này cần đợc thực hiện thông qua toàn bộ hệ thống thuế. Cần cải cách thuế theo hớng giảm dựa vào thuế sản xuất và tăng tỷ lệ thu từ thuế tiêu dùng và thuế thu nhập nhằm khuyến khích sản xuất và đầu t. Đây cũng là xu thế chung của các nớc tiên tiến trên thế giới. Đối với nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ đợc giảm đến mức thấp nhất. Các mức thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu không phải chịu cam kết giảm thuế sẽ đợc điều chỉnh phù hợp, đáp ứng đợc yêu cầu bảo hộ gián tiếp và đảm bảo cho nguồn thu ngân sách. Hiện nay, thuế tiêu thụ đặc biệt mới chỉ áp dụng với các mặt hàng: thuốc lá, rợu, bia, ô tô nhập khẩu, xăng. Tuy nhiên những mặt hàng này không thuộc danh mục các mặt hàng đa vào thực hiện CEPT. Vì vậy, thuế tiêu thụ đặc biệt cần mở rộng diện đánh thuế đối với một số mặt hàng tiêu dùng cao cấp nh tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ... Cùng một mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì dù có sản xuất trong nớc hay nhập khẩu thì đều phải chịu thuế nh nhau. Việc hoàn thiện hai sắc thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ góp phần làm giảm nhẹ phần giảm thu của ngân sách từ việc giảm thuế nhập khẩu. Trên cơ sở sửa đổi thuế tiêu thụ đặc biệt thu cả vào hàng nhập khẩu nh trên sẽ có điều kiện sử đổi thuế nhập khẩu theo hớng giảm bớt số mức thuế suất và hạ thấp thuế tối đa để tiến tới tơng đồng với các nớc khu vực và thế giới. Các mức thuế suất thuế nhập khẩu một mặt đợc giảm xuống đối với một số mặt hàng nhất định, mặt khác một số mặt hàng có thể đợc nâng thuế suất lên. Đặc biệt là những mặt hàng hiện đang có thuế suất nhỏ hơn 5% (hoặc bằng 0%). Những thuế suất này cần đợc xem xét cụ thể căn cứ theo kim ngạch xuất nhập khẩu cũng nh tình hình sản xuất để nâng lên tới mức 3 - 5%. Nh vậy sẽ bù đắp đợc những thiếu hụt cho ngân sách khi thực hiện cắt giảm thuế nói chung mà vẫn đảm bảo thực hiện các quy định của CEPT. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực thi các chính sách thuế cần phải đơn giản hoá các mức thuế trong biểu thuế xuất nhập khẩu tức là giảm dần số lợng các mức thuế khác nhau. Việc này sẽ tạo điều kiện quản lý tốt hơn, tránh thất thu thuế. Xuất phát từ tính bất ổn định, hay thay đổi của biểu thuế mà trong thời gian tới các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lỡng và khoa học hơn trớc khi đa ra một mức thuế. Khi điều chỉnh một mức thuế nào đó phải xem xét một cách toàn diện kim ngạch nhập khẩu, khả năng sản xuất mặt hàng đó trong nớc hiện tại, tơng lai và ảnh hởng tới nguồn thu ngân sách. Nh vậy sẽ tránh đợc tình trạng quá nhiều thay đổi trong chính sách, làm cho các doanh nghiệp và cán bộ tính thuế dễ theo dõi và tránh nhầm lẫn. Đồng thời, cần có một chính sách miễn giảm thuế hợp lý. Hiện nay có một số mặt hàng đợc xét miễn giảm thuế theo mục đích sử dụng và những mục tiêu cần u tiên hỗ trợ. Hơn nữa, quy định về miễn giảm thuế quá phức tạp. Điều này dễ gây ra tình trạng gian lận, khai sai mục đích sử dụng để đợc hởng u đãi, gây thất thu cho ngân sách. Vì vậy, cần quy định các trờng hợp miễn giảm một cách rõ ràng và khoa học hơn. Nên chăng, với những mục tiêu cần u tiên, hỗ trợ, Nhà nớc nên trợ cấp qua ngân sách, không nên sử dụng công cụ thuế để trợ giá? Một vấn đề quan trọng nữa trong tiến trình hội nhập của Việt Nam là phải có chiến lợc cắt giảm thuế quan hợp lý. Chiến lợc cắt giảm thuế quan này là một cơ chế để Việt Nam thực hiện CEPT, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập các tổ chức thơng mại khác hay ký kết các hiệp định song phơng. Một là, cần có kế hoạch và lịch trình cắt giảm thuế cụ thể từng mặt hàng, tạo sự chủ động của các xí nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Việt Nam cần đặt mục tiêu thực hiện kế hoạch giảm thuế trớc năm 2003 đối với những ngành có lợi thế so sánh trớc mắt và trớc năm 2006 đối với những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng. Hai là, giữ nguyên mức thuế nhập khẩu đối với các nớc ngoài ASEAN tạo ra sự chênh lệch giữa các nớc ASEAN và các nớc ngoài ASEAN, kích thích nớc ngoài đầu t vào ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Thuế quan là một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, hệ thống thuế của Việt Nam cần phải từng bớc cải cách sao cho phù hợp với những quy định của tổ chức này. Việc hoàn thiện các chính sách cho quá trình hội nhập của Việt Nam yêu cầu cần đặt ra ở đây