Tài liệu Tiểu luận Tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân nước ta: Lời mở đầu
Việt Nam _từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu,nhiều nơi còn đói kém nhưng nhờ áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ, lần đầu tiên nền kinh tế vượt "cửa ải" lương thực và bắt đầu "cất cánh" _ sản lượng lương thực liên tục tăng, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới_ Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp còn bấp bênh do ảnh hưởng của nhiều nhân tố như điều kiện tự nhiên, giống cây trồng, vật nuôi, việc ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất của các hộ gia đình nông dân còn nhiều khoảng cách... Do vậy, cần phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất để khoa học thực sự là động lực thúc đẩy quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Việc ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp có ý nghĩa trực tiếp và to lớn trong việc nâng cao năng suất cây trồng, năng suất vật nuôi và tăng sức cạnh tranh hàng nông sản Việt Nam ở thị trường trong nước và quốc tế.
Từ những nhận định trên tác giả quyết định lựa chọn đề tài...
35 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1164 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân nước ta, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Việt Nam _từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu,nhiều nơi còn đói kém nhưng nhờ áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ, lần đầu tiên nền kinh tế vượt "cửa ải" lương thực và bắt đầu "cất cánh" _ sản lượng lương thực liên tục tăng, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới_ Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp còn bấp bênh do ảnh hưởng của nhiều nhân tố như điều kiện tự nhiên, giống cây trồng, vật nuôi, việc ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất của các hộ gia đình nông dân còn nhiều khoảng cách... Do vậy, cần phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất để khoa học thực sự là động lực thúc đẩy quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Việc ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp có ý nghĩa trực tiếp và to lớn trong việc nâng cao năng suất cây trồng, năng suất vật nuôi và tăng sức cạnh tranh hàng nông sản Việt Nam ở thị trường trong nước và quốc tế.
Từ những nhận định trên tác giả quyết định lựa chọn đề tài: "Tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân nước ta" .
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất ,thực chất của mối quan hệ này ,từ đó đánh giá quá trình thực hiện và đưa ra giải pháp .
Theo mục đích trên , đề tài bao gồm những nội dung sau:
Sự cần thiết phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
Quá trình thực hiện liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
Một số giải pháp tăng cường liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
Trong quá trình thực hiện đề tài, do tài liệu và trình độ nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Sau cùng, em xin phép được dành những lời trân trọng nhất bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Vũ Duy Minh, Nguyễn Đình Hợi đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
1
Mục Lục
3
Chương I-Sự cần thiết phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
4
1.1.Thực chất quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
4
Khái niệm
4
1.1.2. Thực chất của quan hệ liên kết
4
1.2. Sự cần thiết phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
7
Chương II - Quá trình thực hiện liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
12
2.1. Chủ trương, quan điểm định hướng
12
2.2. Đánh giá kết quả quá trình thực hiện liên kết giữa khoa học và sản xuất
13
2.2.1. Hình thức liên kết và cách thức thực hiện
13
2.2.2. Thành tựu
16
2.2.3. Hạn chế
21
2.2.2. Nguyên nhân
24
Chương III - Giải pháp
27
3.1. Quan điểm về phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp và định hướng
27
3.2. Giải pháp
29
3.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước
29
3.2.2. Giải pháp từ phía các nhà khoa học
32
3.2.3. Về phía hộ nông dân
36
Kết luận
38
Tài liệu tham khảo
39
CHƯƠNG I
Sự Cần Thiết phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
1.1 Thực chất quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
1.1.1 Khái niệm
Liên kết kinh tế là tổ chức phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho mỗi bên tham gia .
Chủ thể tham gia liên kết giữa khoa học và sản xuất là các nhà khoa học và hộ gia đình nông dân .
Nhà khoa học gồm các cán bộ nghiên cứu của các viện, các trung tâm nghiên cứu, các cán bộ khuyến nông.
Hộ gia đình nông dân là những người trực tiếp làm ra sản phẩm nông nghiệp. Họ chịu trách nhiệm trả chi phí cho các sản phẩm khoa học được ứng dụng và thực hiện các cam kết trong hợp đồng kỹ thuật với các nhà khoa học. Bên cạnh đó hộ gia đình nông dân phải thực hiện các qui định về sản xuất, chế biến và tiêu thụ cũng như các cam kết tín dụng với ngân hàng. Hộ gia đình nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ trong nền kinh tế thị trường, là đơn vị kinh tế cơ sở trong nền kinh tế hàng hoá và là đơn vị sản xuất quy mô nhỏ có hiệu quả.
1.1.2 Thực chất của quan hệ liên kết kinh tế
Tiền đề của quá trình liên kết là sự phát triển của quá trình phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh. Quá trình liên kết kinh tế xuất hiện trong nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường, khởi thuỷ của nó là quan hệ kinh tế, quan hệ trao đổi, mua - bán sản phẩm, hàng hoá trên thị trường, vận động phát triển qua nhiều nấc thang trình độ cố kết bền vững của các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp. Quá trình liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp diễn ra trước hết trong lưu thông, trao đổi sản phẩm. Nó được đánh dấu bởi sự hợp tác trao đổi sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Sự mua - bán trao đổi hàng hoá không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên, nhất thời giữa các doanh nghiệp mà đã trở nên thường xuyên liên tục, có hợp đồng kế hoạch từ trước và ổn định bạn hàng trong một thời gian tương đối dài .
Như vậy ,quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp đã chuyển biến về chất, nâng quan hệ lên một trình độ cao hơn ,thường xuyên, ổn định và cố kết hơn, có sự thoả thuận hợp tác lâu dài và bền vững hơn.
Quá trình đó được phát triển lên một giai đoạn cao hơn ,tức là sự hợp tác diễn ra ngay trong quá trình sản xuất. Giai đoạn này cũng được phát triển qua nhiều nấc thang của nó. Bắt đầu chỉ là thoả thuận phân công chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm, chi tiết, bán thành phẩm hoặc kinh doanh tiêu thụ sản phẩm cung ứng vật tư thiết bị giữa các doanh nghiệp với nhau hoặc là cùng góp vốn để thực hiện một dự án, một nhiệm vụ chung cho các doanh nghiệp như đầu tư vào nghiên cứu khoa học, công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, tìm nguồn nguyên liệu mới, sản xuất sản phẩm mới, khai thác thị trường, nguồn tài nguyên và lao động dồi dào ...Qúa trình liên kết kinh tế ngày càng phát triển lên những giai đoạn cao hơn .
Tronghoạt động liên kết kinh tế có thể thiết lập mối quan hệ liên kết ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng, từ khâu chuẩn bị các yếu tố sản xuất đến sản xuất và phục vụ sản xuất, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo, bảo vệ tài nguyên môi trường, khai thác thị trường ,thúc đẩy quá trình lưu thông tiêu thụ sản phẩm... Hoạt động liên kết kinh tế có thể diễn ra ở phạm vi không gian hẹp như trong một địa phương, một vùng và cũng có thể diễn ra ở phạm vi không gian rộng như thông qua hình thức hợp đồng liên kết giữa các chủ thể kinh tế độc lập cũng có thể thực hiện thông qua việc hình thành một loại hình tổ chức mới, làm nhiệm vụ điều phối hoạt động của các bên tham gia. Khi quá trình liên kết đạt tới việc sát nhập hình thành nên một tổ chức, một doanh nghiệp mới lớn hơn đó là sự biểu hiện của tập trung sản xuất. Có thể nói thực chất của quá trình liên kết kinh tế là quá trình xã hội hoá về phương diện kinh tế nền sản xuất xã hội. Sự phát triển của liên kết kinh tế làm cho lực lượng sản xuất ngày càng cao, làm cho các khu vực kinh tế ngày càng xích lại gần nhau, gắn bó, cấu kết với nhau hơn.
Động cơ và mục đích chủ yếu của liên kết kinh tế là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định, là nhằm tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, ngày càng mở rộng phạm vi. Lợi ích kinh tế là sợi dây ,là chất nhưạ làm gắn bó các doanh nghiệp, các chủ thể liên kết lại với nhau. Cạnh tranh là nhân tố khách quan thúc đẩy các chủ thể "tự nguyện bắt buộc" liên kết lại với nhau trên cơ sở đảm bảo lợi ích sống còn trên thị trường .Để đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định giữa các thành viên, hoạt động liên kết kinh tế là nhằm phát triển, tìm kiếm khai thác ngày càng nhiều nguồn nguyên liệu cho sản xuất, đa dạng hoá mặt hàng, tăng nhanh khối lượng và chất lượng sản phẩm , rút ngắn và đẩy nhanh quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng phát triển thị trường, tức là nâng cao năng suất lao động, tồn tại , phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Liên kết kinh tế là một quá trình vận động phát triển tự nhiên, tuỳ thuộc trình độ phạm vi của phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh, tuỳ thuộc vào quá trình vận động phát triển của các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, vào lợi ích của các bên tham gia liên kết, vào môi trường cạnh tranh. Liên kết kinh tế còn phụ thuộc vào mối quan hệ nội tại giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các bộ phận,các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, phụ thuộc vào sự "thử thách" của quá trình quan hệ, vào trình độ công nghệ quản lý, cũng như năng lực điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý. Không thể áp dụng về phương diện tổ chức từ bên ngoài, hoặc từ bên trên bất kỳ một hình thức tổ chức liên kết kinh tế theo ý muốn chủ quan .
