Tài liệu Tiểu luận Rau trái trái vụ: Đại Học Quốc Gia TP HCM
Trường ĐH Bách Khoa
Khoa Kỹ Thuật Hóa Học
Bộ môn CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
TIỂU LUẬN MÔN CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN RAU QUẢ
GVHD : ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Sinh viên thực hiện :
Võ Ngọc Cẩm ( 60600178 )
Lê Bảo Hoàng Long ( 60601299 )
Nguyễn Thái Sơn (60602044)
Phan Trung Thành (60602229)
Tháng 1/2010
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 2
LỜI CẢM ƠN
Chúng em chân thành cảm ơn ThS.Tôn Nữ Minh Nguyệt đã hướng dẫn,
chỉ bảo chúng em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Chúng em cũng xin chân thành cảm ơn thư viện bộ môn Công nghệ Thực
Phẩm, thư viện khoa Kỹ Thuật Hóa Học, thư viện trường ĐHBK TP HCM đã nhiệt
tình giúp đỡ về tài liệu cho đề tài này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các bạn sinh viên lớp HC06TP đã nhiệt
tình giúp đỡ về tài liệu cũng như đóng góp nhiều ý kiến bổ ích cho sự hoàn thiện
của đề tài.
Xin chân thành cảm ơn.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 3
MỤC LỤC
Phần I :...
66 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Rau trái trái vụ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại Học Quốc Gia TP HCM
Trường ĐH Bách Khoa
Khoa Kỹ Thuật Hóa Học
Bộ môn CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
TIỂU LUẬN MÔN CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN RAU QUẢ
GVHD : ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Sinh viên thực hiện :
Võ Ngọc Cẩm ( 60600178 )
Lê Bảo Hoàng Long ( 60601299 )
Nguyễn Thái Sơn (60602044)
Phan Trung Thành (60602229)
Tháng 1/2010
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 2
LỜI CẢM ƠN
Chúng em chân thành cảm ơn ThS.Tôn Nữ Minh Nguyệt đã hướng dẫn,
chỉ bảo chúng em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Chúng em cũng xin chân thành cảm ơn thư viện bộ môn Công nghệ Thực
Phẩm, thư viện khoa Kỹ Thuật Hóa Học, thư viện trường ĐHBK TP HCM đã nhiệt
tình giúp đỡ về tài liệu cho đề tài này.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các bạn sinh viên lớp HC06TP đã nhiệt
tình giúp đỡ về tài liệu cũng như đóng góp nhiều ý kiến bổ ích cho sự hoàn thiện
của đề tài.
Xin chân thành cảm ơn.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 3
MỤC LỤC
Phần I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết sản xuất rau trái trái vụ 8
2. Ý nghĩa sản xuất rau trái trái vụ 9
3. Rau trái - nguồn dinh dưỡng quý giá 13
4. Kết luận 14
Phần II : TỔNG QUAN VỀ RAU TRÁI TRÁI VỤ
1. Khái niệm 15
2. Tình hình sản xuất rau trái trái vụ ở nước ta 15
3. Các loại trái cây trái vụ ở nước ta 16
4. Các loại rau củ trái vụ ở nước ta 21
Phần III: CHẤT LƯỢNG RAU TRÁI TRÁI VỤ
1. Dinh dưỡng trong rau trái trái vụ 24
2. Các yếu tố ảnh hưởng đên chất lượng của rau trái trái vụ 26
Phần IV : KỸ THUẬT SẢN XUẤT RAU TRÁI TRÁI VỤ
1. Nguyên tắc sản xuất rau trái trái vụ 29
2. Kỹ thuật sản xuất rau trái trái vụ 35
Phần V : HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỚI
1. Hướng phát triển mới 62
2. Kết luận chung 63
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 4
DANH SÁCH BẢNG
Bảng Tên Trang
1 Diện tích và sản lượng rau trái của Việt Nam 12
2 Các vùng chuyên canh rau trái 16
3 Thành phần hóa học của thanh long 19
4 Thành phần dinh dưỡng trong 100g sầu riêng ăn được 20
5 Quy trình xử lý cây bưởi ra hoa mùa nghịch 40
6 So sánh sản phẩm bưởi chính vụ và trái vụ 42
7 So sánh sản phẩm chôm chôm trái vụ và chính vụ 51
8 Quá trình phát triển từ khi xử lý đến khi kết thúc quá trình
nở hoa của 4 giống xoài Nam Dok Mail, cát Hòa Lộc, thơm
và Thanh Ca
57
9 So sánh sản phẩm xoài chính vụ và trái vụ 59
10 So sánh sản phẩm thanh long chính vụ và trái vụ 61
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 5
DANH SÁCH HÌNH
Hình Tên Trang
1 Xu hướng sử dụng thực phẩm ở Việt Nam 10
2 Diện tích cây ăn quả 12
3 Quả bưởi 17
4 Quả thanh long 18
5 Quả sầu riêng 19
6 Sơ đồ tổng quát các cách chế biến rau gia vị 22
7 Hàm lượng vitamin C trong rau spinach và cà chua thay đổi
theo từng thời điểm trong năm
25
8 Xới gốc – bón phân cho cây bưởi trước khi xiết nước và phun
Paclobutrazol kích thích bưởi ra hoa
30
9 Kích thích xoài ra hoa bằng khấc thân 32
10 Kích thích nhãn ra hoa bằng khấc thân 32
11 Công thức hóa học của Paclobutrazol 33
12 Hoa bưởi 5 roi 36
13 Quy trình xử lý bưởi ra hoa mùa nghịch để có thể thu hoạch
vào dịp tết nguyên đán
39
14 Kích thích bưởi da xanh ra hoa bằng cách chặt cành lá “nhện” –
bên trong tán của nông dân huyện Chợ Lách – Bến Tre
39
15 Xới gốc bón phân trước khi kích thích bưởi ra hoa 39
16 Chồi ngọn bưởi 5 roi ở giai đoạn 30 ngày sau khi xử lý PBZ 40
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 6
17 Trái bưởi 5 roi phát triển từ những cành trong tán 40
18 Phát hoa chôm chôm 44
19 Kích thích chôm chôm ra hoa bằng sứa thân tại huyện Cầu Kè
– Trà Vinh
46
20 Kích thích chôm chôm ra hoa mặt cách phủ mặt liếp bằng
màng phủ plastic kết hợp với xiết nước trong mương – vườn tại
Tiền Giang
46
21 Công thức hóa học của ethephon 48
22 Trái chôm chôm 48
23 Hoa xoài cát Hòa Lộc 52
24 Xoài ra hoa đậu trái ở chồi tận cùng 53
25 Phát hoa xoài thanh ca 55
26 Quy trình xử lý ra hoa mùa nghịch xoài cát hòa lộc 58
27 Trồng rau bằng phương pháp khí canh 62
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 7
LỜI MỞ ĐẦU
Môn học Công nghệ chế biến rau trái là một trong các môn học chuyên đề
của ngành công nghệ thực phẩm. Nó cung cấp những kiến thức thực tiễn, cụ thể về
nguyên liệu, quy trình công nghệ chế biến một số các sản phẩm từ rau trái như: rau
trái chế biến tươi, nước trái cây, mứt trái cây, rau trái ngâm tẩm, tương, rau trái
sấy, rau trái lạnh đông, các sản phẩm chứa ethanol chế biến từ rau trái, các sản
phẩm lên men lactic từ rau trái...
Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến rau trái đang có những bước tiến rất
nhanh. Rau trái hiện đang là chọn lựa ưu tiên của hầu hết người dân. Một lý do đơn
giản là trong thành phần dinh dưỡng của rau trái, hàm lượng đường, xơ, vitamin và
muối khoáng rất cao. Đây là những thành phần dinh dưỡng quan trọng với sức
khỏe của con người.
Cùng với sự gia tăng của dân số, nhu cầu về rau trái ngày càng tăng. Sản
xuất rau trái chính vụ không đủ để cung cấp cho thị trường tiêu thụ trong nước và
xuất khẩu. Vấn đề tăng năng suất và sản lượng gặp nhiều khó khăn. Và sản xuất
rau trái trái vụ là một biện pháp được áp dụng để giải bài toán khó này.
Được sự hướng dẫn của ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt, nhóm chọn đề tài “Rau
trái trái vụ “. Đề tài được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu về giá trị chất lượng
của rau trái trái vụ và kỹ thuật sản xuất một vài loại rau trái trái vụ. Dù đã chuẩn bị
rất kỹ nhưng chắc sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Mong cô và các bạn
thông cảm.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 8
PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết để sản xuất rau quả trái vụ
Theo một thống kê gần đây của FAO, lượng rau trái tiêu thụ trung bình khoảng
400g/người/ngày. Như vậy, nếu quy đổi ra khối lượng tiêu thụ rau trái trên toàn thế giới,
đó là một con số rất lớn. Điều này cho thấy rằng, để đáp ứng đủ nhu cầu này, chúng ta
cần phải có kết hợp nhiều biện pháp khác nhau. Nếu được quy hoạch một cách hợp lý về
diện tích canh tác, vấn đề sản lượng xem như đã được giải quyết một cách dễ dàng. Tuy
nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ, hàng loạt những khu công
nghiệp được xây dựng mới thì việc mở rộng diện tích trồng trọt là một việc hết sức khó
khăn. Hiện nay, vấn đề này đang là một bài toán khó đối với hầu hết các quốc gia. Việt
Nam, một trong những quốc gia sản xuất rau trái lớn của khu vực và thế giới, hiện nay
cũng đang gặp phải những khó khăn nhất định về việc quy hoạch diện tích đất nông
nghiệp. Công nghiệp hóa nhanh, kéo theo đó là sự phát triển vượt bậc về dịch vụ, hàng
loạt diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Đây thật sự là một thách thức lớn cho nền nông
nghiệp của nước nhà.
Mặt khác, nguồn dinh dưỡng trong rau trái rất tốt cho sức khỏe của con người.
Rau trái cung cấp một lượng lớn glucid, vitamin, muối khoáng và một số các thành phần
khác mà khó có loại thực phẩm nào khác có thể so sánh được. Ăn nhiều rau quả sẽ giúp
hạn chế tới mức thấp nhất nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Ngoài ra chúng còn bảo vệ bạn
khỏi các căn bệnh ung thư, đường ruột, chống lại bệnh đục thuỷ tinh thế, và suy giảm thị
lực. Nếu cơ thể bạn luôn luôn được cung cấp đầy đủ dưỡng chất từ rau xanh và trái cây,
có thể ngăn ngừa được các căn bệnh nguy hiểm sau:
- Bệnh tim mạch: Hàng loạt các minh chứng đã cho thấy, rau, củ, quả có khả năng hạn
chế tới mức thấp nhất nguy cơ bị mắc các bệnh về tim mạch và nhất là chứng đột quỵ.
Một cuộc khảo cứu thực hiện đối với 110.000 người (bao gồm cả đàn ông và phụ nữ)
phối hợp giữa trung tâm nghiên cứu sức khoẻ và các giáo sư hàng đầu về lĩnh vực y khoa,
tại Hoa Kỳ đã cho thấy một kết quả hết sức khả quan. Họ đã có một chế độ ăn uống lành
mạnh, khoa học và tất nhiên rau xanh và trái cây là thành phần chủ đạo trong thực đơn
của họ. Ở những người này nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch giảm xuống rõ ràng.
- Chứng cao huyết áp và hàm lượng cholesterol: Một nghiên cứu mang tên DASH thực
hiện đối với những người có chế độ ăn nhiều rau và trái cây, ít chất béo. Kết quả cho thấy
người có tiền sử bị chứng huyết áp cao sau khi áp dụng chế độ ăn như trên, huyết áp tối
đa đã giảm 11 mm Hg và huyết áp tối thiểu giảm xuống 6 mm Hg. Mặt khác ăn nhiều rau
xanh và trái cây cũng giúp giảm hàm lượng cholesterol trong máu. Các chất xơ từ rau,
quả có tác dụng hạn chế lượng cholesterol gây hại cho sức khoẻ.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 9
- Các loại bệnh ung thư: Mới đây tổ chức nghiên cứu ung thư ( thuộc tổ chức sức khoẻ
thế giới WHO) đã hoàn thành báo cáo nghiên cứu về mối liên hệ giữa rau xanh và trái
cây với các căn bệnh ung thư. Điều bất ngờ là một chế độ ăn uống đầy đủ dưỡng chất từ
rau, củ, quả có thể bảo vệ bạn chống lại các căn bệnh ung thư như ung thư vòm họng,
trực tràng, thanh quản, da dày, phổi, buồng trứng, bàng quang và thận. Thêm vào đó, các
nhà nghiên cứu cũng đưa ra được bằng chứng, chứng minh cà chua đặc biệt có công hiệu
ngừa được bệnh ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới.