là cần đợc xây dựng một cách hoàn chỉnh, đồng bộ và có cơ sở khoa học, đợc tổ chức thực hiện có kết quả, làm cho việc thực hiện chính sách đổi mới hoạt động ngoại thơng đợc dễ dàng hơn. 000009.2. Thống nhất các tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam, đáp ứng đợc và hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế. Tiêu chuẩn hoá không chỉ là một vấn đề cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam, mà còn là đòi hỏi tất yếu của việc thu hút đầu t và thơng mại của thế giới vào thị trờng Việt Nam. Tiêu chuẩn đo lờng chất lợng cũng là vấn đề đợc các tổ chức quốc tế có liên quan đến kinh tế - thơng mại rất chú trọng. ASEAN có Uỷ ban t vấn về tiêu chuẩn và chất lợng (ACCSQ) - đợc thành lập nhằm thúc đẩy tiến trình hoàn thiện khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) thông qua các biện pháp tháo gỡ, tiến tới xoá bỏ các rào chắn kỹ thuật trong thơng mại giữa các nớc. Việt Nam đã tham gia Hiệp định về thừa nhận lẫn nhau (MRA) và mới đây đã cùng các nớc thành viên ASEAN khác ký một hiệp định khung về việc thừa nhận lẫn nhau về chất lợng sản phẩm. Vì vậy, trong xu hớng toàn cầu hoá hiện nay, việc áp dụng thực hiện và đợc chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lợng theo ISO 9000 đợc coi nh một điều kiện cơ bản và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp thâm nhập và có chỗ đứng trên thơng trờng quốc tế. Học tập kinh nghiệm các nớc ASEAN, từ năm 1995, Việt Nam đã không ngừng cải tiến cả về tổ chức và phơng thức chứng nhận chất lợng của mình để tiếp cận và vơn tới chuẩn mực chung của các nớc ASEAN. Từ năm 1996, ngoài việc chứng nhận chất lợng cho sản phẩm, đã triển khai hoạt động chứng nhận hệ thống chất lợng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, có sự kết hợp, đánh giá với các tổ chức chứng nhận của Anh, Pháp, Singapo... Để có đợc sự thừa nhận lẫn nhau thì cơ chế kiểm tra và cấp chứng chỉ hàng hoá phải thoả mãn các yêu cầu: + Có phòng thử nghiệm sản phẩm đạt các chuẩn mực phổ biến (ví dụ phù hợp với hớng dẫn số 25 của ISO). + Có chuyên viên kiểm tra đánh giá chất lợng sản phẩm đợc huấn luyện theo các chuẩn mực phổ biến, ví dụ: theo ISO 10011 - 10012. + Phải có những thoả ớc đợc ký kết giữa các tổ chức kỹ thuật muốn thừa nhận lẫn nhau hoặc giữa các quốc gia cho những lĩnh vực thừa nhận cụ thể. Nh vậy, để có thể hoà hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, để tham gia vào các Hiệp định về thừa nhận lẫn nhau, Việt Nam cần: - Làm cho các doanh nghiệp thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc quản lý chất lợng theo ISO 9000 thông qua việc tổ chức các hội thảo, hội nghị, lớp tập huấn về thực hiện quản lý chất lợng theo ISO 9000 đồng thời cử cán bộ, chuyên viên xuống các doanh nghiệp giảng giải, hớng dẫn. KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới nói chung và hội nhập vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) nói riêng là một chủ trơng hoàn toàn đúng đắn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nớc và phù hợp với xu thế của thời đại của đảng và nhà nớc. Tuy nhiên việc tham gia hội nhập kinh tế cũng đặt nền kinh tế nớc ta trớc nhiều khó khăn và thử thách đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Có thể nói, vấn đề thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam khi hội nhập AFTA là một trong những yếu tố có tính chất sống còn đối với phát triển kinh tế nớc ta hiện nay. Để làm đợc việc đó, chúng ta không chỉ phải tìm ra những giải pháp phù hợp cho việc cắt giảm thuế quan mà còn phải đa ra nhng cải cách, những chính sách tơng ứng trong những lĩnh vực có liên quan nh: Tăng cờng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nớc để tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá trong nớc, có chính sánh đào tạo cán bộ xuất nhập khẩu hợp lý, cung cấp đầy đủ thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu về các mặt hàng, các khách hàng và bạn hàng đang có nhu cầu trên thế giới, có các chính sánh khuyến khích xuất khẩu… Trong đề án này, với kiến thức còn nhiều hạn chế ngời viết chỉ mong muốn đa ra những hiểu biết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) và sự tham gia của Việt Nam vao AFTA-CEPT , thực trạng xuất khẩu của nớc ta khi tham gia hội nhập AFTA từ đó đa ra một số biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTiểu luận-Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT.pdf
Tài liệu liên quan