Như vậy, về bản chất hay thực chất các mối quan hệ liên kết kinh tế đều là những quan hệ kinh tế. Nhưng những quan hệ kinh tế đó phải phản ánh sự phối hợp mang tính cộng đồng trách nhiệm của các chủ thể kinh tế liên quan. Liên kết kinh tế bắt đầu được hình thành trong quá trình lưu thông hàng hoá ,trao đổi sản phẩm của các doanh nghiệp. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, đòi hỏi quá trình liên kết ở phạm vi rộng hơn, không chỉ diễn ra trong một doanh nghiệp, trong một lĩnh vực, trong một ngành mà diễn ra ở tất cả các lĩnh vực và có sự liên kết giữa các ngành với nhau. Trong nông nghiệp cũng vậy, muốn tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi phải có sự liên kết giữa khoa học và sản xuất .
Từ những lý luận trên có thể khẳng định rằng: thực chất quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân là gắn bó khoa học với sản xuất, gắn nghiên cứu với ứng dụng. Trong điều kiện chuyển nông nghiệp, nông thôn sang phát triển hàng hoá thì việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ tạo khả năng cho các đơn vị sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Mặt khác, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ đảm bảo sử dụng triệt để, tiết kiệm các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn.
1.2. Sự cần thiết phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
Liên kết kinh tế trong các ngành sản xuất kinh doanh là một tất yếu khách quan :
- Do yêu cầu bảo đảm tính thống nhất của quá trình sản xuất xã hội .
Tái sản xuất xã hội mở rộng là một quá trình thống nhất, nhưng do tác động của sự phát triển phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất làm cho quá trình đó bị phân chia làm nhiều khâu độc lập tách rời nhau. Để đảm bảo tính thống nhất của quá trình tái sản xuất xã hội đòi hỏi phải kết hợp các khâu. Có nhiều cách để thực hiện sự kết hợp trên, nhưng sự kết hợp thông qua quan hệ liên kết kinh tế thường mang tính chặt chẽ và đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn .
- Do tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh để dành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là qui luật vốn có của các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Liên kết kinh tế là hoạt động có quan hệ mật thiết, gắn bó với cạnh tranh .Các doanh nghiệp phát triển quan hệ liên kết kinh tế để tăng cường sức mạnh trong cạnh tranh với các đối thủ. Cạnh tranh thúc đẩy liên kết kinh tế. Trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều mong đạt được tối đa lợi nhuận trong khả năng vốn có của mình. Hoạt động liên kết kinh tế có thể cho phép doanh nghiệp bù đắp chỗ yếu. Khai thác điểm mạnh lẫn nhau để thực hiện những hợp đồng kinh doanh mà tự mình không thể thực hiện được, hoặc thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
- Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Trong mấy thập kỷ gần đây, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có bước phát triển mới sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động vào mỗi ngành kinh tế và đời sống xã hội của các quốc gia trên thế giới. Các doanh nghiệp phải tăng cường liên kết kinh tế để nắm bắt ứng dụng nhanh các thành tựu mới của tiến bộ khoa học và công nghệ nhằm tăng cường khả năng sản xuất sản phẩm mới đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu kinh tế xã hội.
Thực tiễn phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng của các nước, đặc biệt là những nước có nền kinh tế hiện đại đều khẳng định vai trò quan trọng của tiến bộ khoa học công nghệ. Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi vai trò bốn yếu truyền thống của lợi thế cạnh tranh. Hiện nay, yếu tố trí tuệ (kỹ năng, công nghệ) có tính quyết định nhất còn các yếu tố tài nguyên, vốn, sức lao động thì ngày càng giảm vai trò, trở thành thứ yếu. Kinh nghiệm cho thấy có những nước giầu tài nguyên nhưng không phát triển vì không có nguồn năng lực, không có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ. Trái lại, có những nước không có tài nguyên nhưng biết phát huy nguồn nhân lực, vận dụng tốt các thành tựu khoa học công nghệ thế giới đã phát triển rất nhanh.
Trong điều kiện nước ta, khoa học công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, là nhân tố chủ yếu trúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Ngày nay khoa học công nghệ dã xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Trong nông nghiệp nông thôn nội dung khoa học công nghệ cũng rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, nhiệm vụ chủ yếu phát triển khoa học công nghệ là nhằm thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Khi khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày càng tiến bộ không ngừng, thì sự liên kết giữa khoa học và sản xuất là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế. Cuộc cạnh tranh trên thương trường hiện nay đặc biệt ở thị trường quốc tế đòi hỏi chỉ có những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao mới tiêu thụ được và mới thu được hiệu quả. Trong nông nghiệp, muốn sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của quá trình liên kết giữa khoa học và sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, chủng loại, năng suất cây trồng, mỗi sản phẩm làm ra đều chứa đựng hàm lượng khoa học ngày càng cao trong đó. ở tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất và tiêu thụ đều có sự liên kết giữa cơ quan khoa học với người sản xuất kinh doanh. Bắt đầu từ khâu tuyển trọn lai tạo, nhân giống, đến quy trình kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, vận chuyển, bảo quản, tiêu thụ,... tất cả đều có sự liên kết chặt chẽ với cơ quan khoa học, các nhà khoa học. Nếu không sẽ không có bất kỳ một kg sản phẩm nào tiêu thụ được trên thị trường thế giới.
Mặt khác, do năng suất lao động trong nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc áp dụng những kỹ thuật mới, tiên tiến nhưng vì nhiều lý do như thiếu vốn, thiếu tri thức ... Mà kinh tế hộ rất hạn chế trong việc tiếp nhận kỹ thuật mới. Điều này có nghĩa là , sự phát triển của kinh tế hộ đến một chừng mực nào đó thì tự nó sẽ có nhu cầu hợp tác, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu của việc phát triển lực lượng sản xuất. Với vai trò là đơn vị kinh tế cơ sở tiếp nhận khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, nâng cao sản xuất và hiệu quả kinh tế, điều đó buộc các hộ gia đình tìm mọi biện pháp để tăng năng suất lao động và cạnh tranh thắng lợi. Để đạt được điều này, một mặt các chủ hộ phải sử dụng hiệu quả những kinh nghiệm sản xuất lâu đời, cha truyền con nối, mặt khác phải áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. ở đây động cơ lợi nhuận và lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy hộ gia đình áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Nó là một quá trình tự giác gắn với lợi ích thiết thực từng hộ gia đình, khác với việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ trong chế độ kinh tế của hợp tác xã trước đây. Thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh doanh ở từng hộ cũng đồng thời diễn ra quá trình sàng lọc và cải tiến kỹ thuật làm cho nó thực sự thích ứng và mang lại hiệu quả cao .Như vậy, kinh tế hộ gia đình vừa là nơi lưu giữ những kinh nghiệm truyền thống, vừa là nơi tiếp nhận, phát triển hoàn thiện thêm những công nghệ mới _ là điều kiện vững chắc đảm bảo cho việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của hộ gia đình nông dân .
Cần phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất bởi vì có liên kết chặt chẽ mới nâng cao khả năng cạnh tranh nông sản, làm cho kết quả nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn. Nhà khoa học cần liên kết với nông dân trong việc xác định các nghiên cứu ưu tiên , chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Các nhà khoa học sẽ hỗ trợ nông dân nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Ngược lại, họ sẽ có thị trường để bán các sản phẩm khoa học, công nghệ của họ và áp dụng các công trình nghiên cứu ấy vào sản xuất. Các hộ gia đình nông dân cần nhà khoa học cung cấp giống, kỹ thuật quy trình sản xuất bảo quản chế biến đảm bảo sản xuất ra được nông sản có chất lượng, có sức cạch tranh trên thị trường. Như vậy, Nhà nông là người làm ra sản phẩm, song để nâng cao chất lượng, số lượng, chủng loại các sản phẩm phải dựa vào các nhà khoa học .
Nhà khoa học cung cấp giống, kỹ thuật, quy trình sản xuất, bảo quản, chế biến đảm bảo cho nhà nông sản xuất ra được nông sản có chất lượng các nhà khoa học có vai trò rất lớn trong việc giúp nông dân kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất chất lượng nông sản, tăng giá bán và tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá, giảm chi phí sản xuất. Mặt khác do xuất phát từ thực tiễn ở nước ta hiện nay, quá trình nghiên cứu và ứng dụng không gắn kết với nhau, có khi còn có khoảng cách rất lớn, nhiều kết quả nghiên cứu đã không ứng dụng được trong thực tiễn hoặc được ứng dụng nhưng không mang lại kết quả cao. Do đó đòi hỏi phải tăng cường quan hệ liên kết.
Chương ii
quá trình thực hiện liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
2.1 Chủ trương ,quan điểm định hướng
Nghị quết hội nghị Trung ương II (khoá VIII) khẳng định :"cùng với giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu là động lực phát triển kinh tế -xã hội" là "nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh ".
Trong thời đại ngày nay, muốn phát triển khoa học công nghệ phải biết phát huy năng lực nội sinh kết hợp tiếp thu thành tựu khoa học thế giới. Tuy nhiên, đối với nước ta là nước đi sau về phát triển kinh tế thì một mặt phải nhanh chóng phát triển năng lực nội sinh, mặt khác phải tranh thủ những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại .
Phát triển khoa học công nghệ phải phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, phải thay đổi phong tục tập quán lạc hậu, phải nhanh chóng ứng dụng những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả.