- Các bệnh về mắt: Để có một đôi mắt sáng, thị lực tốt cơ thể bạn cần được cung cấp đầy
đủ dưỡng chất từ rau và trái cây. Bởi chúng là nguồn cung cấp vitamin A dồi dào cho
mắt, ví như carot đem đến cho bạn hàm lượng vitamin A khá lớn, giúp sáng mắt. Đặc
biệt, rau quả còn ngăn ngừa được bệnh đục thuỷ tinh thể và suy giảm thị lực chủ yếu xuất
hiện ở những người trên 65 tuổi.
Theo kế hoạch, để đảm bảo sản lượng đủ cho nhu cầu trong nước và phục vụ cho
xuất khẩu, chính phủ đề ra kế hoạch sản xuất khoảng 9 triệu tấn trái và khoảng 11 triệu
tấn rau/ năm. Điều này có ý nghĩa rất lớn. Việc cung cấp đủ nhu cầu trong nước và đáp
ứng sản lượng xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Chúng ta sẽ tạo công ăn việc làm cho nhiều nhà vườn, giúp họ tiếp cận với những kỹ
thuật mới để nâng cao sản lượng. Có như vậy, nền nông nghiệp của chúng ta mới phát
triển.
Tất cả những vấn đề trên đây đã chứng minh một điều : việc gia tăng sản lượng
rau trái hiện nay đang là một vấn đề hết sức cần thiết. Để thực hiện mục đích này, chúng
ta cần phải có kế hoạch hợp lý. Trong đó, việc quy hoạch diện tích đất nông nghiệp phải
được chú trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, sản xuất rau trái trái vụ hiện nay cũng là một
trong những giải pháp hữu hiệu để thực hiện mục đích trên. Sản xuất trái vụ sẽ gia tăng
đáng kể về sản lượng, góp phần cung cấp đủ rau trái cho tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu.
2. Ý nghĩa của việc sản xuất rau trái trái vụ
2.1. Đem lại lợi kinh tế cho nông dân
Trong những năm gần đây, giá cả trái cây luôn gặp tình cảnh: lúc thu hoạch rộ thì
giá rất thấp nhưng khi hết vụ thì lại tăng đột biến. Đây chính là lý do lớn nhất thúc đẩy
nông dân sản xuất rau quả trái vụ
-Cây vú sữa: điều kiện bình thường cây vú sữa thường cho thu hoạch trái vào nửa cuối
tháng Chạp âm lịch cho đến hết tháng Giêng. Đây là thời điểm chính vụ nên giá vú sữa
rất rẻ, chỉ khoảng 12.000đồng/chục. Nhưng nếu thu hoạch trái vụ vào tháng 10 âm lịch,
lúc này không có vú sữa, giá bán rất cao, khoảng 60.000 đồng/chục, gấp 4 - 5 lần chính
vụ.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 10
-Cây cam sành: Trong điều kiện tự nhiên ở vùng Vĩnh Kim-Tiền Giang, cam sành thường
ra hoa rộ vào khoảng tháng 9 âm lịch. Vì chính vụ nên giá cũng rất rẻ, khoảng
4.000đồng/kg. Nếu áp dụng kỹ thuật phù hợp để thu hoạch trái mùa vào tháng 3 âm lịch
cây sẽ cho trái bán với giá khoảng 12.000 - 13.000 đồng/kg, gấp đôi lúc chính vụ
“ thống kê theo thời giá tháng 7/2007 ”
-Cây sầu riêng: sầu riêng thường trổ hoa vào tháng 11 – 12 âm lịch và cho thu hoạch rộ
vào tháng 5 – 6 năm sau, đây là mùa chính vụ. Thời điểm ra hoa thứ hai là vào tháng 6 –
7 âm lịch và cho thu hoạch vào tháng 1 – 2 sang năm, đây là mùa trái vụ. Thông thường
giá sầu riêng thu hoạch trong mùa nghịch có giá rất cao (25.000 – 30.000 đồng/kg), giá
có thể vọt lên đến 40.000 đồng/kg khi nhu cầu tăng nhưng vào mùa thuận thì rất rẻ,
khoảng 8.000 – 10.000 đồng/kg
“ thống kê theo thời giá tháng 3/2007 ”
Về phía rau thì thời vụ gieo trồng phù hợp nhất đối với hầu hết các loại rau là vụ thu
đông và vụ đông xuân nên người dân thường tập trung trồng vào 2 vụ này. Cũng chính vì
tập trung trồng nhiều mà giá rau trên thị trường không cao. Để nâng cao giá trị của cây
rau, một số nơi bà con nông dân đã tìm cách trồng rau trái vụ
2.2. Đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
2.2.1. Khảo sát
2.2.1.1. Nhu cầu tiêu dùng
Hình 1 : Xu hướng sử dụng thực phẩm ở Việt Nam
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 11
Về phía rau tổng nhu cầu năm 1987 khoảng 3000 tấn đến năm 2000 khoảng 5900
tấn. Về phía trái tổng nhu cầu năm 1987 khoảng 2700 tấn đến năm 2000 khoảng 3600 tấn
2.2.1.2. Xu hướng tiêu dùng
Trong một khảo sát mới đây của Viện khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam
về sản xuất và thương mại hàng hoá rau quả cho thấy nếu như tỷ trọng tiêu thụ rau
muống và các loại rau khác tăng nhanh trong giai đoạn 1993 - 1998 thì trong những năm
tiếp theo 1998 - 2002 các loại đậu đỗ, bắp cải, su hào... tăng nhanh hơn. Vùng miền Nam
tiêu thụ các loại rau ôn đới như: bắp cải, su hào ít hơn miền Bắc; ngược lại miền Nam lại
tiêu dùng các loại rau khác nhiều hơn
Trong khi đó, tỷ lệ tiêu dùng quả tăng đều ở tất cả các loại. Riêng chuối - một loại
quả truyền thống, trong thời gian gần đây lượng tiêu thụ đang chững lại. Người Việt Nam
vẫn duy trì thói quen sử dụng hầu hết các loại quả tươi và chế biến tại nhà.
2.2.1.3. Diện tích đất canh tác
Trong thời gian qua, nhất là kể từ đầu thập kỷ 90, diện tích rau, hoa, quả của Việt
Nam phát triển nhanh chóng và ngày càng có tính chuyên canh cao. Tính đến năm 2004,
tổng diện tích trồng rau, đậu trên cả nước đạt trên 600 nghìn ha, gấp hơn 3 lần so với năm
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 12
1991. Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là vùng sản xuất lớn nhất, chiếm khoảng 29% sản
lượng rau toàn quốc. Điều này là do đất đai ở vùng ĐBSH tốt hơn, khí hậu mát hơn và
gần thị trường Hà Nội. ĐBSCL là vùng trồng rau lớn thứ 2 của cả nước, chiếm 23% sản
lượng rau của cả nước. Đà Lạt, thuộc Tây Nguyên, cũng là vùng chuyên canh sản xuất
rau cho xuất khẩu và cho nhu cầu tiêu thụ thành thị, nhất là thị trường thành phố Hồ Chí
Minh và cho cả thị trường xuất khẩu.
Cũng trong giai đoạn từ đầu thập kỷ 90, tổng sản lượng rau đậu các loại đã tăng
tương đối ổn định từ 3,2 triệu tấn năm 1991 lên đạt xấp xỉ 8,9 triệu tấn năm 2004.
Bảng 1 : Diện tích và sản lượng rau trái của Việt Nam
Bên cạnh rau, diện tích cây ăn quả cũng tăng nhanh trong thời gian gần đây. Tính
đến năm 2004, diện tích cây ăn quả đạt trên 550 ngàn ha. Trong đó, Đồng Bằng sông Cửu
long (ĐBSCL) là vùng cây ăn quả quan trọng nhất của Việt Nam chiếm trên 30% diện
tích cây ăn quả của cả nước.
Hình 2 : Diện tích cây ăn quả
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 13
2.2.2. Nhận xét
-Từ khảo sát 2.2.1.1 và 2.2.1.3: nhu cầu sử dụng rau quả của người dân tăng lên rất nhiều
năm sau cao hơn năm trước
-Từ khảo sát 2.2.1.2: ngày nay nhu cầu tiêu thụ rau trái của người dân đang phát triển
theo hướng đa dạng hóa tăng đều ở nhiều nhóm rau quả. Nhưng mỗi loại rau trái đều có
mùa thu hoạch nhất định trong năm
- Từ khảo sát 2.2.1.2: diện tích đất canh tác ở cả rau và cây ăn quả đang tăng lên liên tục
trong khoảng thời gian từ 1999-2005. Nhưng về tương lai xa sẽ gặp khó khăn do:
- Diện tích đất nông nghiệp là có hạn
- Dân số đang tăng với tốc độ chóng mặt, thêm nữa là xu hướng hiện đại hóa
nông thôn những năm gần đây làm cho đất trồng trọt được chuyển mục đích
sử dụng thành đất xây dựng ngày một nhiều
2.3. Rau quả là một nguồn dinh dưỡng quý giá
Xét cho cùng, nguồn dinh dưỡng trong rau trái là một trong những nguồn dinh
dưỡng rất có lợi cho sức khỏe của con người. Khoa học đã chứng minh rằng, nếu trong
khẩu phần ăn hàng ngày thiếu rau trái thì chắc chắn rằng chúng ta không thể có được sức
khỏe tốt. Nghiệm trọng hơn, nếu thiếu rau trái một cách trầm trọng, hậu quả khôn lường
là cơ thể sẽ mắc một số bệnh nguy hiểm và nếu nặng hơn có thể dẫn đến tử vong. Hầu hết
các chất dinh dưỡng trong cơ thể đều là những thành phần dễ hấp thu và có giá trị dinh
dưỡng rất cao.
Nước : chiếm khoảng hơn 80% thành phần của rau trái và hơn 50% thành phần của củ và
hạt tươi. Như vậy, ngoài việc nạp nước vào cơ thể một cách trực tiếp từ các nguồn nước
sạch, rau trái cũng là một nguồn cung cấp nước khá tốt.
Glucid : là thành phần chính tạo nên hình dáng, vi ngọt và giá trị dinh dưỡng của rau trái.
Các glucid chủ yếu trong rau trái bao gồm các dạng đường đơn giản như glucose,
fructose và saccarose và các dẫn xuất của đường có thể hòa tan trong nước, các dạng
polysaccharide như tính bột, cellulose, pectin, pentosan…
Lipid : rau trái chứa rất ít các chất béo. Tuy nhiên, trong một số loại hạt, hàm lượng béo
rất lớn. Các loại hạt này thường dùng trong công nghệ sản xuất dầu béo. Xét về mặt dinh
dưỡng, dầu thực vật thường có hàm lượng các acid không no không thay thế cao và hàm
lượng cholesterol thấp nên có lợi cho sức khỏe hơn so với nguồn chất béo từ thực vật.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 14
Vitamin : rau trái là nguồn cung cấp vitamin chủ yếu cho con người. Đây là nguồn
vitamin rất dồi dào và có giá trị sinh học cao. Các vitamin được tìm thấy trong rau trái là
B1, B2, PP, C…. và provitamin A.
Khoáng : rau trái là nguồn cung cấp muối khoáng quan trọng nhất cho cơ thể. Các loại
khoáng thường gặp trong rau trái như : K, Na, Ca, Mg, Fe, Mn, Al, P…
2.4. Kết luận
Với những thực trạng đã nêu ở 2.2.2 cùng với lợi ích kinh tế mà rau trái trái vụ
mang lại thì việc tăng cường nghiên cứu sản xuất sản phẩm này nhằm đáp ứng nhu cầu
thị trường là việc hiển nhiên.
Rau trái trái vụ do hạn chế về mặt sinh học nên có tích cảm quan không bằng rau
trái chính vụ, thêm đó kỹ thuật canh tác phức tạp, nhưng với sự phát triển của khoa học
đã giải quyết được một phần các vấn đề này
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 15
PHẦN II : TỔNG QUAN VỀ RAU TRÁI TRÁI VỤ
1. Khái niệm:
Rau trái đúng vụ ( in-season fruit and vegetable ): đậu trái, phát triển và chín bình
thường, tùy thuộc đất đai, thời tiết. Chất lượng trái cao, thơm ngọt, kích thước lớn, ít bị
sâu bệnh.
Rau trái trái vụ (off- season fruit and vegetable ): vì nhu cầu thị trường, một vài
biện pháp sẽ được tác động để thúc đẩy cây đậu trái không đúng mùa. Chất lượng trái
thấp hơn, chua hơn, nhỏ hơn, nhưng đổi lại giá bán lại cao hơn. Ngoài ra, năng suất và
sản lượng thu trái được trải đều trong năm, làm tăng giá trị kinh tế.
Điều đáng lưu ý là những tiến bộ khoa học kỹ thuật nói chung và trong ngành
nông nghiệp nói riêng đều phát triển không ngừng, cụ thể kỹ thuật nhân giống vô tính,
cấy ghép, biến đổi gen,… không những tạo ra rau trái có chất lượng cải thiện, mà khá
nhiều cây cho trái có thể trồng trọt và thu hoạch quanh năm như dưa hấu, nhãn, thăng
long…
Mục tiêu và yêu cầu đối với hướng phát triển rau trái, ngoài tăng về sản lượng,
chất lượng, còn về khả năng chống chọi với điều kiện ngoại cảnh bất lợi, rút ngắn thời
gian chăm sóc => thuật ngữ rau trái trái vụ có thể không đúng với một số loại rau trái
nữa.
2. Tình hình sản xuất rau trái trái vụ:
Với đặc điểm chiều dài lãnh thổ, tạo thành nhiều vùng khí hậu khác nhau dẫn đến
hình thành các vùng sinh thái khác nhau với các loại rau trái đặc trưng, mỗi vùng khí hậu
sẽ có những chủng loại rau trái thích hợp làm cho sản phẩm rất đa dạng và phong phú.
Miền Nam có khí hậu nóng ẩm đặc trưng của vùng nhiệt đới, nên các chủng loại rau trái
nhiệt đới chiếm ưu thế như dứa, chuối, măng cụt, mãng cầu, …; các loại rau gia vị, bầu,
bí… nhưng đồng thời có hai mùa mưa nắng rõ rệt trong năm mà vấn đề trồng cây trái vụ
còn gặp nhiều khó khăn. Miền Trung nóng khô, thích hợp trồng các loại cây gia vị, thanh
long, bơ, nho… nhưng khí hậu ít biến đổi đột ngột , thuận lợi cho việc tiến hành trồng
cây trái vụ hơn nhưng cần đảm bảo về nước tưới. Miền Bắc, với bốn mùa khá rõ, các loại
rau trái đặc trưng như mơ, cam, vải,đào, bắp cải, khoai tây, su hào… nên việc tiến hành
trồng rau trái trái vụ vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Diện tích trồng trọt ở nước ta khoảng 8.500.000 ha, trong đó diện tích trồng cây ăn
trái và rau hiện nay là 1.350.000 ha chiếm khoảng 13.5% với sản lượng 14 triệu tấn năm.
Trong đó, rau và gia vị chiếm 600 000 ha, sản lượng 8 triệu tấn và trái cây chiếm 755 000
ha, sản lượng 6,5 triệu tấn. Sở dĩ có độ chênh lệch là do rau trái là cây ngắn ngày, việc
thu hoạch không mất nhiều thời gian, điều này đảm bảo sản lượng rau lớn, mặt khác sản
lượng rau tăng một phần là do điều kiện trồng rau dễ dàng hơn trồng cây ăn trái trong sản
xuất rau trái vụ.
Sự hình thành và phát triển các vùng chuyên canh tư nhân hay nhà nước và sự mở
rộng ở các hộ dân đã dần dần đưa việc sản xuất rau trái vào quỹ đạo chuyên nghiệp hơn,
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 16
tạo điều kiện áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và thiết bị hiện đại nhằm tăng năng
suất sản lượng, chọn lọc giống, điều chỉnh chất lượng sản phẩm đáp ứng theo nhu cầu thị
trường đồng thời có thể thử nghiệm quy mô để sản xuất rau trái trái vụ.
Bảng 2 : Các vùng chuyên canh trái
Các loại trái Vùng chuyên canh
Dưa hấu Kiên Giang, Tiền Giang, Long An, Quảng Nam, Đà Nẵng
Chuối Đồng Nai, Hậu Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Phú
Dứa
Long An, Hậu Giang, Kiên Giang, Minh Hải, nông trường
Đồng Giao
Cây có múi Hậu Giang, Tiền Giang, Hòa Bình, Nghệ An
Thanh Long Bình Thuận, Long An
Việc một số loại trái cây có thể trồng nhiều nơi ở các vùng chuyên canh có ảnh
hưởng đến sản xuất trái vụ. Việc cây ăn trái ra mùa thuận ở hai thời điểm khác nhau ở hai
vùng không phải là hướng phát triển của rau trái trái vụ, vì như vậy sẽ phát sinh chi phí
vận chuyển sẽ làm tăng giá sản phẩm. Các vùng chuyên sản xuất rau trái cần tự sản xuất
ra mặt hàng rau trái trái vụ để phát triển sản lượng, đồng thời nâng cao thu nhập cho
người dân.
3. Các loại trái cây trái vụ ở nước ta:
Ở đây chúng ta sẽ xét những loại rau trái trái vụ được quan tâm vì mang lại lợi ích
kinh tế cao đồng thời kỹ thuật chăm sóc không đòi hỏi quá khắt khe. Lưu ý chúng ta
không xét một số loại rau trái có những cải tiến về giống để trồng quanh năm mà không
có những biện pháp tác động quá trong trái vụ (như trái dưa hấu), còn những loại rau trái
tuy có quanh năm nhưng do chăm sóc và tác động trong trái vụ (thanh long) vẫn được
xét đến trong bài.
Những loại trái cây có lợi thế cạnh tranh và giá trị kinh tế cao cả ở trong nước và
xuất khẩu có thể kể đến thanh long, vú sữa, xoài, măng cụt, sầu riêng, bưởi, cam, quýt,
vải, nhãn, dứa,…
Nguyên nhân mà các loại trái cây này được xếp vào danh sách các loại trái cây
trọng điểm có thể kể ra như sau:
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 17
Đây là những loại trái cây nhiệt đới (măng cụt, dứa, xoài, sầu riêng) và á nhiệt đới
(vải, nhãn, cam, bưởi) đặc trưng cho khí hậu nóng ẩm của nước ta.
- Một số loại đã có vùng chuyên canh rộng lớn như thanh long (Bình Thuận, Chợ Gạo,
Long An), sầu riêng (Ngũ Hiệp, Long Trung-Cai Lậy- Tiền Giang) .
- Có giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao (vải, vú sữa, cam, nhãn, sầu riêng).
- Dễ trồng, ít sâu bệnh (thanh long), một số có thể phát triển trên đất bạc màu (thanh
long), đất nhiễm phèn (dứa).
- Dễ bảo quản sau thu hoạch nên dễ xuất đi xa (bưởi).
- Có khả năng phòng và chữa một số bệnh, phát triển dòng thực phẩm chức năng như
bưởi, măng cụt, cam…
- Có thể phát triển thành nhiều dạng sản phẩm thực phẩm: ăn tươi, qua chế biến công
nghiệp sấy khô, đóng hộp, rượu mùi (nhãn, vải, xoài, dứa…).
Sau đây chúng ta sẽ giới thiệu về một số loại trái cây trái mang lại hiệu quả kinh
tế cao và được trồng trái vụ khá phổ biến.
3.1. Bưởi:
Hình 3 : quả bưởi
Bưởi là cây ăn trái thuộc nhóm có múi được trồng phổ biến và lâu đời tại các tỉnh
miền Đông Nam Bộ, với những vùng trồng bưởi nổi tiếng như Tân Triều, Phúc Trạch,
Đoan Hùng… Bưởi dễ trồng, dễ bảo quản sau thu hoạch, là loại cây trồng có tuổi thọ cao,
chu kỳ khai thác kinh doanh kéo dài hàng chục năm. Cho nên bưởi đã trở thành một trong
những cây trồng chủ đạo, một đặc điểm nữa là bưởi rất được ưa thích ở trong nước và có
tiềm năng xuất khẩu lớn. Nông dân được lợi nhuận cao gấp 2-3 lần ( 100 triệu vnđ/ ha) so
với các loại cây trai khác như xoài, chôm chôm, nhãn. Chính vì vậy, bưởi là một trong số
những cây ăn trái được nghiên cứu thử nghiệm khả năng trồng trái vụ nhằm đáp ứng nhu
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 18
cầu bưởi quanh năm của người tiêu dùng, đồng thời tăng kinh tế cho người trồng và hiện
tại đã đạt được những kết quả khả quan và được ứng dụng ở nhiều nơi.
Các giống bưởi được ưa thích cũng được trồng trái vụ nhiều có thể kể đến bưởi da
xanh, bưởi Năm Roi, bưởi Phúc Trạch, bưởi Đoan Hùng.
Được ưa chuộng như vậy phải nói đến giá trị dinh dưỡng và tác dụng dược lý của
bưởi. Bưởi cung cấp vitamin C, các chất khoáng như kali, calcium, muối folate, sắt…
chất xơ và một ít năng lượng. Bưởi đỏ hay bưởi hồng còn chứa - Carotene là một loại
tiền vitamin A, bioflavonoids và một vài hợp chất khác có khả năng ngăn ngừa ung thư
và tim mạch, lycopene thuộc nhóm carotenoid là chất chống oxy hóa có khả năng làm
giảm tỷ lệ mắc ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới.
Những thành phần tìm thấy trong bưởi bao gồm acid phenolic, limonoid, terpene,
monoterpene, giúp cho quá trình sinh tổng hợp enzym. Pectin có trong vỏ xốp của bưởi là
một loại chất xơ hòa tan có tác dụng làm giảm cholesterol trong máu. Hesperidin và
naringdin là hai chất flavonoid có trong bưởi giúp bảo vệ tính đàn hồi của mạch máu,
ngừa xơ cứng động mạch, gián tiếp chống chứng cao huyết áp và tai biến mạch máu não.
Ngoài ra, lá bưởi, cùi bưởi, hòa bưởi, hạt bưởi đều là thành phần của những bài thuốc dân
gian rất hiệu nghiệm.
3.2. Thanh long:
Hình 4 : Quả thanh long
Thanh long chịu được khí hậu nóng, có thể trồng được trên đất xám màu (Bình
Thuận), đất phèn (Tp HCM), đất đỏ (Long Khánh), là loại cây nhanh cho thu hoạch chỉ
sau một năm là đã có thể thu hoạch. Thanh long hiện là loại trái cây rất được ưu chuộng
trong nước và xuất khẩu nên nhu cầu tăng sản lượng để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nữa,
thanh long là một trong những trái cây được trồng trái vụ trên quy mô lớn vì không đòi
hỏi kỹ thuật cao, dễ chăm sóc. Thanh long cũng là loại trái cây có giá trị dinh dưỡng cao
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 19
Bảng 3 : Thành phần hóa học chung của thanh long
Thành phần Trong 100g ăn được
Brix ( tổng số chất
hòa tan) 13
Đường tổng,g 11.5
Đường khử,g 6.1
Acid hữu cơ,g 0.13
Protein,g 0.53
K , mg 212.2
P2O5, mg 8.7
Ca, mg 134.5
Mg, mg 60.4
Vitamin C, mg 9.4
Xơ, g 0.71
3.3. Sầu riêng:
Hình 5 : Quả sầu riêng
Sầu riêng được coi là trái cây đặc sản ở miền Nam, là loại cây ưa khí hậu nóng ẩm,
không chịu được lạnh và chịu hạn rất kém. Nên chăm sóc sầu riêng khá khó khăn đặc biệt
cây có tỉ lệ đậu trái rất thấp. Mặc dù vậy, sầu riêng vẫn được ưu tiên trồng trái vụ vì lợi
ích kinh tế mà nó mang lại. Các tỉnh trồng sầu riêng nhiều như Đồng Nai, Bình Phước,
Vĩnh Long, Tiền Giang… với tổng sản lượng 53 288 tấn (năm 2002). Sầu riêng được ưa
chuộng không chỉ vì hương vị đặc trưng mà thành phần dinh dưỡng đáng kể, tuy nhiên
sầu riêng có tính “ nóng”, và không phải ai cũng yêu thích sầu riêng.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 20
Bảng 4 : Thành phần dinh dưỡng trong 100 g sầu riêng ăn được
Thành phần Hàm lượng
Nước 64.99 g
Năng lượng 147 kcal
Protein 1.47g
Lipid 5.33 g
Glucid 27.09g
Chất xơ 3.8 g
Ca 6 mg
Sắt 0.43 mg
Mg 30 mg
P 38 mg
K 436 mg
Na 1 mg
Kẽm 0.28 mg
Đồng 0.207 mg
Mn 0.324 mg
Vitamin C 19.7 mg
Thiamin 0.374 mg
Riboflavin 0.2 mg
Niacin 1.074 mg
Vitamin A 45 UI
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 21
4. Các loại rau củ trái vụ:
Về rau củ trái vụ, có thể thấy rằng nhu cầu rất lớn đối với loại thực phẩm này, là
thành phần không thể thiều trong mỗi bữa ăn, sản lượng ngày càng tăng vẫn không đáp
ứng nổi nhu cầu tiêu dùng. Vấn đề tăng sản lượng bằng cải tiến giống, tiến hành trồng trái
vụ với kỹ thuật chăm sóc hợp lý, đã dần hình thành các khu trồng rau trong nhà lưới vừa
đảm bảo rau được phát triển tốt mà còn đảm bảo nguồn cung rau sạch.