Trong điều kiện nông nghiệp , nông thôn nước ta hiện nay phương hướng phát triển khoa học công nghệ cần kết hợp bước đi tuần tự với đi thẳng vào hiện đại (sử dụng công nghệ tiên tiến). Kết hợp giữa việc áp dụng những thành tựu của cách mạnh khoa học công nghệ thế giới với kinh nghiệm sản xuất của nông dân. Tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở nghiên cứu thử nghiệm và sản xuất giống mới .
Bên cạnh đó cần xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa các nhà doanh nghiệp, nông dân, khoa học, nhà nước. Đây là mối quan hệ tạo nên sức mạnh của sản xuất nông nghiệp hàng hoá: có đủ vốn để sản xuất, có công nghệ cao, có chất lượng sản phẩm tốt giá thành hạ và có cơ chế pháp lý bảo đảm. Mối quan hệ này phải nâng lên bằng các hợp đồng kinh tế và mọi hành vi vi phạm phải được sử lý bằng pháp luật .
Để thực hiện tốt hơn nữa và phát huy mạnh mẽ hơn vai trò của khoa học công nghệ thì cần phải chú ý tập trung vào các vấn đề sau:
Khai thác triệt để các nguồn của đổi mới công nghệ nông nghiệp có liên quan, tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đến mọi loại cây trồng vật nuôi, mọi ngành nghề ở nông thôn. Viện nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phải đặc biệt chú trọng đến sản phẩm nhiệt đới ngoài lúa gạo như là chè, cà phê, cao su... Đặc biệt là khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đồng thời, cần tập trung phát triển công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp như chọn tạo giống và công nghệ sản xuất giống cây trồng vật nuôi. Giống là tư liệu sản xuất có hàm lượng chất xám cao nhất trong nông nghiệp, do vậy quan tâm tuyển chọn giống từ nguồn gốc bản địa, tiếp tục nghiên cứu chọn tạo ra các giống cây trồng có nhiều đặc tính di truyền tốt cũng như nhập nội giống cây trồng vật nuôi quý của thế giới. Việc lai tạo, chọn lọc giống cây trồng theo ba hướng: giống năng suất cao chất lượng tốt, giống chống chịu sâu bệnh, giống cho các vùng khó khăn. Nghiên cứu kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến nhất là kỹ thuật về sinh sản, các công nghệ chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. Để hạn chế tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị nông sản, tăng khả năng cạnh tranh cần phải có công nghệ bảo quản rau quả tươi, tăng tỉ lệ nông sản được chế biến...
2.2 Đánh giá kết quả quá trình thực hiện liên kết giữa khoa học và sản xuất
2.2.1.Hình thức liên kết và cách thức thực hiện
Các nhà khoa học và các tổ chức có vai trò rất lớn trong việc giúp nông dân kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất và chất lượng nông sản, tăng giá bán và tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá, giảm chi phí sản xuất .
Hình thức liên kết :
Có nhiều hình thức tham gia liên kết của lực lượng khoa học với nông dân :
Bộ khoa học trực thuộc doanh nghiệp hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân sản xuất theo hợp đồng đã ký kết với doanh nghiệp (những doanh nghiệp như: tổng công ty bông Việt Nam, công ty mía đường Lam Sơn, nông trường Sông Hậu...).
Các đơn vị khoa học tại địa phương (sở nông nghiệp, trung tâm khuyến nông, chi cục bảo vệ thực vật ,chi cục thú Y ) và các cơ quan khoa học Trung ương (các viện,trường,trung tâm khuyến nông của bộ...) chuyển giao kỹ thuật tiên tiến cho nông dân .
Các cơ quan khoa học kết hợp ký kết hợp đồng tay ba với doanh nghiệp và nông dân, chịu trách nhiệm hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân sản xuất theo hợp đồng...
Các hộ nông dân có thể hợp tác với các trung tâm viện nghiên cứu, các công ty dịch vụ, chế biến kinh doanh nông sản. Hình thức hợp tác này có thể thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc dưới dạng công ty cổ phần...
Các cách thức thực hiện :
Để sử dụng có hiệu quả giống cây, con và các vật tư kỹ thuật nông nghiệp, khoa học có ý nghĩa hết sức quan trọng. Liên kết giữa khoa học và sản xuất không chỉ có tác dụng giúp nông dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất mà còn biết sử dụng các yếu tố kỹ thuật có hiệu quả, làm giảm giá thành sản xuất, tạo ra nông phẩm an toàn cung cấp cho xã hội.Thật là khiếm khuyết và kém hiệu quả nếu doanh nghiệp chỉ bán giống tốt, vật tư kỹ thuật cho nông dân theo kiểu "mua đứt, bán đoạn". Các tổ chức khuyến nông phi lợi nhuận của nhà nước, của các viện, trường và các tổ chức đoàn thể ( hội nghề nghiệp, hội nông dân, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh ) cần tạo niềm tin ở nông dân bằng hiệu quả của khuyến nông đem lại. Nói cách khác phải gắn lợi ích kinh tế đối với các cán bộ khoa học cơ sở, những người hàng ngày tiếp cận với nông dân. Để tiêu thụ được giống,vật tư nông nghiệp, thu hồi được công nợ và nhất là để tạo nguồn hàng ổn định cung cấp nông sản nguyên liệu cho chế, biến - tiêu thụ, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngòai nước, đỏi hòi các doanh nghiệp phải liên kết chặt chẽ giữa khoa học và sản xuất, bằng cách như thực hiện hợp đồng giữa doanh nghiệp và nhà khoa học, hợp đồng chuyển giao công nghệ đến từng hộ gia đình nông dân ... Thông qua các tổ chức khuyến nông, hội phụ nữ, các tổ chức quốc tế...
Ví dụ : Năm 2002, công ty Viễn Phát ở thành phố Hồ Chí Minh đã ký hợp đồng sản xuất gạo an toàn với hợp tác xã Phú Thọ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang đã đầu tư cho nông dân phân bón hữu cơ sinh học và thuốc trừ sâu bệnh sinh học, cán bộ khuyến nông của công ty đã mua của nông dân với giá 2200đ /kg, cung cấp gần 200 tấn gạo siêu sạch chất lượng cao cho thị trường, có lợi nhuận khoảng 10triệu đồng /ha lúa cho nông dân, bằng hai lần so với quy trình canh tác hoá học trước đây. Hoặc cuối năm 2002, công ty dịch vụ bảo vệ thực vật tỉnh An giang đã ký hợp đồng trồng rau an toàn với 105 hộ dân ở xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Công ty cử cán bộ khuyến nông xuống tập huấn cho các hộ nông dân quy trình kỹ thuật trồng rau an toàn, cung cấp bộ thuốc thực vật dùng cho sản xuất rau an toàn. Nhờ có hoạt động khuyến nông nên nông dân sản xuất được nông phẩm an toàn với giá thành hạ, làm tăng lợi nhuận, đồng thời doanh nghiêp mua được nông phẩm chất lượng cao, an toàn, với khối lượng ổn định để chế biến, tiêu thụ trên thị trường. Đôi bên đều có lợi là điều kiện để phát triển bền vững lâu dài và hiệu quả .
Có thể nói khuyến nông là một quá trình dịch vụ thông tin truyền bá kiến thức và đào tạo tay nghề cho nông dân ,giúp họ có khả năng tự giải quyết các vấn đề đặt ra trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Trong cơ chế mới hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, khuyến nông được coi là biện pháp cấp bách và lâu dài có tác động sâu sắc đến quá trình phát triển sản xuất hàng hoá của nông dân và xây dựng nông thôn mới.
Các hình thức khuyến nông có thể là: xây dựng các mô hình trình diễn, tổ chức cho nông dân đến thăm quan , trao đổi kinh nghiệm với những nông dân sản xuất giỏi, truyền bá kiến thức mới trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các hội nghị đầu bờ, trong trại chăn nuôi theo phương châm: "trăm nghe không bằng một thấy"; tổ chức các câu lạc bộ nghề nghiệp và câu lạc bộ nông dân sản xuất giỏi ...
Như vậy, liên kết giữa khoa học và sản xuất là cầu nối hai chiều giữa thực tế sản xuất của hộ gia đình nông dân với nghiên cứu khoa học, tạo ra tiến bộ kỹ thuật của các nhà khoa học, của các viện, các trường .
2.2.2. Thành tựu
Trong hàng chục năm qua nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào phục vụ sản xuất và đời sống. Các viện nghiên cứu khoa học - kỹ thuật nông nghiệp đã nghiên cứu lai tạo, thuần chủng nhiều giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt và thích nghi với điều kiện sinh thái của từng vùng, từng địa phương. Công nghệ sinh học đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất các loại phân bón, thuốc trừ sâu không gây ô nhiễm môi trường, trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm chế biến, trong việc bảo quản sản phẩm. Nhiều loại máy móc thiết bị hiện đại được nghiên cứu và sản xuất phục vụ nhu cầu của nông dân phù hợp với điều kiện từng vùng ,từng loại cây trồng, vật nuôi. Việc nhập khẩu công nghệ đã có sự quan tâm đúng mức tới thị trường trong nước .
Hoạt động khoa học công nghệ đã gắn bó hơn với sản xuất và đời sống của nông dân. Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ đã đưa vào ứng dụng góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn .
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học và công nghệ được tăng cường một bước, có nhiều cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu .
Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp nông thôn đã có sự trưởng thành và phát huy khả năng trong công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Hệ thống các trường đại học về nông-lâm-ngư nghiệp, các viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp, các trường dạy nghề đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ cho nông nghiệp, nông thôn .