Trong các nhóm rau củ từ nhóm rau ăn củ quả đến nhóm rau ăn thân lá và rau gia
vị đều được quan tâm trong sản xuất trái vụ. Điểm khó khăn trong trồng rau trái vụ là vào
mùa mưa vì rau chịu ngập úng rất kém cho nên cần phải hạn chế điều này. Một điểm nữa
là rau cần nhiều nước để sinh trưởng , đây là hai vấn đề cần quan tâm trong sản xuất rau
trái vụ.
Hầu như nhóm rau ăn thân lá dễ trồng trái vụ hơn, do điều kiện canh tác và chăm
sóc, cho nên được trồng trái vụ với quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng như
bắp cải, súp- lơ…
Phần này trình bày chủ yếu về một số loại rau gia vị có tiềm năng kinh tế lớn, và
khả năng trồng trái vụ, hay trồng trong mùa mưa.
Các dạng sử dụng của gia vị trong thực phẩm:
-Gia vị ở dạng tươi: thường sử dụng như các loại rau quả, thường dùng trong chế biến
thực phẩm, ví dụ: hành, tỏi, ớt, gừng, ngò gai, rau om..
-Gia vị ở dạng sấy: có thể sử dụng ở dạng nguyên (ví dụ: lá nguyệt quế, hoa tiêu hạt,..)
hoặc sau khi đã nghiền thành bột tùy theo yêu cầu của quá trình chế biến. Sản phẩm gia
vị ở dạng này được dùng chủ yếu trong công nghệ chế biến thực phẩm.
-Gia vị ở dạng paste: gia vị ở dạng tươi sau khi nghiền nhỏ được đem đi cô đặc nhằm
giảm bớt lượng nước và tăng hàm lượng chất khô. Ngoài ra, còn có thể phối trộn với một
số phụ gia để tăng giá trị cảm quan và tăng thời gian bảo quản của sản phẩm. Các sản
phẩm này được sử dụng không chỉ tạo mùi thơm mà còn tạo ra vị đặc trưng của sản
phẩm: mù tạt, cari..
-Hương liệu: là sản phẩm phối chế của tinh dầu thiên nhiên với các loại dung môi. Tinh
dầu thiên nhiên có thể được chiết tách bằng nhiều cách khác nhau tùy đặc tính của từng
loại nguyên liệu nhưng phổ biến nhất vẫn là trích ly. Thông thường hương liệu chỉ tạo
mùi đặc trưng mà không có tác dụng tạo vị. Hương liệu được dùng rộng rãi và khá phổ
biến trong thực phẩm, ví dụ: hương hành tây, hương húng quế, hương ngò, hương sả…
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 22
Hình 6 : Sơ đồ tổng quát các cách chế biến gia vị
Tác dụng của rau củ gia vị:
-Tạo nên mùi vị tốt, át đi mùi vị xấu: Thật dễ thấy mùi hành chiên sẽ át đi vị ôi của mỡ
(dầu); vị cay của ớt, vị chua của chanh, dấm sẽ át đi mùi tanh của cá, thịt... ; vị ngọt sẽ át
đi vị đắng khó chịu. Ngược lại, có khi vị đắng lại làm cho bớt sự ngấy vì dầu mỡ...
-"Vị đặc biệt" tạo nên tính chất riêng biệt và bản sắc riêng độc đáo của từng món ăn.
-Gia vị chứa nhiều kháng sinh thực vật (Phytonxide):Có thể nói, trong tất cả các loại
thực vật làm gia vị Việt Nam đều có chứa chất kháng sinh như trong gừng có gingerol,
trong riềng có Zingiberol, trong tỏi có Allicin…
Có lẽ vì thế nên các rau gia vị Việt Nam đều là vị thuốc trong y học phương Đông.
Thực tế, có thể kể vài ví dụ như: trong mắm tôm có thể bị nhiễm vi khuẩn tả. Trong lúc
ăn mắm tôm, dứt khoát phải dùng chanh, giấm… và chỉ cần 10 – 15 phút sau khi dùng,
trong môi trường chua (pH < 7) thì vi khuẩn tả sẽ chết. Cho nên, dùng gia vị Việt Nam
cũng là cách dùng kháng sinh “tự nhiên” trong ăn uống.
Nguyên liệu
Sấy
Gia vị
Nghiền
Bột gia vị
Chiết
Tinh dầu
thiên nhiên
Phối chế
Hương liệu
Chiết
tách
Chiết
tách
Nghiền – cô
Gia vị dạng
paste
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 23
-Cung cấp cho bữa ăn nhiều chất khoáng, vi khoáng rất cần cho cơ thể sống: rau gia vị
cung cấp cho cơ thể con người muối khoáng nhờ Ca, P, Fe,…và các vitamin: tiền tố
vitamin A, vitamin B1, B2, PP, C,…
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 24
PHẦN III : CHẤT LƯỢNG RAU TRÁI TRÁI VỤ
1. Dinh dưỡng trong rau trái trái vụ
Theo FFTC (An international information center for small- scale farmers in Asia)
đánh giá về rau quả sản xuất trái vụ thì:
- Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong rau quả trái vụ thường nghèo hơn so với các
sản phẩm rau trái được sản xuất chính vụ. Điều này được giải thích là do những
bất lợi của điều kiện sản xuất rau quả trái vụ so với khi sản xuất chính vụ, các yếu
tố về thời tiết, sâu bệnh ảnh hưởng nhiều hơn đến chất lượng sản phẩm, là nguyên
nhân chính gây ra sự giảm giá trị dinh dưỡng thường gặp khi sản xuất trai vụ.
- Nguy cơ ngộ độc từ các sản phẩm rau quả trái vụ sẽ cao hơn do chứa nhiều hóa
chất xử lý, chất kích thích sinh trưởng… trong quá trình sản xuất rau trái trái vụ,
sự can thiệp của hóa chất nhằm kích thích rau trái phát triển, điều khiển qúa trình
ra hoa, kết trái thường được sử dụng, các lọai hóa chất này nếu sử dụng với liều
lượng cao, sẽ tích lũy trong sản phẩm sau khi thu hoạch, là nguyên nhân gây ra
ngộ độc trong rau quả trái vụ. Để giảm được tối đa ảnh hưởng của hóa chất đến
sức khỏe người tiêu dùng thì cần phải có kế hoạch sản xuất hợp lý, đặc biệt là phải
chú ý đến liều lượng sử dụng các hóa chất , thời gian thu hoạch sau khi sử dụng
thuốc để tránh nguy cơ ngộ độc từ hóa chất tồn đọng.
- Về mặt cảm quan , thông thường các sản phẩm trái vụ sẽ có chất lượng trái thấp
hơn , trái thường chua hơn, nhỏ hơn so với các sản phẩm chính vụ…tuy nhiên đây
cũng chỉ là những đánh giá dựa trên một số sản phẩm trái vụ nhất định, còn phụ
thuộc vào điều kiện sản xuất của từng vùng, khu vực, cũng như kỹ thuật sản xuất
được áp dụng.Trong nhiều trường hợp, sản phẩm trái vụ vẫn có thể cho năng suất
cao và chất lượng tương tự so với các sản phẩm chính vụ khác.
Khi so sánh và đánh giá chất lượng của các sản phẩm rau trái trái vụ so với các sản
phẩm chính vụ, trong những nghiên cứu về hàm lượng vitamin trong rau trái vụ, người ta
nhận thấy hàm lượng vitamin chịu sự ảnh hưởng khá lớn của mùa vụ:
- Trong rau spinach, hàm lượng vitamin giảm đi từ 1/3 đến 1/8 so với rau trái
trái vụ.
- Trong rau cải xanh, cà chua, hàm lượng vitamin giảm đi khoảng ½ so với sản
phẩm chính vụ.
Ngoài thành phần vitamin, các thành phần dinh dưỡng khác như hàm lượng
đường, axit, trong sản phẩm trái vụ cũng được xem xét, nhưng nhìn chung không có sự
khác biệt đáng kể , nếu có thì cũng chỉ là sự giảm không đáng kể hàm lượng các chất này
ở các sản phẩm trái vụ. Lý giải về điều này, các nhà nghiên cứu cho rằng, sự giảm đi về
hàm lượng của các sản phẩm trái vụ có thể là do chịu ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết,
đất trồng, sâu bệnh… đất canh tác sau giai đoạn trồng chính vụ thường không kịp hồi
phục đầy đủ để phục vụ cho việc canh tác trái vụ tiếp theo, hàm lượng chất dinh dưỡng
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 25
trong đất mất đi nhiều sau giai đoạn trồng chính vụ, không kịp hồi phục đầy đủ để phục
vụ cho việc canh tác trái vụ, thêm vào đó các điều kiện bất lợi của điều kiện sản xuất trái
vụ cũng cũng ảnh hưởng đáng kể đến năng suất của cây trồng…
Hình 7 : Hàm lượng vitamin C trong rau Spinach và cà chua thay đổi theo
từng thời điểm trong năm
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 26
Tuy nhiên không phải các sản phẩm trái vụ đều có chất lượng thấp hơn so với
các sản phẩm chính vụ, nếu có kế hoạch trồng trọt hợp lý và biện pháp canh tác thích
hợp, người nông dân vẫn có thể thu được các sản phẩm rau trái trái vụ không thua kém gì
so với các sản phẩm chính vụ.
Nếu theo quy luật của tự nhiên, mỗi loại rau sinh trưởng và phát triển đều cần có
những yêu cầu riêng: về ngoại cảnh như thời tiết, đất đai, dinh dưỡng… Vì vậy, người
trồng rau luôn phải quan tâm đến thời vụ gieo trồng. Thí dụ thời vụ gieo trồng thích hợp
đối với các loại rau thường là vụ đông xuân, còn mùa mưa, rau sinh trưởng kém, năng
suất thấp, dễ bị sâu bệnh, thậm chí không thể phát triển. Thế nên, để duy trì nguồn thực
phẩm thiết yếu này, người ta đã áp dụng các kỹ thuật trồng rau trái vụ ở nước ta.
Theo TS. Hòang Chung Lằm, trưởng bộ môn kiểm nghiệm chất lượng rau quả
thuộc Viện Rau quả T.W thì ở nước ta, rau được sản xuất quanh năm, không kể chính vụ
hay trái vụ. Nhờ kỹ thuật canh tác hiện đại, ngày nay người ta có thể trồng tất cả các loại
rau thông thường, đáp ứng tối đa nhu cầu người tiêu dùng. TS Lằm khẳng định: “Không
có gì đặc biệt giữa rau trái vụ và rau chính vụ vì nếu rau trái vụ được gieo trồng bằng các
kỹ thuật hợp lí, theo những mô hình đảm bảo về nhiệt độ và dinh dưỡng thì rau sẽ phát
triển như bình thường.
Ông Vương Trường Giang, Phó giám đốc TT Kiểm định thuốc bảo vệ thực vật
phía Bắc cũng cho rằng: “Ngày nay, người ta có thể tạo ra rất nhiều loại giống cây trồng
khác nhau, có những giống thì chịu nóng, có giống thì chịu lạnh, giống phù hợp với miền
này, giống lại phù hợp ở miền khác. Vì vậy, chỉ cần áp dụng kỹ thuật đúng cách thì rau
có thể sinh trưởng và phát triển như rau chính vụ.
TS. Hòang Chung Lằm cho rằng: ở nước ta,sở dĩ có sự phân vân về chất lượng rau
trái vụ là do tâm lý của mọi người vẫn cho rằng: Rau trái vụ chủ yếu nhập không có
nguồn gốc từ Trung Quốc, dễ có hóa chất độc hại. Đó là tâm lý chung của người tiêu
dùng. Tâm lý này quá lớn, khiến rau trái muà ở nước ta phần nào bị “mang tiếng”. Ở Việt
Nam, nếu có bảo quản thì cũng chỉ là những biện pháp đơn giản như dấm củ, quả bằng
hương, đất đèn để mau chín, tiêu biểu như dấm quả cà chua.
Ông Vương Trường Giang, người am hiểu về các loại thuốc bảo vệ thực vật cũng
khẳng định: “Ở nước ta không sử dụng chất bảo quản độc hại, tác động không tốt tới sức
khỏe con người mới chỉ là tin đồn. Các nhà nghiên cứu lâu năm về rau cũng mới chỉ nghe
nói chứ chưa hề nhìn thấy chất bảo quản thực sự đó là chất gì”.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng rau trái trái vụ:
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 27
Chất lượng rau trái trái vụ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, trong đó hai yếu tố có
thể xem là quyết định đến chất lượng sản phẩm phải kể đến:
Giá trị kinh tế của sản phẩm sản xuất trái vụ: sản phẩm có giá trị kinh tế
càng cao thì yêu cầu về chất lượng của sản phẩm cũng phải cao hơn, đây là yếu tố để kích
thích sự nghiên cứu tìm tòi ra nhiều giống mới, cải tiến kỹ thuật sản xuất để ngày càng
hoàn thiện chất lượng của sản phẩm, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng.
Các biện pháp kỹ thuật: bao gồm các yếu tố như
Giống: đây là yếu tố quyết định đến chất lượng rau trái trái vụ. Không phải
giống cây trồng nào cũng có thể trồng trái vụ, đặc biệt là đối với các loại
rau bởi đây là giống cây trồng chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố thời tiết,
có giống có thể sinh trưởng và phát triển tốt ở vùng này nhưng khi chuyển
qua địa phương khác để canh tác thì không mang lại hiệu qủa như mong
muốn. Tuy nhiên , ngày nay, cùng với những thành tựu về kỹ thuật lai tạo
giống, ngày càng nhiều giống rau trái đã được tạo ra để đáp ứng nhu cầu
của từng vùng, địa phương cụ thể. Giống tốt là giống phải có khả năng sinh
trưởng và phát triển tốt trong điều kiện thay đổi của mùa vụ, có khả năng
chống chịu được sâu bệnh, sức đề kháng tốt.
Chọn thời vụ: trước đây, thời vụ là yếu tố quyết định nhất đến sự thành
công hay thất bại của sản xuất rau trái vụ, ngày nay, yếu tố này vẫn giữ vai
trò quan trọng nhưng do những phát triển và sự đa dạng hóa ngày càng
nhiều giống cây trồng cho phù hợp với từng thời điểm sản xuất cụ thể,
người nông dân có thể chủ động lựa chọn thời điểm sản xuất thích hợp, kết
hợp với giống cây trồng hợp lý, vẫn có thể cho chất lượng rau trái cao và
năng suất tương tự sản phẩm chính vụ.
Kỹ thuật chăm sóc: các sản phẩm rau quả trái vụ đòi hỏi những yêu cầu về
kỹ thuật canh tác cao hơn so với các sản phẩm chính vụ. Kỹ thuật chăm sóc
được xem như là những “ bí quyết” để mang lại chất lượng sản phẩm với
hiệu qủa cao nhất. Trên cùng một đối tượng sản phẩm, mỗi người nông dân,
mỗi địa phương sẽ có biện pháp canh tác khác nhau sao cho phù hợp với
điều kiện thực tế của điạ phương. Kỹ thuật canh tác để rau trái trái vụ cho
năng suất cao và chất lượng tốt trở thành một “ nghệ thuật” của người nông
dân.
Đặc điểm thời tiết , khí hậu: đây là yếu tố chi phối đến khả năng chống chịu
sâu bệnh, khả năng chịu được thời tiết bất lợi của các sản phẩm. Thông
thường, trồng cây trái vụ thường phải đối diện với nguy cơ từ sâu bệnh
nhiều hơn so với chính vụ, ngoài ra cũng phải kể đến yếu tố thời tiết, khí
hậu không thuận lợi cho canh tác trái vụ. Để khắc phục những hạn chế của
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 28
các yếu tố này, cần phải phối kết hợp nhiều biện pháp canh tác, từ khâu
chọn giống ban đầu đến khâu chăm sóc, thu hoạch sản phẩm.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 29
PHẦN IV KỸ THUẬT SẢN XUẤT RAU TRÁI TRÁI VỤ
4.1. Nguyên tắc sản xuất rau trái trái vụ
4.1.1 Sản xuất quả trái vụ:
Có nhiều phương pháp để sản xuất quả trái vụ. Sau đây là quy trình sản xuất quả
trái vụ đang được áp dụng phổ biến ở nước ta.
Có nhiều phương pháp điều khiển cây ra hoa : biện pháp canh tác, phương pháp sử
dụng hóa chất. Tùy thuộc vào từng loại cây, mà chúng ta chọn phương pháp cho phù hợp.
Biện pháp canh tác:
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 30
Xông khói:
Xông khói để kích thích xoài ra hoa là một kỹ thuật được Gonzales thực hiện từ
năm 1923 ở Philippines. Dutcher (1972) cho rằng việc xông khói thật sự kích thích xoài
ra hoa hơn là đơn giản chỉ gây ra sự phát triển của mầm hoa đã hình thành trước đó. Tác
động của biện pháp xông khói lên sự ra hoa xoài được giải thích do tác động của nhiệt
gây ra bởi việc hun khói (Gonzalez, 1923), do tác động của khí CO và CO2 cùng với
nhiệt (Galang và Agati, 1936). Tuy nhiên, biện pháp này không được áp dụng phổ biến vì
tốn nhiều công lao động, phụ thuộc vào yếu tố thời tiết nhưng kết quả không đáng tin
cậy.
Cắt rễ
Tổng quan về tình hình áp dụng biện pháp cắt rễ trên ngành trồng cây ăn trái ở
một số nơi trên thế giới, Khan và cộng sự (1998) cho biết cắt rễ là một kỹ thuật có thể
làm giảm sự sinh trưởng trên cây táo (Maggs, 1964, 1965; Geisler và Ferree, 1984;
Schupp và Ferree, 1990). Biện pháp cắt rễ còn được áp dụng rộng rãi trong nghề làm
vườn ở Châu Âu nhằm làm giảm kích thước tán cây và kích thích sự tượng mầm hoa và
đậu trái (River, 1866). Phương pháp này cũng được sử dụng có hiệu quả trong sản xuất
táo ở miền đông nước Mỹ trong những năm đầu thập niên 1990 (Schupp, 1992).
Việc cắt rễ đã có hiệu quả ngăn cản sự tích luỹ ở mức độ cao các chất
carbohydrate, làm giảm sự sinh trưởng của cây xoài và làm cho cây đạt năng suất cao.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong lá cũng được ghi nhận. Chất đạm trong trong lá
tương tự nhau ở tất cả các nghiệm thức và cao hơn mức độ tiêu chuẩn, chất kali,
magnesium và Bore nằm trong mức độ tiêu chuẩn nhưng lân và canxi thì thấp hơn mức
độ tiêu chuẩn. Kulkarni (2002) cho rằng việc cắt rễ góp phần làm giảm sự trao đổi chất
ức chế sự ra hoa mà chủ yếu là Gibberellin và gián tiếp làm giảm nguồn cung cấp
Cytokinin.
Hình 8 : Xới gốc bón phân cho cây bưởi trước khi xiết nước và phun
Paclobutrazol kích thích bưởi ra hoa
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 31
Khấc thân hay khoanh cành:
Việc khoanh hay khấc thân (cành) gây ra sự tích luỹ những sản phẩm trao đổi chất
được tạo ra trên chồi (carbohydrate, ABA và auxin) ở phần trên vết khoanh nhưng đồng
thời những chất dinh dưỡng hoặc những chất đồng hoá (Cytokinin, Gibberellin và đạm)
được cung cấp bởi rễ cũng được tích luỹ ở phần dưới vết khoanh (Meilan, 1997) và
những sản phẩm này có thể ảnh hưởng đến sự ra hoa (Zimmerman và cộng sự..., 1985;
Hackett, 1985). Việc khoanh thân đã làm phá vỡ tế bào mô libe nên trực tiếp ảnh hưởng
đến sự vận chuyển các sản phẩm đồng hoá (Noel, 1970; Goldschmidt và cộng sự..., 1985;
Menzel và cộng sự..., 1995).
Nhằm xác định hiệu quả của biện pháp khấc thân cây lên sự ra hoa và sự sản xuất
của giống xoài Tommy Atkins ở Brazil, José (1997) đã tiến hành khấc thân cây xoài ở
giai đoạn từ 30-90 ngày trước khi phun Nitrate kali, kết quả cho thấy khấc thân 60-75
ngày trước khi phun Nitrat kali sẽ làm tăng tỉ lệ ra hoa và thu hoạch sớm hơn cây đối
chứng 23 ngày nhưng sự sinh trưởng dinh dưỡng của cây bị khấc kém hơn so với đối
chứng. Rath và Das (1979) cho biết trên giống xoài Langra ở Ấn Độ, khấc cành trong
năm nghịch (off-year) cây xoài ra hoa sau 122 ngày với tỉ lệ 42%, cao hơn so với đối
chứng (8%) nhưng thấp hơn khi khấc cành có kết hợp với phun chất ức chế tăng trưởng
Cycocel ở nồng độ 3.000 mg/L (62,3%).
Biện pháp khấc thân hay khoanh cành còn có tác dụng làm tăng sự đậu trái trên
cây có múi do đặc tính tự bất dung hợp (self-incompatibility) hoặc thiếu hạt phấn có sức
sống. Ngoài ra, việc khấc thân ở gần mặt mặt đất cũng có thể tạo điều kiện cho nấm gây
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 32
bệnh thối gốc (xì mủ) tấn công. Giải thích về các kết quả nầy, nhiều tác giả cho rằng
mạch libe không liền hoàn toàn sau khi khấc đã làm giảm từ từ khả năng vận chuyển các
chất đồng hoá của cây.
Hình 9 : Kích thích xoài ra hoa bằng khấc thân
Hình 10 : Kích thích nhãn ra hoa bằng khấc thân
Biện pháp sử dụng hóa chất:
Sử dụng hóa chất để kích thích sự ra hoa trái vụ hiện nay được áp dụng rất phổ
biến và mang lại hiệu quả cao. Paclobutazol là loại hóa chất được sử dụng nhiều nhất.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 33
Đặc tính của paclobutazol (PBZ)
Tên hoá học của PBZ là: (2RS,3RS)-1-(4-chlorophenyl)-4,4-dimethylethyl-
2-(1H-1,2,4-triazol-l-yl) pentan-3-ol và có công thức hoá học tổng quát là
C16H20ClN3O.
PBZ là chất lưu dẫn có thể được mang lên bằng rễ, đi xuyên qua lỗ thân
hoặc cả tế bào chết. PBZ di động trong mô xylem và di chuyển lên bằng sự
thoát hơi nước (Charler, 1987).
PBZ là một chất làm chậm sự tăng trưởng (retardant) thông qua sự ức chế
quá trình sinh tổng hợp GA. PBZ có thể được hấp thu qua lá, tán cây, thân
và rễ, được di chuyển qua mô xylem đến bên dưới chồi sinh mô. Ở đó nó
ngăn cản quá trình sinh tổng hợp GA và làm chậm tốc độ phân chia tế bào,
làm cho thực vật trở nên già cỗi hơn làm gia tăng việc sản xuất hoa và nụ
trái.
Hình 11 : Công thức hóa học của PBZ
Phương pháp xử lý PBZ:
Hiệu quả của PBZ lên sự ra hoa xoài phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, tuổi
cây, tuổi lá, khí hậu và kỹ thuật xử lý.
Giống: hiệu quả của PBZ lên sự ra hoa còn phụ thuộc vào từng giống khác
nhau (Lyannaz, 1994; Mossak, 1996). Trên giống Nam Dok Mai xử lý PBZ
với liều lượng 4 g a.i./cây có hiệu quả kích thích ra hoa cao nhất, trong khi
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 34
đó trên giống Harumanis (Indonesia), 3,76 g a.i./cây thì đủ liều lượng để
kích thích ra hoa (Voon và cộng sự., 1991).
Tuổi lá: ở Thái Lan, việc xử lý PBZ thường được tiến hành khi đợt đọt thứ
nhất có màu xanh sáng, 3 - 4 tháng tuổi, nếu không xử lý PBZ cây xoài sẽ
ra đợt đọt thứ hai (Dokmaihom và cộng sự.,1996).