Mặt khác, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ mà năng suất cây trồng, năng suất vật nuôi, năng suất lao động đã tăng lên, nông sản làm ra nhiều với chất lượng tốt hơn, giá thành thấp, giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế .
Việt Nam từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu nhiều nơi còn đói kém nhưng nhờ thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, áp dụng các thành tựu công nghệ sinh học, chế biến, bảo quản, vận chuyển sản phẩm... Lần đầu tiên nền kinh tế vượt "cửa ải" lương thực, số hộ nông dân đói nghèo giảm nhanh (giảm hơn 50% trong giai đoạn 1990-1998); Nền kinh tế bắt đầu "cất cánh"và đã trở thành nước xúât khẩu nhiều mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hạt điều... Hệ thống đê, mương, cống thóat nước phục vụ cho công tác tưới tiêu được chú trọng hơn, nhờ vậy tránh được tình trạng khô cằn khi đến mùa hạn cũng như tránh được tình trạng ngập úng khi đến mùa mưa. Nhiều giống mới (giống vật nuôi,cây trồng), thuốc trừ sâu, phân bón... được sử dụng phục vụ cho sản xuất. Do vậy nền nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần phát triển kinh tế đất nước .
Biểu hiện: tốc độ tăng trưởng nông nghiệp hàng năm đạt 4,5%. Trên giác độ sản xuất lương thực, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,2%/năm. Việt Nam coi trọng việc phát triển nghiên cứu và sản xuất lúa lai cho năng suất cao hơn lúa thuần từ 1,0-1,5 tấn/ha. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chủ trương phát triển việc nghiên cứu và áp dụng trồng lúa lai của Việt Nam. Đến nay diện tích trồng lúa lai đã lên tới 340000 ha so với 100 ha năm 1991. Nhờ mở rộng lúa lai ở miền núi, diện tích lúa nương ngày càng giảm. Trung bình cứ trồng một ha lúa lai thì giảm một ha rừng đốt phá để làm nương rẫy.
Trong những năm qua, hộ nông dân sử dụng các chất bảo vệ thực vật, phân hoá học, thức ăn gia súc và các máy móc trong sản xuất ngày một tăng. Việc sử dụng phân bón cùng với các tiến bộ về kỹ thuật, giống, kỹ thuật canh tác... đã làm tăng sản lượng nông nghiệp một cách đáng kể so với trước đây, đảm bảo cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Theo kết quả nghiên cứu của viện nghiên cứu thổ nhưỡng nông hoá(1998): ở Việt Nam trung bình bón 1 kg N+P2O5 +K2O làm tăng 7,5-8,5 kg lương thực quy thóc. Mức này thấp hơn so với trung bình Châu á (10 kg). Nhưng cao hơn Châu phi và Châu mỹ La-tinh (5-7 kg). Theo tỷ lệ này sử dụng phân bón làm tăng 9,3 triệu tấn lương thực chiếm 27-30,4% tổng sản lượng quy thóc của cả nước(1997). Hàng năm, Việt Nam xuất khẩu lượng rau quả cho thị trường Trung Quốc là chủ yếu chiếm 60% sản lượng của cả nước.
Bên cạnh ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi lợn đã có nhiều đóng góp đáng kể. Giai đoạn 1985 - 1989 bình quân mỗi năm Việt Nam xuất 5000 tấn thịt đông lạnh. Giai đoạn 1990-1995 mỗi năm xuất hơn 10000 tấn và năm 2000 xuất khoảng 12200 tấn. Việt Nam xuất khẩu thịt lợn chủ yếu sang Nhật Bản, Hồng Kông, Nga , ngoài ra các nước Malaysia, Singapore, Trung Quốc đang là những thị trường có nhiều hứa hẹn .
Đánh giá thành tựu sản xuất lương thực, chương trình lương thực thế giới (WFP) cho rằng Việt Nam đã đảm bảo an ninh lương thực có đủ lương thực cho mọi người và trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng thú hai trên thế giới, cho nên WFP đã chấm dứt chương trình hoạt động cứu trợ ở Việt Nam vào ngày 31/12/2000 để hỗ trợ cho các nước thiếu lương thực khác. Thành tựu nổi bật khác thu hút sự chú ý của quốc tế là Việt Nam đã phát triển thành công các nông sản đặc thù nhiệt đới có sức cạnh tranh như cà phê, cao su, hồ tiêu, điều. Kim nghạch xuất khẩu nông sản đã chiếm tới 30-40%tổng kim nghạch xuất khẩu cả nước. Kết quả nổi bật đáng chú ý nhất về ứng dụng công nghệ sinh học là các nhà khoa học đã tuyển chọn và lai tạo được nhiều giống luá mới có năng suất cao, ngắn ngày góp phần vào việc thâm canh tăng vụ. Cơ cấu mùa vụ đã chuyển theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân và lúa hè thu có năng suất cao, ổn định. Đến nay cả nước có hơn 90%diện tích được gieo cấy bằng giống lúa mới. ở các tỉnh phía Bắc đã tăng thêm vụ lúa xuân, ở các tỉnh phía nam tăng thêm diện tích cấy lúa đông xuân, hè thu. Do vậy diện tích gieo trồng và năng suất lúa đã tăng nhanh, làm chủ được công nghệ trong lai tạo, chọn lọc và nhân giống một số loại cây trồng, vật nuôi. Đến năm 2000, đã xây dựng được quy trình sản xuất lúa lai F1hệ bắc ưu và tổ chức sản xuất được 1350 tấn giống, đáp ứng được khoảng 20%nhu cầu giống trong tổng diện tích 330 nghìn ha lúa lai. Vụ đông xuân 2001-2002 duy trì và nhân được dòng bố mẹ đủ cho gieo cấy 15 nghìn ha để sản xuất khoảng 3000-4000 tấn F1. Chính nhờ áp dụng có hiệu quả những thành tựu mới về công nghệ sinh học, kết hợp hài hoà với phương pháp chọn tạo giống truyền thống mà trong năm 2002 đã chọn, tạo được 37 giống lúa mới, 12 giống ngô, 9 giống lạc, 6 giống rau, 2 giống hoa, 9 giống khoai tây, 8 giống cây công nghiệp dài ngày và 22 giống cây ăn quả, 12 giống gia súc, 3 giống dâu tằm công nhận được 51 dòng và xuất sứ là giống cây lâm nghiệp .
Cùng với giống, nhiều quy trình kỹ thuật đã hoàn thiện góp phần phát huy tiềm năng của giống: xác định bộ giống lúa xuất khẩu cho đồng bằng sông Cửu Long (IR64, vnd 95, IR2031, OM1490 và MTL250); tiếp tục nghiên cứu và đúc kết mở rộng kết quả về nghiên cứu cơ cấu cây trồng để bố trí mùa vụ hợp lý, tăng vụ, hạn chế ảnh hưởng bất thuận của thời tiết, ứng dụng kỹ thuật IPM, quản lý dinh dưỡng tổng hợp, bón phân cân đối, bón phân theo bảng so sánh phân mầu của lúa.
Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế biến bước đầu được hình thành; sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn. So với năm 1995, diện tích một số cây công nghiệp tăng khá: cà phê gấp hơn 2,7 lần, cao su tăng 46%, mía tăng khoảng 35%, bông tăng 8%... Một số loại giống cây công nghiệp có năng suất cao đã được đưa vào sản xuất đại trà.
Trong công nghệ sau thu hoạch ,tiếp tục hoàn thiện công nghệ và thiết bị sấy thóc, ngô như sấy thủ công, sấy tĩnh thông gió, bắt đầu ứng dụng công nghệ sấy hồng ngoại dải tần hẹp; công nghệ bảo quản tươi rau quả...
Những năm gần đây lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ được quốc hội và chính phủ đặc biệt quan tâm. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học tăng nhiều so với trước. Năm 2002, ngành nông nghiệp - phát triển nông thôn được nhà nước đầu tư 171.778 triệu đồng tăng 43.605 triệu đồng so với năm 2000 và gấp ba lần so với năm 1996. Mức đầu tư trung bình cho một cán bộ khoa học trong ngành năm 2002 là 38,4 triệu đồng, tăng hơn 5% so với năm 2001 và gấp 2,6 lần so với năm 1996. Với hệ thống 27 viện chuyên môn, trung tâm nghiên cứu và các trường đại học, cao đẳng trong ngành.
Nhiều kết quả năm 2002 được bắt nguồn từ những thí nghiệm trong các năm trước. Trong lĩnh vực trồng trọt, chọn giống cây trồng, ngày 29/11/2002, Bộ đã có quyết định số 5310QĐ/BNN-KHCN công nhận và cho phổ biến trong sản xuất 18 giống quốc gia,16 giống tiến bộ kỹ thuật, 9 cây đầu dòng (măng cụt và điều); 19 biện pháp kỹ thuật mới ...
Trong lĩnh vực chăn nuôi năm 2002 được ghi nhận sự chuyển biến mạnh trong việc chọn tạo giống bò, đánh dấu sự thành công của các nhà khoa học nông nghiệp Việt Nam bước đầu nghiên cứu thành công nhân vô tính bằng phương pháp cắt phôi để tạo ra cặp bê song sinh hoàn toàn giống nhau về đặc tính di truyền. Kết quả nhân vô tính phôi đã mở ra triển vọng mới không những phát triển nhanh các giống quý và đàn bò sữa ở Việt Nam. Cùng với việc nhân tạo giống đàn bò sữa các nhà khoa học nông nghiệp cũng có nhiều thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu đàn lợn hạt nhân dòng mẹ để tạo nên đàn lợn lai hướng nạc và đàn gà ri thuần , gà thả vườn .