Kỹ thuật xử lý: do PBZ có thể được rễ hấp thụ và chuyển lên lá cũng như có
thể hấp thụ trực tiếp qua lá nên có thể xử lý hoá chất này bằng cách tưới
vào đất hay phun lên lá.
4.1.2. Sản xuất rau trái vụ
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công trong sản xuất rau trái vụ là:
- Giá cả
- Các biện pháp kỹ thuật.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất của sản xuất rau trái trái vụ là giống .
Đây là một yếu tố rất quan trọng vì mỗi giống chỉ sinh trưởng tốt và cho năng suất cao
trong một số vùng nhất định. Nếu ngày trước chỉ có vùng cao ở Lâm Đồng như Đà Lạt,
Đơn Dương mới có thể cung cấp quanh năm các loại rau như cà chua, cải bông, cải bắp,
cải thảo... Ngày nay, vùng thấp như đồng bằng sông Cửu Long, TP Hồ Chí Minh, đã có
thể sản xuất trái vụ các chủng loại trên. Đó là do sự trợ giúp của các giống cây trồng mới,
nhưng lưu ý rằng các giống rau phù hợp cho sản xuất trái vụ ở các vùng thấp khác với
vùng cao. Ví dụ như giống cải bông trồng ở Đà Lạt cho bông to, trắng vào mùa mưa,
nhưng khi trồng ở TPHCM lại chỉ cho toàn lá.
Ngay cả trong cùng giống, nhưng trồng vào vụ Đông Xuân (mùa khô) thì cho
năng suất cao, trồng vào vụ Hè Thu (mùa mưa) cây lại nhiễm bệnh, thất thu. Vì thế, cần
chọn giống trồng sao cho phù hợp với địa phương và thời vụ sản xuất hầu đạt kết quả
mong muốn. Ở các vùng có khí hậu nóng như TP. HCM, ĐBSCL, miền Đông Nam Bộ,
các giống trồng trái vụ thích hợp là các giống chịu nhiệt.
Ví dụ:
- Cà chua KBT4, Ramina
- Cải ngọt Tosakan
- Cải bắp Summer Autum, Summer Summit, Summit.
Bên cạnh yếu tố giống, sự thành công của mùa vụ còn được quyết định bởi các
biện pháp canh tác nhằm phát huy hiệu quả giống. Sau đây là các yêu cầu chung trong
sản xuất rau trái vụ.
Vườn ươm - Hạt giống:
Đất gieo phải sạch, tơi xốp. Vườn ươm bố trí nơi quang đãng, không bị che rợp để
cây con cứng cáp, ít sâu bệnh. Liếp ươm cần cao ráo, dễ thoát nước, bằng phẳng, để ánh
sáng, nước tưới được phân bố đều.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 35
Hạt giống phải được xử lý trước khi gieo bằng cách: phơi nắng nhẹ vài giờ hoặc
ngâm nước ấm (2 sôi + 3 lạnh) để kích thích sự nảy mầm. Hoặc xử lý bằng hạt Benlate,
Zineb, Ridomyl bằng cách trộn hạt với thuốc, để tạo thành một lớp áo mỏng quanh hạt.
Hạt gieo ở mật độ vừa phải, tránh làm lãng phí hạt giống và cây con không mọc
chen chúc, yếu ớt. Có thể tỉa bớt cây con ở nơi dày để cấy sang nơi khác. Nếu có khả
năng, nên gieo hạt vào bầu bằng nylon có đục lỗ hoặc lá dừa, lá chuối. Hoặc gieo hạt trên
liếp ươm thật dày rồi nhổ cấy vào bầu khi cây có lá thật đầu tiên.
Vào mùa mưa nên làm giàn che cho liếp ươm với các vật liệu như lưới, vòng kẽm hoặc
tre, lá để che mưa cho cây con và giở ra khi trời nắng. Làm như vậy, cây con ít bệnh.
Đất trồng:
Chọn chân đất cao, thoát nước tốt.
Liếp trồng phải cao ráo, rãnh rộng để thoát nước. Đồng thời chuẩn bị mương nội
đồng để dẫn nước tưới khi có hạn và thoát nước khi trời mưa.
Phân bón:
Dùng phân hữu cơ hoai mục để giảm thiểu nguồn bệnh. Bón đầy đủ, cân đối NPK.
Cần chia lượng phân bón thành 4 - 5 lần thay vì 2 - 3 lần như trong mùa nắng, để giảm
thiểu sự thất thoát do rửa trôi. Cần chú ý bón tăng cường thêm kali cho các loại rau quả
như cà, ớt, cải bắp... Có thể dùng thêm các loại phân bón lá như Komix, HVP, KNO3...
phù hợp cho từng chủng loại rau.
Chăm sóc:
Tưới tiêu đúng kỹ thuật: Cần cung cấp đủ nước cho cây trồng, không để ngập úng
hoặc khô hạn, nhất là thời kỳ cây ra hoa kết trái để tránh làm ảnh hưởng đến năng suất
cây trồng.
Tỉa bớt những cành vô hiệu, lá vàng, lá bị sâu bệnh để ruộng luôn được thông
thoáng. Dùng dao kéo sắc bén khi tỉa, để vết thương không bị bầm dập, tỉa khi trời khô
ráo, sau khi tỉa có thể phun Ridomyl, Kasuran ...
Làm sạch cỏ dại để cỏ không tranh giành dinh dưỡng với cây trồng, làm mất nơi
ẩn náu của sâu bệnh.
Nếu có thể, nên phủ luống bằng rơm hoặc nhựa đen, tuy đầu tư cao lúc đầu nhưng
tiện lợi và hiệu quả như hạn chế cỏ dại, giảm sự thất thoát phân bón, ngăn đất bắn lên lá
khi trời mưa, khống chế ẩm độ của đất.
Với một số loại rau như cà, ớt, bầu bí... cần làm giàn kịp thời, vững chắc để cây
không đổ ngã, ruộng thông thoáng, dễ chăm sóc.
Phòng trừ sâu bệnh:
Cần lưu ý, mùa mưa ẩm độ không khí cao, là điều kiện cho nấm bệnh phát triển, vì
thế, cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để sớm phát hiện sâu bệnh và phun trừ kịp
thời mới có hiệu quả. Song song với việc dùng thuốc hóa học, các biện pháp canh tác như
bón phân, nước tưới, làm cỏ... được thực hiện chặt chẽ, thì việc phòng trừ sâu bệnh mới
có hiệu quả.
4.2. Kỹ thuật sản xuất một số loại rau trái trái vụ
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 36
4.2.2. Bưởi
Bưởi có danh pháp khoa học là Citrus maxima (Merr., Burm. f.), hay Citrus
grandis L., là một loại quả thuộc chi cam chanh, thường có màu xanh lục nhạt cho tới
vàng khi chín, có múi dầy, tép xốp, có vị ngọt hoặc chua ngọt tùy loại. Bưởi có nhiều
kích thước tùy giống, chẳng hạn bưởi Đoan Hùng chỉ có đường kính độ 15 cm, trong
khi bưởi Năm Roi, bưởi Tân Triều Biên Hòa và nhiều loại bưởi khác thường gặp ở Việt
Nam, Thái Lan có đường kính khoảng 18-20 cm.
Ở Việt Nam, diện tích bưởi được trồng nhiều nhất ở miền Tây Nam Bộ. Vĩnh
Long, Tiền Giang và Bến Tre là 3 tỉnh có diện tích trồng bưởi lớn nhất trong khu vực.
Bưởi là đặc sản quý của nước ta, có giá trị dinh dưỡng cao và có tác dụng tốt đối
với sức khỏe con người. Trong một 100g phần ăn được có: nước 89g, protêin 0,5g, chất
béo 0,4g, tinh bột 9,3g, vitaminC 44g, ngoài ra còn có narigin trong các hợp chất
glucosid. Hiện nay tại Việt Nam có các giống bưởi ngon, mang lại hiệu quả kinh tế cao
như: bưởi Năm roi, Da xanh, Phúc Trạch, Đoan Hùng, Diễn, Thanh Trà...Sau đây là
những nét khái quát chung nhất về tình hình sản xuất một số loại bưởi có giá trị kinh tế
cao trong nước.
Đặc điểm về quá trình ra hoa:
Hoa bưởi thuộc loại hoa đơn hay chùm, mọc từ nách lá, thường là hoa lưỡng tính.
Khảo sát thời gian ra hoa của một số giống bưởi khảo nghiệm, Đào Thị Bé Bảy và cộng
sự (2005) nhận thấy giống bưởi Da Xanh ra hoa từ tháng 2-5 và thu hoạch từ tháng 8-12,
sớm hơn các giống 5 Roi, Đường Lá Cam, Đường Da Láng và bưởi Sa Điền (Trung
Quốc) từ 1-2 tháng.
Theo tác giả Trần Thị Oanh Yến, phấn hoa bưởi Da Xanh đều hữu thụ. Bưởi Da
Xanh được thụ phấn với bưởi 5 Roi, trái có nhiều hơn 50 hạt/trái, thậm chí nhiều100
hạt/trái và hạt to. Bưởi Da Xanh thụ phấn với Cam Soàn, cam Sành, quýt Đường cũng
cho trái có nhiều hạt nhưng hạt nhỏ hơn.
Hình 12 : Hoa bưởi 5 Roi
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 37
(a) (b)
a) Bông không có lá
b) Bông có lá
Các yếu tố ảnh hưởng lên sự ra hoa:
Các yếu tố quan trọng liên quan đến sự ra hoa trên cây có múi là: các chất đồng
hoá, chất điều hoà sinh trưởng, nhiệt độ, chế độ nước và dinh dưỡng (Davenport, 1990).
Lý thuyết về các sản phẩm đồng hoá dựa trên kết quả của biện pháp khoanh cành
hay khấc thân đã làm tăng sự kích thích ra hoa, sự đậu trái và hàm lượng tinh bột trong
cành, có lẽ do sự ngăn cản sự vận chuyển các sản phẩm carbohydrate đến rễ. Ngược lại,
cũng có những nghiên cứu cho rằng không có sự liên hệ giữa hàm lượng tinh bột trong lá
và chồi non với sự ra hoa của cây có múi (Davenport, 1990). Tuy nhiên hàm lượng
carbohydrate trong rễ trong một số trường hợp có liên quan đến sự ra hoa trên cây quýt ra
trái cách năm. Hàm lượng carbohydrate trong rễ thấp do cây mang trái quá nhiều có ảnh
hưởng đến sự ra chồi và ra hoa.
Vai trò của các chất điều hoà sinh trưởng lên sự ra hoa của cây có múi cũng được
nghiên cứu (Davenport, 1990). Phun gibberelin lên lá trước khi phân hoá mầm hoa có thể
ức chế sự ra hoa (Monselise và Halevy, 1964). Do đó, sự hiện diện của gibberellin có thể
ảnh hưởng đến sự ra hoa. Tuy nhiên, những nghiên cứu sự biến động của hàm lượng GA3
nội sinh cho thấy không có sự liên quan có ý nghĩa giữa GA3 và kiểu chồi sinh trưởng
hay sinh sản (Davenport, 1990).
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 38
Tình trạng dinh dưỡng của cây có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự ra hoa
của cây. Hàm lượng đạm cao trong cây còn tơ có thể kích thích sự sinh trưởng quá mạnh
và sản xuất chồi sinh trưởng hơn là chồi sinh sản. Ngược lại mức độ đạm thấp thúc đẩy ra
hoa nhiều mặc dù sự đậu trái và năng suất thấp. Sự thiếu đạm nghiêm trọng sẽ sản xuất ít
hoa. Do đó, duy trì mức đạm trong lá tối hảo từ 2,5-2,7% sẽ cho số lượng hoa trung bình
nhưng sẽ có sự đậu trái và năng suất cao nhất. Đạm dạng ammonium có thể ảnh hưởng
trực tiếp đến sự ra hoa thông qua sự điều chỉnh ammonia và hàm lượng polyamine trong
chồi (Lovatt, 1988). Nhiệt độ thấp và stress do khô hạn làm tăng hàm lượng ammonium
trong lá và sự ra hoa.. Số hoa có tỉ lệ thuận với thời gian kích thích của nhiệt độ thấp.
Tương tự, phun urê 1% ở giai đoạn 6-8 tuần trước khi hoa nở làm tăng số hoa và năng
suất cây cam Shamouti 9 năm tuổi (Rade and van de Walt, 1992).
Các biện pháp kích thích ra hoa trái vụ:
Trong điều kiện tự nhiên ở ĐBSCL, do ảnh hưởng của khô hạn bưởi ra hoa vào
tháng 4-5 khi có bắt đầu mùa mưa và thu hoạch vào tháng 11-12. Tuy nhiên, cây bưởi đòi
hỏi thời gian khô hạn cho sự phân hoá mầm hoa tương đối ngắn, từ 15-20 ngày đối với
cây quýt đường hay 30 ngày đối với cam, bưởi. Do đó, sau thời gian cảm ứng ra hoa cần
thiết, biện pháp tưới nước trong mùa khô có ý nghĩa thúc đẩy sự ra hoa nên cây có múi
thường ra hoa vào tháng 12-1 và thu hoạch từ tháng đến tháng 8-12. Đây là mùa thuận
của cây có múi ở ĐBSCL. Tuy nhiên, nếu kích thích ra hoa vào đầu mùa mưa để thu
hoạch vào dịp tết như trên cây bưởi hay ra hoa trong mùa mưa để thu hoạch trong mùa
khô như cây chanh Tàu, cam Sành sẽ gặp nhiều trở ngại do thời gian khô hạn chưa đủ để
hình thành mầm hoa. Chính vì vậy mà biện pháp kích thích ra hoa mùa nghịch bằng cách
“xiết” nước hoặc lợi dụng sự khô hạn giữa mùa sẽ cho kết quả không ổn định, sự ra hoa
không tập trung. Sau đợt ra hoa đầu tiên nếu được bón phân và tưới nước cây bưởi sẽ tiếp
tục ra hoa đợt hai và có thể ra hoa 4-5 đợt hoa/năm. Do sự ra hoa nhiều đợt và kéo dài
nên nhà vườn cho rằng bưởi ra hoa quanh năm. Ở Chợ Lách, Bến Tre, có nông dân kích
thích bưởi Da Xanh ra hoa rãi rác quanh năm bằng cách lặt lá cành đã phát triển nằm bên
trong tán cây. Biện pháp này tỏ ra có hiệu quả đối với hộ có diện tích nhỏ có thể chủ
động cho cây ra hoa bằng cách lặt lá (như biện pháp phá lá trên cây chanh Tàu) nhưng có
lẽ không phù hợp đối với vườn có quy mô lớn vì tốn nhiều công lao động và đặc biệt là
không thích hợp cho việc sản suất hàng hóa. Trần Văn Hâu và Nguyễn Việt Khởi (2005)
kích thích bưởi 5 Roi ra hoa mùa nghịch bằng cách kết hợp biện pháp xiết nước với phun
paclobutrazol ở nồng độ 1.000-1.500 ppm sau đó 30 ngày tiến hành kích thích ra hoa
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 39
bằng thiourê ở nồng độ 0,3% giúp cho hoa ra đồng loạt . Biện pháp này giúp cho cây
bưởi ra hoa tập trung có thể thu hoạch một lần vào dịp tết nguyên Đán.
Hình 13 : Quy trình xử lý buởi ra hoa mùa nghịch để có thể thu họach vào
dịp tết nguyên Đán.
Hình 14 : Kích thích bưởi Da Xanh ra hoa bằng cách lặt lá cành “nhện”- bên trong
tán của nông dân ở huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre
Hình 15 : Xới gốc bón phân trước khi bắt đầu qui trình kích thích ra hoa
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 40
Hình 16 : Chồi ngọn bưởi 5 Roi ở giai đọan 30 ngày sau khi xử lý paclobutrazol: Lá
có màu xanh đậm, hơi cong lại.
Hình 17 : Trái bưởi 5 Roi phát triển từ những cành trong tán.
Bảng 5 : Quy trình xử lý cây bưởi ra hoa mùa nghịch
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 41
Giai đoạn NỘI DUNG, CÔNG VIỆC
Sau khi thu hoạch
- Mục tiêu kích thích cho cây 1-2 cơi đọt giúp cho cây phục hồi các
chất chất dự trữ- Cắt tỉa cành sâu bệnh, cành ốm yếu, đan chéo trong
thân- Bón phân: 5-10 kg phân hữu cơ và 1-2 kg phân hóa học NPK có
tỉ lệ 3:2:1- Tưới nước: 2-3 ngày/lần. Nếu kích thích ra thêm cơi đọt
thứ hai thì bón phân và tưới nước như khuyến cáo trên- Phun thuốc
ngừa rầy chổng cánh khi lá non đạt kích thước tối đa- Phun phân bón
lá bổ sung nếu chồi phát triển chưa được tốt- Giữ mực nước trong
mương ổn định ở độ sâu 60 cm trong suốt vụ.
1 tháng trước khi
kích thích ra hoa
(TKKTRH)
Mục tiêu: Làm giảm sự sinh trưởng của câyBón phân có tỉ lệ phân
đạm thấp, tăng tỉ lệ lân và kali như phân có tỉ lệ 1:3:3
7 ngày TKKTRH
Phun MKP (0-52-34) ở nồng độ 0,5%-1,0% , bắt đầu xiết nước trong
mương khô kiệt (bơm nước ra khỏi mương khi có mưa) cho đến khi
kích thích ra hoa
0
Phun paclobutrazol: Thúc đẩy quá trình hình thành mầm hoaPhun
paclobutrazol (PBZ) ở nồng độ 1.000-1.500 ppm, phun dung dịch hóa
chất điều lên hai mặt lá vào lúc sáng sớm hay chiều mát.
30 ngày Sau khi
phun PBZ
Phun chất kích thích ra hoa : Thiourê (0,3%), Nitrate kali 1%cách
phun tương tự như phun Paclobutrazol.
31
Kết thúc quá trình kích thích ra hoa: Bón phân và tưới nước giúp cho
mầm hoa phát triển- Bón phân với tỉ lệ 1:1:1-Tước nước giúp cho cây
ra hoa.
51 Bắt đầu nhú hoa
64 Trổ hoa rộ
70 Nở hoa
73 Rụng nhụy, đậu trái
79 Rụng nhụy, đậu trái: Phun phân bón lá như Micracro (15:30-15),.. để hạn chế sự rụng trái non
86 Trái phát triển, rụng trái non: Phun gibberellin nồng độ 5-10 ppm , phun lần 2 cách lần 1 từ 15-20 ngày
93
Trái phát triển (bón phân theo công thức 2:1:2, nên bón làm nhiều lần
(15-20 ngày/lần), 0,3-0,5 kg/cây. Phun Ca(NO3)2 ở nồng độ 0,1-0,2%
giai đoạn trái phát triển và kali ở nồng độ 0,1-0,5% trước khi thu
hoạch 30 ngày để tăng phẩm chất trái.
250 Thu hoạch
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 42
Sản phẩm bưởi trái vụ:
Đặc điểm khác biệt chủ yếu của bưởi trái vụ và chính vụ là về chất lượng cảm
quan. Thường bưởi sản xuất vào mùa chính vụ sẽ cho chất lượng tốt hơn so với trái vụ.
Bưởi trái vụ thường có màu sắc, độ ngọt kém hơn so với bưởi chính vụ.
Bảng 6 : So sánh sản phẩm bưởi chính vụ và trái vụ
Bưởi chính vụ Bưởi trái vụ
Năng suất (tấn/ha) 15 14-15
Khối lượng (g) 900 - 1400 700- 1500
Màu sắc Màu vàng nhạt Màu vàng nhạt
Cảm quan Vị ngọt Vị ngọt kém, có vị hơi chát.
4.2.3. Chôm chôm
Chôm chôm là loài cây vùng nhiệt đới Đông Nam Á, có tên khoa học là
Nephelium lappaceum L, thuộc họ Bồ đào ( Sapindaceae ). Tên gọi chôm chôm tượng
hình cho trạng thái lông của quả loài cây này, nên người Trung Quốc gọi nó là hồng mao
đan, người Mã Lai gọi là rambutan (trái có lông).
Cây chôm chôm là giống cây được trồng đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày nay được
trồng trong các vùng có vĩ độ từ 15° Nam tới 15° Bắc, gồm : châu Phi, châu Đại Dương,
Trung Mỹ và đặc biệt càng ngày càng được trồng nhiều ở châu Úc và quần đảo Hawai.
Cây chôm chôm thích ứng với những vùng đất không bị ngập nước. Tại Việt Nam, chôm
chôm được trồng chủ yếu ở các tỉnh thuộc lưu vực sông Đồng Nai và khu vực Nam
Trung Bộ.
Đặc điểm về quá trình ra hoa của chôm chôm
Hoa – Đặc điểm, cấu tạo:
Hoa chôm chôm có hai loại là hoa đực và hoa lưỡng tính. Hoa đực không có bầu
noãn do đó chỉ làm nhiệm vụ cung cấp hạt phấn cho hoa lưỡng tính. Hoa nở vào lúc sáng
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 43
sớm sẽ hoàn tất sau 3 giờ trong điều kiện có nắng tốt. Hoa nở vào buổi chiều sẽ chấm dứt
vào sáng hôm sau. Trung bình có 3.000 hoa đực trên một phát hoa. Mỗi hoa có trung bình
5.400 hạt phấn. Do đó, có khoảng 16 triệu hạt phấn trong một phát hoa. Hoa lưỡng tính
có hai loại, hoa lưỡng tính nhưng làm chức năng của hoa đực và hoa lưỡng tính nhưng
làm chức năng của hoa cái. Ở hoa lưỡng tính - đực, chỉ nhị phát triển mạnh trong khi ở
hoa lưỡng tính cái thì bầu noãn phát triển nhưng bao phấn không mở. Trung bình có
khoảng 500 hoa lưỡng tính trên một phát hoa. Hoa lưỡng tính - cái nhận phấn trong ngày
và trở thành màu nâu trong ngày hôm sau. Tuy nhiên, cũng giống như hoa đực, hoa lưỡng
tính cái nhận phấn chủ yếu vào buổi sáng sớm.
Tuỳ thuộc vào đặc tính của hoa, cây chôm chôm được phân thành 3 nhóm:
- Cây đực : chỉ sinh ra hoa đực. Có khoảng 40-60 % cây con mọc từ hột là cây
đực.
- Cây lưỡng tính nhưng chỉ sinh ra hoa lưỡng tính-đực.
- Cây lưỡng tính nhưng sinh ra cả hai loại hoa lưỡng tính đực và cái. Tuy nhiên, tỉ
lệ hoa lưỡng tính đực chỉ vào khoảng 0,05-0,90 %. Đây là loại cây phổ biến thường gặp
trong sản xuất. Một số giống có tỉ lệ hoa lưỡng tính - đực thấp như “Si-Chompoo” của
Thái Lan, sự đậu trái thường ít khi hoàn toàn.
Do sự vắng mặt của hạt phấn trên hoa lưỡng tính - cái, nên có ý kiến cho rằng cần
phải có hạt phấn từ cây đực cho việc thụ tinh hoặc là cây lưỡng tính có khả năng hình
thành trái qua sự sinh dục vô tính. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hoa chôm chôm có thể
đậu trái mà không cần hạt phấn vì sự đậu trái của hoa chôm chôm đạt kết quả rất tốt trong
điều kiện thiếu cây đực và thiếu hạt phấn của hoa lưỡng tính - cái. Tuy nhiên, trong
những điều kiện thời tiết bất thường sự thụ phấn của chôm chôm có thể bị trở ngại do
thiếu hạt phấn.
Ruồi và ong mật là côn trùng rất có ích làm tăng sự thụ phấn cho hoa chôm chôm.
Đặc biệt vào buổi sáng sớm khi cả hoa đực và hoa lưỡng tính cái đều mở. Ngoài ra, để
tăng sự thụ phấn cho cây chôm chôm, người ta còn trồng xen nhiều giống chôm chôm có
thời gian ra hoa chồng lên nhau. Việc phun các chất điều hoà sinh trưởng để làm tăng sự
sản xuất hạt phấn nhằm làm tăng sự thụ phấn cũng là biện pháp được áp dụng ở Thái
Lan.
Tóm lại, hoa của cây chôm chôm thụ phấn chéo là chủ yếu nên việc tăng thêm
nguồn phấn sẽ làm tăng khả năng đậu trái của chôm chôm. Tuy nhiên, việc thụ phấn bằng
tay thêm cho chôm chôm tốn rất nhiều công sức và không hiệu quả. Để khắc phục tình
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 44
trạng thiếu hạt phấn, việc trồng cây đực xen vào cây lưỡng tính, trồng xen nhiều giống
với nhau, hoặc nuôi ong trong vườn là những biện pháp tốt nhằm tăng sự thụ phấn cho
cây chôm chôm.