Trong mấy năm gần đây, kinh tế hộ nông dân được phục hồi và phát triển là phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Có thể nói kinh tế hộ nông dân đã góp phần quyết định vào những thành tựu rất ngoạn mục của sản xuất nông nghiệp. Thực tiễn đã chỉ rõ khi nào kinh tế hộ nông dân đặt đúng vị trí vốn có của nó thì khi đó sản xuất nông nghiệp mới có điều kiện phát triển .
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được quá trình thực hiện liên kết giữa khoa học và sản xuất còn gặp một số khó khăn như khó khăn của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm , khả năng cạnh tranh hàng nông sản Việt Nam chưa mạnh, nghiên cứu và ứng dụng chưa gắn kết với nhau có khi còn khoảng cách lớn .
Phần lớn các tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp được triển khai với chi phí cao, có khi vượt quá năng lực đầu tư của nông dân, trong khi đó lại không mang lại kết quả tức thời thường là phải sau một hoặc nhiều vụ sản xuất. Mặt khác, các tiến bộ kỹ thuật mới thường bao hàm những yếu tố tự nhiên (lụt, hạn...) mà con người chưa khống chế tối đa được. Phần lớn các hộ nông dân, những chủ thể kinh tế độc lập, là người quyết định việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật mới lại không đủ khả năng khống chế rủi ro.
Kỹ thuật canh tác vẫn mang nặng tính truyền thống. Sự phát triển của các công nghệ tiên tiến chưa được ứng dụng, hệ thống công cụ sản xuất trực tiếp của các khâu sản xuất nông nghiệp chưa có sự thay đổi làm cho hệ thống kỹ thuật canh tác đã hình thành từ lâu đời được duy trì, mà hệ canh tác này hình thành trên cơ sở kinh nghiệm sản xuất của các hộ nông dân và nó cũng được thiết lập trên cơ sở hệ sinh thái, môi trường của vùng mà các hộ cư trú. Yếu tố truyền thống quy định hoạt động sản xuất của nông hộ trên cả kỹ thuật sản xuất lẫn tập quán kinh doanh .ở những vùng trồng lúa nước, các kỹ thuật canh tác truyền thống được duy trì một cách lâu đời. Biểu hiện rõ nét của thực trạng sản xuất theo tập quán và kinh nghiệm là nhóm hộ sản xuất thâm canh cây lúa nước. Như vậy khoa học và sản xuất chưa thực hiện sự gắn kết với nhau còn có khoảng cách.
Sản xuất vẫn còn phân tán, manh mún quy mô hộ gia đình nhỏ bé chất lượng sản phẩm không phù hợp với phát triển công nghệ chế biến; sản phẩm dư thừa, tiêu thụ khó khăn và là mối lo thường xuyên của nông dân, chưa kích thích được sản xuất phát triển .
Điều kiện sản xuất ở một số vùng còn rất nhiều khó khăn, chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết khắc nhiệt nhưng khả năng phòng tránh còn rất hạn chế.
Thực tế giữa khoa học và sản xuất nhiều khi còn quay lưng với nhau, do vậy sản phẩm sản xuất ra nhiều khi không bán được do chất lượng sản phẩm kém, sản xuất sản phẩm chưa sạch, chưa đảm bảo an toàn thực phẩm, vì thế mà giá rẻ gây nhiều thiệt hại cho nông dân, nông sản làm ra không cạnh tranh được với hàng nhập ngoại cả về giá cả và chất lượng, tỉ lệ nông sản hư hỏng cao...
Bên cạnh những khó khăn của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, về phía các nhà khoa học cũng gặp một số hạn chế như :
Trình độ khoa học và công nghệ thấp. Các viện nghiên cứu và trường đại học được đầu tư thấp, phối hợp hoạt động kém. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới, tổng chi phí cho một cán bộ nghiên cứu của Việt Nam 1 năm chỉ bằng 9% suất đầu tư của Indonesia và Thái Lan ; 2,5 % suất đầu tư của Malaysia .
Với mức đầu tư qúa ít cho khoa học hiện nay ,thì phần chi lương, hoạt bộ máy đã chiếm gần 60%tổng chi phí , thực chi cho đề tài chỉ còn 37%.
Thiết bị máy móc, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, cũ kỹ, thông tin khoa học ít ỏi, trình độ cán bộ thấp dần và mất dần nhân tài. Nguồn tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới chưa được thu thập, phân tích và chuyển giao đầy đủ, kịp thời cho người sản xuất. Trình độ áp dụng thành tựu cách mạng sinh học thấp trừ một vài loại sản phẩm như cà phê, lúa, ngô; còn phần lớn các cây trồng, vật nuôi năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. Nhiều loại sản phẩm dù Việt Nam có tiềm năng, nhưng sự thua kém về khoa học kỹ thuật làm cho hàng hoá kém cạnh tranh .
Nghiên cứu khoa học yếu, đầu tư áp dụng công nghệ mới cũng rất kém. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở và hộ ngành, nghề ở nông thôn rất thấp, chỉ có 18,6% có nhà xưởng kiên cố, 35%có sử dụng điện, 37%công việc được cơ giới hoá, còn 63% làm bằng tay.
Tình trạng nhập khẩu các công nghệ lạc hậu, không đồng bộ còn phổ biến. Đội ngũ cán bộ khoa học hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn thiếu nhiều cán bộ đầu ngành. Số đông cán bộ có trình độ cao đã lớn tuổi, số cán bộ trẻ, sinh viên mới ra trường không muốn về công tác ở vùng nông thôn do cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp quá thiếu và lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, tụt hậu trong đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm .
Trong thời gian qua, chưa đầu tư hợp lý vào trang thiết bị máy móc cho nghiên cứu khoa học, chưa sử dụng hết năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học trong công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao kỹ thuật.
Công tác thông tin tuyên truyền cho các thành tựu mới trong nghiên cứu khoa học chưa được quan tâm đúng mức .
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác chuyển giao kỹ thuật, chưa nắm bắt được các nhu cầu cấp thiết của nông dân trong quá trình sản xuất .
Các hình thức chuyển giao kỹ thuật không đa dạng, phong phú và chưa thực sự gần gũi với đối tượng nhận chuỷên giao (nông dân), do vậy công tác chuyển giao chưa đạt hiệu quả cao.
Các hoạt động khuyến nông tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực năng động: chăn nuôi, cây công nghiệp, thuỷ sản; không tương xứng với tỷ trọng tương ứng của các lĩnh vực trong GDP nông nghiệp. Khuyến nông thúc đẩy việc tiếp thị nông sản chưa được quan tâm...
Mặt khác, do địa bàn chuyển giao là vùng đồi núi cao, dốc đứng, trình độ dân trí thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội kém phát triển. Mạng lưới khuyến nông cồng kềnh, các cơ quan làm nhiệm vụ tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở cơ sở rất thiếu và yếu. Nội dung chuyển giao dàn trải không đồng bộ, chích sách đãi ngộ đối với cán bộ chuyển giao còn thấp,đặc biệt là đối với các chuyên gia nông nghiệp phải làm việc xa thành phố,xa các trung tâm văn hoá - khoa học kỹ thuật và với một môi trường hết sức khó khăn song đãi ngộ không hơn gì người thành phố nên họ chưa an tâm và nhiệt tình công tác. Nhiều chương trình chuyển giao bị chồng chéo mà thiếu sự lồng ghép và phối hợp. Việc chuyển giao vẫn còn mang tính áp đặt ,xin cho, thiếu sự quy hoạch và lập kế hoạch, đôi khi chưa phù hợp với nhu cầu của dân. Nhiều mô hình đòi hỏi đầu tư lớn ,nên những hộ nghèo rất khó tham gia .Một số dự án, nhất là của các tổ chức phi chính phủ được triển khai theo nguyên tắc cứng nhắc, do vậy tính nhân rộng và hiệu quả không cao. Các mô hình tư nhân chuyển giao thì người làm công tác chuyển giao thường là người làm kinh doanh tư nhân, do đó họ thường đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu mà quên đi yếu tố gìn giữ môi trường...
Ngoài ra, còn chịu ảnh hưởng của cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm vẫn chưa được đổi mới một cách căn bản, mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đã xuất hiện từ rất sớm.
2.2.4.Nguyên nhân
Nguyên nhân từ phía nhà nước
Nguyên nhân của sự yếu kém về khoa học công nghệ trong nông nghiệp nông thôn là do các cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền chưa thực sự coi phát triển khoa học công nghệ là quốc sánh hàng đầu. Chính sách kinh tế chưa thực sự tạo điều kiện và khuyến khích phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là chính sách đầu tư, tín dụng, thuế, xuất nhập khẩu. Đầu tư tài chính của nhà nước cho hoạt động khoa học - công nghệ còn quá thấp, nhất là đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Mức chi cho nghiên cứu nông nghiệp của Việt Nam vào năm 1980 chỉ bằng 1/31 các nước công nghiệp và bằng 1/12 các nước khu vực Thái Bình Dương, và bằng 1/8 các nước Đông Nam á. Riêng chỉ cho công tác triển khai (khuyến nông trực tiếp )chỉ bằng 1/29 so với các nước Đông Nam á. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới (WB) thì Việt Nam chi cho nghiên cứu đối với một cán bộ một năm là 2200 USD; trong khi đó ở Thái Lan là 25000USD; Indonesia là 22900USD và Malaysia là 89600USD.
Hiện nay nước ta có 32 viện nghiên cứu trực thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các viện nghiên cứu tập trung chủ yếu ở một số thành phố lớn: 22 viện nằm ở Hà Nội ,ba ở thành phố Hồ Chí Minh và bảy ở một số thành phố khác. Việc tập trung quá cao các cơ sở nghiên cứu ở thành phố lớn có nhiều bất lợi khi thực hiện các chương trình phát triển nông thôn ở những vùng sinh thái khác nhau, đặc biệt là trong việc nắm bắt cơ hội, khó khăn của nông dân ở các vùng này và cách giải quyết các vấn đề liên quan đói nghèo, sự bền vững của môi trường. Bên cạnh đó, chi tiêu của nhà nước cho các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2002 chỉ chiếm khoảng 0,14%GDP thấp hơn nhiều so với các nước như Trung Quốc 0,43%,Thái Lan 1,4%... Trong khi đó hơn một nửa chi nghiên cứu nông nghiệp được dùng để trả tiền lương và các chi phí khác, phần chi cho nghiên cứu nông nghiệp chỉ chiếm 1/3 tổng ngân sách nghiên cứu nông nghiệp. Ngoài ra còn do các nguyên nhân về tổ chức và quản lý khoa học công nghệ chưa thật sự đổi mới theo hướng kết hợp chặt chẽ các chương trình khoa học công nghệ với chương trình kinh tế - xã hội, quản lý khoa học công nghệ nặng nề về mặt hành chính. Với những chính sách như vậy đã không tạo điều kiện cho các nhà khoa học hăng say nghiên cứu .
Nguyên nhân về phía các nhà khoa học
Trình độ khoa học công nghệ nước ta còn thấp ;còn thiếu nhiều cán bộ có kinh nghiệm có năng lực, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác nghiên cứu còn thiếu thốn và lạc hậu. Những năm gần đây Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi đối với những người làm công tác khoa học song cũng chưa thoả đáng. Năng suất, chất lượng nông sản thấp, giá thành nông sản cao, nhiều loại nông sản chưa đáp ứng thị hiếu tiêu dùng trong nước cũng như trên thế giới là do công nghệ về giống, chế biến, bảo quản nông sản chưa theo kịp nhu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá xuất khẩu .Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào cây lương thực và giống trong chăn nuôi, ít chú trọng tới hoạt động nghiên cứu sau thu hoạch ,bảo vệ cây trồng vật nuôi. Vẫn còn tình trạng chuyển giao một chiều tức là các viện các trung tâm nghiên cứu, khảo sát... Qua kênh dẫn là mạng lưới khuyến nông hoặc các tổ chức chuyên ngành đến người tiếp nhận là hộ nông dân làm cho bị động và đưa vào những tiến bộ khoa học công nghệ mà nông dân chưa có nhu cầu .
Nguyên nhân về phía các hộ gia đình nông dân
Hiện nay, trình độ học vấn của lực lượng lao động ở khu vực nông thôn còn thấp 25%chưa tốt nghiệp tiểu học, số người tốt nghiệp PTTH chỉ chiếm11,1 %. Mặt khác ,hầu hết lao động nông thôn làm các công việc trồng trọt, chăn nuôi không qua trường lớp mà theo kiểu "cha truyền con nối" theo kinh ngiệm là chính. Vì vậy năng suất lao động trong nông nghiệp ở nước ta thấp, dẫn tới thu nhập thấp (Chỉ bằng 37% thu nhập của lao động khu vực thành thị ). Thực tế đó ảnh hưởng tới khả năng tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật của nông dân .
Cũng do trình độ văn hoá, khoa học -kỹ thuật của nông dân thấp, lại thiếu vốn. Các hợp tác xã theo mô hình cũ tan rã, hợp tác xã kiểu mới chưa ra đời nên việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào phục vụ cho hộ nông dân gặp nhiều khó khăn. Từng hộ nông dân không thể tự mình nghiên cứu áp dụng một cách có hiệu quả các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất được .
Mặt khác, do thiếu hiểu biết và chạy theo lợi nhuận trước mắt trong nhiều năm qua ở nhiều vùng sản xuất một số nông dân đã không sử dụng hợp lý các loại phân bón, thuốc trừ sâu gây ô nhiễm môi trường mất cân bằng sinh thái, gây độc hại đến người sản xuất và tiêu dùng .
Chương III
Giải PHáP
3.1 quan điểm về phát triển khoa học công nghệ và định hướng
Quan điểm về phát triển khoa học trong nông thôn
Trong những năm tới nên tổ chức các cơ sở nghiên cứu theo các vùng sinh thái, gắn với địa bàn từng vùng; xây dựng và phát triển mối liên kết giữa hệ thống nghiên cứu các trường đại học nông nghiệp tại Hà Nội, Thái Nguyên, Nông -Lâm Huế, Thủ Đức, Cần Thơ... Trong nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các mục tiêu và định hướng của ngành, tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ và tài trợ cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ vào phát triển nông nghiệp, tăng cường đầu tư kinh phí của nông nghiệp vào phát triển nông nghiệp, tăng cường đầu tư kinh phí của nông nghiệp cho nghiên cứu từ mức 0,14%(năm2002) lên 0,15 % năm 2005 (bằng mức trung bình của các nước Châu á năm 1998) và duy trì mức đó trong giai đoạn 2006-2010
Định hướng
Đẩy nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và thu nhập trên một đơn vị diện tích năng suất lao động nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thế giới .
Chú trọng điện khí hoá,cơ giới hoá ở nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí hoá phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và dịch vụ; liên kết nông nghiệp - công nghệ-dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nứơc .
Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng cấp chất lượng.Bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống .Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hoá và ngô làm thức ăn chăn nuôi ;tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để sản xuất lương thực có hiệu quả . Có chính sách bảo đảm lợi ích của người sản xuất lương thực .
Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các vùng cây trồng công nghiệp như cà phê, cao su, chè, điều, hạt tiêu, dừa, dâu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá...hình thành các vùng rau quả, hoa có giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến .
Phát triển nâng cao chất lượng ,hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng phương pháp nuôi công nghiệp gắn với chế biến sản phẩm tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi nông nghiệp .
Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng và sử dụng giống cây, con có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hoá chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
Xây dựng các vùng sản xuất hành hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu,đất đai và lao động của từng vùng từng địa phương; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ hình thành sự liên kết nông-công nghiệp-dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn .
Tích cực khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở những nơi còn đất hoang hoá chưa được sử dụng; giảm nhẹ tác động của thiên tai với sản xuất.
Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh, tăng năng suất và tăng nhanh lúa đặc sản, chất lượng cao, sản lượng lương thực có hạt năm 2005 dự kiến 37 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Tập trung phát triển các giống cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh như cao su, cà phê, chè, điều... Ngoài ra cần đặc biệt chú trọng phát triển các loại rau quả và các sản phẩm đặc trưng khác.
Phát triển chăn nuôi dự kiến năm 2005, sản lượng thịt hơi các loại khoảng 2,5 triệu tấn. Hướng chính là tổ chức lại sản xuất, khuyến khích phát triển tiến bộ hoặc nông trại chăn nuôi quy mô lớn; đầu tư cải tạo đàn giống, tăng cường công tác thú y; chế biến thịt sữa tìm kiếm thị trường xuất khẩu .
Phát triển mạng lưới thuỷ lợi, đảm bảo cải tạo đất, thâm canh, tăng vụ và khai thác các vùng đất mới. Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển và các công trình ngăn mặn, thuỷ lợi cho nuôi, trồng thuỷ sản ở đồng bằng sông Cửu Long. Kiên cố hoá các tuyến đê xung yếu; tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương. Phấn đấu năm 2005 đưa năng lực tưới tiêu lên 6,5 triệu ha gieo trồng và 1,5 triệu ha rau mầu cây công nghiệp (tăng 60 vạn ha).
. Giải pháp.
Giải pháp từ phía nhà nước.
Để kinh tế hộ có thể đứng vững trên "đôi chân" của mình phát triển hàng hoá theo cơ chế thị trường. Trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp thì mấu chốt là phải lựa chọn, xác định lĩnh vực ưu tiên (giống, công nghệ, đào tạo nâng cao trình độ cho nông dân, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thuỷ lợi, công nghiệp chế biến ...) và xây dựng một hệ thống những chính sách giải pháp vĩ mô hữu hiệu .
Để tăng cường chất lượng của công tác nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến nông dân cần phải :
Sắp xếp lại hệ thống nghiên cứu đáp ứng nhu cầu phát triển của từng vùng, phân công hợp lý chức năng, nhiệm vụ, tránh tình trạng phân tán chồng chéo như tập trung mật độ quá cao các cơ sở nghiên cứu ở một số thành phố lớn, các cán bộ khoa học đào tạo ra không muốn về nông thôn... Để thực hiện được điều này nhà nước cần phải có những chính sách đãi ngộ đối với những cán bộ khoa học, tạo điều kiện và kích thích các nhà khoa học hăng say nghiên cứu và đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Đặc biệt là cần một chế độ đãi ngộ thoả đáng cho những người làm việc ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, ở những vùng núi cao và hải đảo như trả lương theo đóng góp, trả phụ cấp cao, có chế độ khen thưởng và chế độ nghĩa vụ cho các cán bộ công tác ở nông thôn, trợ cấp cho các doanh nghiệp sử dụng cán bộ kỹ thuật... Mặt khác, phải tạo điều kiện trang thiết bị làm việc cho cán bộ khoa học. Cho phép các cơ sở nghiên cứu được phép sản xuất kinh doanh các mặt hàng do mình sản xuất ra. Cần có chính sách giảm thuế trong thời gian đầu .
Bên cạnh việc sắp xếp lại hệ thống nghiên cứu cần tăng cường năng lực để các viện nghiên cứu gắn bó với các trường đại học và hệ thống khuyến nông. Trong giai đoạn đầu, tập trung tiếp thu và áp dụng trình độ tiên tiến trên thế giới vào ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh của Việt Nam. Gắn nghiên cứu với chuyển giao và hỗ trợ áp dụng, ưu tiên đầu tư cho các công nghệ phục vụ trực tiếp cho khả năng cạnh tranh của nông sản (công nghệ sơ chế nông sản, các tiến bộ về giống và về cây ăn quả, công nghệ giống ưu thế lai...). Trong thời gian dài hạn, phát huy thế mạnh của nông nghiệp và của cán bộ nghiên cứu Việt Nam, hình thành một số công trình cơ bản, tập trung vào công nghệ sinh học, tin học và cơ giới hoá.
Mức đầu tư vào nghiên cứu và áp dụng khoa học phải tương xứng với mức đóng góp quan trọng của ngành nông nghiệp. Kinh phí đào tạo các cán bộ khoa học và kỹ thuật phải tăng. Hình thành một số khu công nghệ cao về khoa học công nghệ nông nghiệp cho các vùng sinh thái chính, tạo nên các trung tâm đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho nông thôn, phải xác định một tỷ trọng đáng kể cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và áp dụng công nghệ.
Tăng chi cho nghiên cứu về nông nghiệp, đặc biệt là các viện nghiên cứu giống; cùng với việc tăng chi cho nghiên cứu khuyến nông phải đi kèm với những cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khuyến nông với sự tham gia của nông dân và đại diện của giới công nghiệp chế biến nông sản trong việc quản lý các dịch vụ này. Khi mở rộng các hoạt động khuyến nông cần ưu tiên trước nhất đối với các xã nghèo nhất. Nghiên cứu các giải pháp cụ thể để tăng chi phí cho nghiên cứu,khuyến nông và tăng chi như thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất là một vấn đề cần cân nhắc, xem xét nhằm đảm bảo: một nghành nông nghiệp phát triển theo một cơ cấu kinh tế ngành hợp lý-khoa học nông nghiệp là một nền móng cho một nền nông nghiệp phát triển ổn định.
Cần tiếp tục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhà khoa học nghiên cứu nông nghiệp có trình độ cao tương đương với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để làm được điều đó cần đa dạng hoá phương thức đào tạo, Nhà nước cần dành một khoản đầu tư thoả đáng vào việc đào tạo đội ngũ chuyên gia nông nghiệp, nâng cấp các cơ sở đào tạo chuyên gia cho nông nghiệp; Tổ chức lại hệ trống khuyến nông và cán bộ khuyến nông, tăng số cán bộ nghiên cứu-kỹ sư nông nghiệp trên số hộ nông dân.
Đổi mới quản lý khoa học, gắn khoa học kỹ thuật với sản xuất và đời sống nông dân thông qua hình thức ký kết hợp đồng nghiên cứu, ứng dụng và triển khai thông qua các dự án, các chương trình tổng hợp.
Nhà nước cần đổi mới hoàn thiện tổ chức hoạt động khoa học công nghệ từ nghiên cứu đến triển khai, rút ngắn khoảng cách từ khâu nghiên cứu đến triển khai ứng dụng vào thực tế. Cần có cơ chế gắn các viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ vào trường đại học với các hoạt động sản xuất của các hộ gia đình theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa khoa học và sản xuất.
Với nhứng giải pháp trên, khi thực hiện sẽ khuyến khích các nhà khoa học nghiên cứu phục vụ nông dân. Đây mới chỉ là những biện pháp từ phía nhà nước đối với các nhà khoa học. Mặt khác, để nông dân có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ nhà nước cần phải có những giải pháp cơ bản sau:
Khuyến khích các đơn vị nghiên cứu và các nhà khoa học hợp đồng với nông dân tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi.
Cần chú trọng công tác thông tin và bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ cho các hộ gia đình. Đặc biệt chú trọng tập trung công tác khuyến nông đối với các hộ nông dân, cần tổ chức các câu lạc bộ khuyến nông.
Tìm mọi hình thức, biện pháp để nâng cao năng lực tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ. Để khoa học công nghệ góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn cần phải có dự án nâng cao năng lực cho người dân. Trước khi đưa vốn phải dạy nghề, dạy cách làm ăn cho nông dân. Bằng biện pháp khuyến nông, khuyến khích nông dân tích cực học nghề, học phương pháp và cách thức quản lý sản xuất, quản lý sử dụng vốn sao cho có hiệu quả .Tăng cường cung cấp thông tin, đặc biệt là thông tin về thị trường cho nông dân, qua đó nâng dần khả năng tiếp thị các sản phẩm của họ. Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nông dân trong việc đào tạo hướng dẫn kỹ thuật mới như mở lớp bồi dưỡng kiến thức về khoa học - kỹ thuật, cung cấp tài liệu, trợ giúp vật tư, tuyên truyền hướng dẫn kỹ thuật mới thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Tóm lại, Nhà nước phải có những quy định bằng văn bản để tạo cơ sở pháp lý triển khai khoa học công nghệ vào nông thôn và cùng với nó phải cử những cán bộ có tâm huyết với nông dân về công tác tại nông thôn từ 1-2 năm để giúp nông dân triển khai các chương trình dự án, sau đó giao lại cho địa phương quản lý .
3.2.2 Về phía nhà khoa học ,viện nghiên cứu
Xây dựng các mô hình liên kết sao cho nó có hiệu quả nhất và thông qua các hình thức như hợp đồng chuyển giao công nghệ, nghiên cứu chuyển giao...
Mô hình tăng cường khả năng sản xuất lương thực, thực phẩm tại chỗ trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng vật nuôi, các biện pháp chăm sóc và bảo vệ tiến bộ: những mô hình thuộc loại này đã chứng minh được diện tích canh tác không tăng, vốn đầu tư không vượt quá khả năng kinh tế của hộ gia đình nông dân song lợi ích mang lại lớn rất nhiều so với tập quán làm ăn lâu nay.
Để tăng hiệu quả của khâu chuyển giao cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ và chuyển giao, sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nghiên cứu và hệ thống khuyến nông. Đặc biệt không thể thiếu sự lựa chọn những công nghệ tiến bộ kỹ thuật đáp ứng nhu cầu thực tế sản xuất theo nhu cầu của nông dân và của thị trường khi tiến hành hoạt động chuyển giao. Mặt khác các chương trình chuyển giao phải phù hợp với điều kiện kinh tế, tập quán của từng địa phương, công nghệ chuyển giao đơn giản, dễ hiểu dễ áp dụng, có phương thức chuyển giao phù hợp. Xây dựng và xây dựng mô hình trình diễn. Việc chuyển giao công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật phải là một hệ thống tổng hợp gắn với tập quán, chính sách, dịch vụ ,phù hợp với thị trường ...
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức để chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào phục vụ cho hộ gia đình nông dân .
Tập trung đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ cho sản xuất, coi đó là khâu đột phá quan trọng nhất để tăng năng suất hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích; trong đó chú trọng ưu tiên đầu tư tập trung cho công nghệ sinh học, chương trình giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ bảo quản sau thu hoạch và công nghệ chế biến nông sản. Đồng thời chú trọng đầu tư và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống khuyến nông để thực hiện chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ trực tiếp cho hộ nông dân. Phải gắn sản xuất với chế biến ngay từ khâu sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở yêu cầu của thị trường; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, hướng dẫn nông dân lựa chọn sản phẩm để sản xuất và phát triển công nghệ chế biến phù hợp.
Các cán bộ khoa học hướng dẫn nông dân ứng dụng công nghệ sinh học và khâu bảo quản sau thu hoạch, nhất là việc sử dụng các chế phẩm trong chế biến và bảo quản các loại quả trong thời gian chờ tiêu thụ nhằm đảm bảo chất lượng hàng hoá, nâng cao gía trị sử dụng và đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Tổ chức mạng lưới khuyến nông rộng khắp trên các địa bàn nông thôn. Mạng lưới khuyến nông có nhiệm vụ đưa đến từng hộ gia đình những tiến bộ khoa học công nghệ mà họ có nhu cầu, phổ biến kỹ thuật mới, tập huấn, làm thử để nông dân làm theo. Thông qua hoạt động thực tiễn mạng lưới khuyến nông sẽ nắm bắt được nhu cầu của nông dân, từ đó đặt hàng cho các cơ sở nghiên cứu, sản xuất, thử nghiệm các tiến bộ khoa học công nghệ .
Đi đôi với việc tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân thông qua các hợp đồng chuyển giao công nghệ, cần phải đầu tư xây dựng một số cơ sở nghiên cứu, tuyển chọn giống cây, con mới cho năng xuất và hiệu quả cao, thích ứng với từng vùng. Cụ thể: Tập trung cho các công tác giống cây trồng, vật nuôi, triển khai chương trình công nghệ sinh học nhằm tạo ra sự đột phá về năng suất ,chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới .Tuy nhiên do khả năng đầu tư có hạn nên cần có sự lựa chọn khâu cốt yếu để ưu tiên, đó là:
- Tạo ra các giống lúa, ngô và các giống cây trồng khác có năng suất cao chất lượng tốt phù hợp với thị trường thế giới và nội địa trên cơ sở phát huy ưu thế lai. Đầu tư cho nghiên cứu tạo giống mới không chỉ là kỹ thuật lai tạo, chọn lọc, thuần chủng mà tiến tới tạo giống bằng những công nghệ tiên tiến như nghiên cứu công nghệ tế bào, công nghệ gen, phương pháp gây đột biến.. .
- Tạo giống cây ăn quả có năng suất và chất lượng cao phù hợp với từng vùng sinh thái, góp phần đổi mới cơ cấu ngành trồng trọt.
- Cải tạo đàn bò Việt Nam theo hướng chăn nuôi lấy thịt, sữa có năng suất cao.
- Nạc hoá đàn lợn trong chăn nuôi xuất khẩu .
- Nghiên cứu áp dụng các biện pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp, giảm bớt việc dùng hoá chất để bảo vệ môi sinh...
- ứng dụng mạnh mẽ một số công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp như áp dụng phương pháp canh tác và nuôi trồng sạch bệnh. ứng dụng thuốc trừ sâu sinh học ,phân bón sinh học chất lượng cao, sạch côn trùng và ký sinh trùng đối với sản phẩm nông nghiệp .
- Xây dựng mô hình nhân giống cây ăn quả, cây có múi sạnh bệnh, mô hình chăn nuôi công nghệ cao an toàn dịch bệnh, mô hình sản xuất lúa chất lượng cao.
- Nghiên cứu ứng dụng nhanh những tiến bộ của công nghệ sinh học trên thế giới phục vụ công tác chọn ,tạo ,nhân nhanh giống mới phục vụ sản xuất, đặc biệt là nhân nhanh các giống mía, dứa, cây ăn quả .
Quan tâm đầu tư cho việc nghiên cứu công nghệ chế biến ,bảo quản phù hợp với điều kiện Việt Nam (khí hậu, thời tiết và các loại nông sản ). Tiêu chuẩn của công nghệ chế biến, bảo quản là chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, nhất là xuất khẩu. Trong nghiên cứu công nghệ chế biến, bảo quản không chỉ chú trọng công nghệ hiện đại, quy mô lớn, tập trung mà còn phải nghiên cứu công nghệ chế biến bảo quản ở quy mô gia đình nhất là sơ chế: phơi, sấy lúa, ngô, chè...
Đầu tư, nghiên cứu sản xuất các loại máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp để nâng cao trình độ cơ giới hoá nông nghiệp. Nghiên cứu máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp phải phù hợp điều kiện sản xuất từng vùng (đất đai, địa hình cây trồng, vật nuôi) cũng như nhu cầu của người sản xuất (chủ yếu là nông dân ) đảm bảo hiệu quả sử dụng cao, phù hợp với khả năng sử dụng và mua sắm của họ.
Cùng với quá trình đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ cần quan tâm đưa các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp nhất là vào các hộ gia đình nông dân .
Muốn đưa các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp phải có hệ thống tổ chức để chuyển giao công nghệ. Hệ thống tổ chức để chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông nghiệp bao gồm các tổ chức của Nhà nước theo từng chuyên nghành (giống, bảo vệ thực vật, thú y..) và các tổ chức phi Nhà nước (các hiệp hội nông nghiệp; các tổ chức xã hội ..) hoặc thông qua các công ty theo ngành (chè, cà phê, mía ,đường..) hoặc có thể thông qua các hợp tác xã dịch vụ, các nông trường quốc doanh...Về nguyên tắc, hệ thống chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phải có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương (thôn, xã), phải kiểm sóat được các tiến bộ khoa học và công nghệ đưa vào sản xuất. Các tổ chức chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ phải chịu trách nhiệm đến kết quả cuối cùng của sản xuất nông nghiệp trong từng hộ gia đình .
Về phía Nhà nước phải kiểm tra, giám sát được các tiến bộ khoa học và công nghệ đưa vào sản xuất để tránh tình trạng đưa công nghệ lạc hậu, công nghệ kém chất lượng vào nông nghiệp và xử lý nghiêm minh các trường hợp gian dối trong quá trình chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ nông nghiệp nông thôn .
3.2.3. Về phía hộ gia đình nông dân
Để có thể tiếp thu được những tiến bộ khoa học và công nghệ, người nông dân phải nâng cao trình dộ dân trí thông qua chương trình phổ cập giáo dục do Nhà nước đề ra.
Phổ cập giáo dục phổ thông cho học sinh nông thôn nhất là các vùng khó khăn, miền núi. Xoá mù chữ cho mọi người. Tổ chức các chương trình giáo dục chuyên ngành ,khuyến nông cho nông dân bằng các kênh truyền hình, truyền thanh, internet cho mọi người có nhu cầu. Cấp học bổng cho con em nông dân đi học ở các trường kỹ thuật và khuyến khích họ trở về công tác ở nông thôn. Mở trường dạy nghề ở địa phương khuyến khích các hình thức hợp tác, tổ chức cộng đồng của nông dân các loại tổ chức khuyến nông tự nguyện để chuyển giao và tổ chức tập huấn kỹ thuật cho nông dân.
Chuyển sang sản xuất hàng hoá hộ nông dân có nhu cầu thực sự trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để có khả năng sản xuất ra những nông sản có khả năng cạnh tranh trên thị trường, cho nên mỗi người nông dân cần phải nâng cao trình độ để có thể tiếp nhận những tiến bộ khoa học công nghệ một cách chủ động, tiếp thu những kỹ thuật mới đồng thời người nông dân cần phải tham gia vào các hiệp hội nghề nghiệp (hội nông dân ); người nông dân phải tự trang bị cho mình những kiến thức sản xuất trực tiếp trên đồng ruộng như kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ thực vật; những kiến thức về sửa chữa, bảo quản máy móc kỹ thuật, bảo quản chế biến nông sản, kỹ năng dịch vụ... để tiếp thu nhanh những phương thức, kỹ thuật chuyển giao khoa học công nghệ .
Nhà nông với sự hỗ trợ của của nhà nước, khoa học, phải tự chuyển thành người lao động có trình độ khoa học kỹ thuật, có kiến thức thị trường, có khả năng quản lý và nhất là phải có tinh thần cộng đồng cao.
Kết luận
Liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân là một tất yếu khách quan và là xu thế của thời đại. Người nông dân muốn sản phẩm của mình có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế đòi hỏi phải liên kết với các nhà khoa học để có giống tốt, kỹ thuật nuôi trồng... Quan hệ liên kết này đã đóng góp vào những thành tựu vượt bậc của nền nông nghiệp nước ta trong những năm qua: sản lượng lương thực liên tục tăng, sản phẩm làm ra không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu như gạo, cà phê, chè, cao su, hồ tiêu...
Bên cạnh những kết quả đã đạt được còn có một số hạn chế như: quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất chưa thực sự gắn kết chặt chẽ, có khoảng cách lớn, đôi khi còn quay lưng lại với nhau; nhiều kết quả của nghiên cứu khoa học chưa được áp dụng vào thực tiễn hoặc có những nghiên cứu khoa học khi được áp dụng vào lại không mang lại hiệu quả... Do Nhà nước chưa có những chính sách tạo điều kiện cho nhà khoa học hăng say nghiên cứu để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt. Mặt khác, nghiên cứu chưa gắn với nhu cầu của nông dân khiến họ bị động trong tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ ... Từ đó đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ từ phía Nhà nước ( Trung ương, địa phương ), của các ngành cũng như bản thân từng hộ để tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân.
Tài liệu tham khảo
1.Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn
……..NXB Thống Kê - 2002
……..Tác giả :Đặng Kim sơn – Hoàng Thu Hiền
2.Đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân phát triển kinh tế hộ gia đình
……..NXB Khoa học Xã hội
……..Tác giả : Nguyễn Hữu Đạt 3. Liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
……..NXB Khoa học xã hội
……..Tác giả : Dương Bá Phượng
Kinh tế nông nghiệp
……..NXB Tài Chính
……..Tác giả: Nguyễn Đình Hợi
5.Kinh tế các ngành sản xuất kinh doanh
……..NXB Tài Chính
……..Tác giả : Nguyễn Đình Hợi
6. Phân tích chính sách nông nghiệp nông thôn
……..NXB Nông nghiệp - 1996
7. Đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn
……..NXB Nông nghiệp
8. Văn kiện Đại hội Đảng IX
Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn : Số 1/2003;
Số 3/2003; Số 4/2003; Số 5/2003 ; Số 8/2003; Số 9/2003
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế Số 303 (tháng 8/2003)
Tạp chí Cộng sản: Số 2 (tháng 1 – 1999); Số 3 (Tháng 2 –1999);
Số 6 (Tháng 3 – 2000)
Báo Đầu tư Số 100 (Ra ngày 20/8/2003)
Báo Đại đoàn kết Số 34 (Ra ngày 29/4/2003)
Báo Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Ra ngày 26/3/2003)
Báo Nhân dân : Ra ngày 19/5/2003 ; 30/9/2003
Báo Nông nghiệp Số 1+2 (Ra ngày 1/1/2003)
Báo Nghiên cứu Tài chính – Kinh tế Số 57
Nghiên cứu khoa học Sinh viên Số 3 (20)
Tập san Khoa học kinh tế nông lâm nghiệp Số tháng 11/1999
(Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh)
- Báo điện tử:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA304.doc