Hình 18 : Phát hoa chôm chôm
Sinh lý sự ra hoa :
Theo dõi sự ra hoa từ ngày xử lý ra hoa bằng cách phun paclobutrazol kết hợp với
xiết nước trong vườn cho thấy chồi ngọn bắt đầu phát triển sau 42 ngày, phát hoa phát
triển trong 30 ngày thì bắt đầu quá trình nở hoa. Thời gian nở giữa các hoa trên cây và
thời gian nở giữa các cây trong vườn thường không đồng loạt. Thời gian nở hoa tập trung
của các cây là 35 ngày sau khi nhú mầm hoa và quá trình nở hoa kết thúc trong 9 ngày.
Tổng thời gian từ khi xiết nước đến khi hoa nở hoàn toàn là 81 ngày.
Sự chuyển từ giai đoạn sinh trưởng sang sinh sản là giai đoạn quan trọng nhưng sự
nảy sinh hoa bắt đầu lúc nào rất khó xác định chính xác. Khi nghiên cứu hiệu quả của
một số hoá chất lên sự ra hoa của chôm chôm Roengrean, Muchjajib (1988) nhận thấy sự
phát triển của mầm hoa giống nhau trên cây có và không xử lý hoá chất kích thích ra hoa
nhưng việc phun chất kích thích ra hoa như paclobutrazol và ethephon sẽ kích thích sự
hình thành và sự phát triển của mầm hoa sớm hơn cây đối chứng từ 5 đến 15 ngày. Kết
quả quan sát sự bắt đầu hình thành và sự phát triển mầm hoa là dấu hiệu rất quan trọng
cho thấy cây chôm chôm bắt đầu biểu hiện đáp ứng với sự kích thích ra hoa để kết thúc
biện pháp kích thích ra hoa đồng thời có biện pháp kích thích và thúc đẩy cho mầm hoa
phát triển đồng loạt. Đây là giai đoạn quyết định rất quan trọng vì kéo dài thời gian kích
thích ra hoa có thể sẽ làm tăng tỉ lệ ra hoa nhưng cũng có thể ảnh hưởng lên sự sinh
trưởng và khả năng nuôi trái của cây. Whitehead (1959) cho biết rằng điều kiện thời tiết ở
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 45
thời điểm ra hoa có ảnh hưởng đến quá trình phát triển của hoa chôm chôm. Lượng mưa
quá lớn trước khi ra hoa sẽ thúc đẩy sự sinh trưởng của cây.
Các biện pháp kích thích ra hoa trái vụ
a) Biện pháp canh tác :
Ở miền Đông Nam Bộ, nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình (1998) cho biết biện
pháp làm giảm ẩm độ đất và ức chế sinh trưởng của cây chôm chôm kết hợp với biện
pháp khoanh hết vòng tán và 3/4 vòng tán tạo sự ra hoa tập trung với tỉ lệ cao. Ở huyện
Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nhà vườn kích thích chôm chôm ra hoa bằng cách xiết nước kết
hợp với “sứa” một đường rộng 2-3 mm xung quanh thân. Nhà vườn thường bắt đầu kích
thích ra hoa vào đầu mùa khô, khi không khí bắt đầu se lạnh vào tháng 12. Biện pháp này
giúp cho chôm chôm ra hoa tập trung và sớm hơn chính vụ từ 10-15 ngày. Tuy nhiên, kết
quả của biện pháp này cũng phụ thuộc vào thời tiết, nếu có những cơn mưa muộn hay trái
mùa thì hoa thường ra trễ và không tập trung.
Khác với nhà vườn ở Cầu Kè, nhà vườn trồng chôm chôm ở Vĩnh Long, Bến Tre
và Tiền Giang không áp dụng biện pháp “sứa thân” mà chủ yếu áp dụng biện pháp xiết
nước triệt để trong mương để kích thích cho chôm chôm ra hoa sớm. Gần đây, để tăng
hiệu quả của biện pháp xiết nước nhà vườn đã áp dụng biện pháp phủ mặt liếp bằng
plastic để sản xuất chôm chôm mùa nghịch. Điều tra biện pháp kích thích chôm chôm ra
hoa mùa nghịch của nông dân tại Long Hồ, Vĩnh Long và Chợ Lách, Bến Tre, nghiên
cứu của Châu Trùng Dương (2005) cho biết 100% số hộ điều tra áp dụng biện pháp "xiết
nước" kết hợp với phủ plastic. Biện pháp "xiết nước" được hiểu là rút nước trong mương
khô kiệt trong thời gian kích thích ra hoa và bơm nước ra khỏi mương ngay sau các trận
mưa. Plastic được phủ theo dạng mái nhà, ở giữa mặt liếp dùng cây chống lên sao cho
plastic cách mặt liếp 0,8-1,0 mét tạo sự thoáng khí mặt liếp, tránh đọng nước sau khi
mưa. Xử lý chôm chôm ra hoa mùa nghịch bắt đầu vào tháng sáu và tháng 7 khi cây
chôm chôm phát triển đọt non. Thời gian xiết nước dao động từ 40-60 ngày. Tỉ lệ ra hoa
đạt từ 81,9-88,8%. Do việc xiết nước kéo dài có thể ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của
cây nên khi xiết nước được 40-45 ngày nông dân thường tiến hành "nhấp nước" - cho
nước vào mương vườn chôm chôm cách mặt liếp 0,3-0,5 mét, tạo ẩm độ cho đất, thúc
đẩy mầm hoa phát triển nhanh. Tuy nhiên, lượng nước cung cấp thừa sẽ làm cây ra đọt
non, phát triển cành lá. Do đó, việc nhấp nước cho cây chôm chôm vào giai đoạn này có
ý nghĩa rất quan trọng, đòi hỏi người dân có nhiều kinh nghiệm quan sát sự phát triển của
chồi ngọn. Sau khi cây chôm chôm nhú mầm hoa, nước được đưa vào mương vườn,
plastic được cuốn vào giữa liếp nếu trong thời gian này có mưa dầm thì phủ plastic lại vì
ẩm độ tăng cao đột ngột sẽ làm tỉ lệ ra hoa giảm vì cây sẽ ra đọt non hoặc bông lá.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 46
Trong qui trình kích thích chôm chôm ra hoa mùa nghịch của nông dân hai huyện
Long Hồ (Vĩnh Long) và Chợ Lách (Bến Tre), cây chôm được kích thích ra ba lần đọt
trước khi kích thích ra hoa và tương ứng là ba lần bón phân thúc ra đọt với tỉ lệ NPK
trung bình là 2,5-2,9:1,9-2,4:1), trong đó, lượng phân đạm có tỉ lệ nghịch với tỉ lệ ra hoa.
Whitehead (1959) cho rằng thời tiết và khả năng dự trữ chất dinh dưỡng của cây là hai
yếu tố quyết định sự ra hoa và tạo trái. Như vậy, việc bón phân kích thích ra đọt giúp cây
tăng nguồn dự trữ carbohydrate cho quá trình ra hoa và nuôi trái là rất cần thiết nhưng
nếu bón nhiều đạm, cây sinh trưởng quá mạnh có thể làm giảm sự ra hoa.
Hình 19 : Kích thích chôm chôm ra hoa bằng cách “sứa thân” tại huyện Cầu Kè,
tỉnh trà Vinh
Hình 20 : Kích thích chôm chôm ra hoa bằng cách phủ mắt liếp bằng màng phủ
plastic kết hợp với xiết nước trong mương vườn tại Tiền Giang.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 47
b) Xử lý bằng hóa chất :
* Paclobutrazol (PBZ)
PBZ là chất có tính ức chế sinh trưởng, ngăn cản quá trình sinh tổng hợp
gibberellin và làm giảm mức độ gibberellin nội sinh do PBZ ngăn chặn sự biến đổi
kaurene thành acid kaurenoic (Tindall, 1994). Do đó, PBZ được sử dụng như một chất
làm chậm tăng trưởng ở nhiều loại cây trồng. Phun PBZ làm tăng tỉ lệ C/N ở đọt ngay cả
khi ẩm độ cao, từ đó làm giảm sự phát triển chồi và cỡ lá, carbohydrate cần cho lá giảm
và tăng ở chồi, do đó kích thích sự hình thành mầm hoa. PBZ có khả năng làm gia tăng
năng suất chôm chôm, chủ yếu là do tăng số lượng hoa và trái trên một phát hoa. Cây xử
lý PBZ nồng độ 2,5 mM cho năng suất cao (9,7 tấn/ha) so với cây đối chứng (6,9 tấn/ha).
Tuy nhiên, kích cỡ, độ dày cơm, khối lượng trái cũng như phẩm chất trái không bị ảnh
hưởng (Tindall và cộng sự..., 1994). Muchjajib (1990) cho biết nếu xử lý ra hoa cho
giống ‘Roengrean’ bằng cách phun lên lá PBZ và ethephon thì tỉ lệ ra hoa tăng lên đáng
kể so với đối chứng. Với giống ‘Roengrean’, cây 4-5 tuổi thì dùng PBZ 700-1.000 ppm
là thích hợp. Nếu phun nồng độ cao hơn có thể gây ra hiện sinh trưởng bất bình thường.
Trần Văn Hâu và cộng sự... (2005) nhận thấy phun PBZ ở nồng độ 600 ppm có tác
dụng thúc đẩy sự hình thành mầm hoa và phát hoa phát triển sớm hơn đối chứng từ 1-2
tuần. Xử lý PBZ còn làm tăng tỉ lệ ra hoa. Phun PBZ ở nồng độ 600 ppm tỉ lệ ra hoa đạt
trên 80%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa biện pháp có và không phủ mặt liếp,
tuy nhiên nếu phun PBZ ở nồng độ 200 và 400 ppm thì tỉ lệ ra hoa của biện pháp phủ mặt
liếp cao hơn so với không phủ. Điều nầy cho thấy rằng trong điều kiện xiết nước trong
mương tốt, biện pháp phủ mặt liếp có hiệu quả khi phun PBZ ở nồng độ 200-400 ppm
nhưng nếu phun PBZ ở nồng độ 600 ppm thì biện pháp phủ mặt liếp không có hiệu quả
làm tăng tỉ lệ ra hoa. Tuy nhiên, kết quả kích thích chôm chôm ra hoa rãi vụ vào những
thời điểm khác nhau trong mùa mưa vào tháng 7 và tháng 9 trong điều xiết nước trong
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 48
mương không triệt để, tỉ lệ chồi ra hoa thấp hơn so với điều kiện xiết trong mương triệt
để, thời gian bắt đầu hình thành mầm hoa thường kéo dài và mầm hoa phát triển vào cuối
tháng 11 đến đầu tháng 12, khi có điều kiện khô hạn mặc dù thời gian ra hoa và thu hoạch
chôm chôm vẫn sớm hơn vụ thu hoạch chính vụ khoảng 30 ngày. Kết quả nầy, lần nữa
cho thấy biện pháp xiết nước làm giảm ẩm độ đất là yếu tố rất quan trọng lên sự ra hoa
của chôm chôm và để có thể rãi vụ chôm chôm có hiệu quả trong mùa mưa cần thiết phải
chú ý kỹ thuật nầy.
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của PBZ lên đặc tính và phẩm chất trái cho thấy sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Trái chôm chôm có kích thước dài và rộng trung
bình là 4,6 x 3,7 cm , pH thịt trái và độ Brix thịt trái có giá trị lần lượt là 4,0 và 19% .
Trong điều kiện có phủ mặt liếp vỏ trái mỏng hơn làm cho tỉ lệ ăn được của trái cao hơn
trong điều kiện không phủ.
* Ethephon
Zeevaart (1978) cho biết vì xử lý ethylene đòi hỏi cây phải có lá nên tác giả cho
rằng ethylen tác động lên lá hơn là đỉnh sinh trưởng. Bernier (1981) cho rằng một yếu tố
được sinh ra trong lá có thể cần thiết cho đỉnh sinh trưởng đáp ứng với ethylene. Trên cây
chôm chôm Roengrean, Muchjajib (1988) tìm thấy phun ethephon ở nồng độ 1,0 và
1,5mM kích thích sự hình thành mầm hoa sớm 5 ngày. Tuy nhiên, ethephon chỉ có hiệu
quả trên cây còn tơ. Kích thích chôm chôm ra hoa bằng ethephon có tác dụng làm tăng số
trái/cây nhưng không ảnh hưởng bất lợi trên hoa, sự đậu trái hay sự phát triển của trái.
Hình 21 : Công thức hóa học của ethephon
c) Yếu tố ảnh hưởng đến sự ra hoa :
Giống
Đặc điểm ra hoa của những giống chôm chôm rất khác nhau, có giống ra hoa sớm
nhưng cũng có giống ra hoa trễ hơn.
Hình 22 : Trái chôm chôm
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 49
(a) (b)
a) Trái chôm chôm “ Rongrean ” của Thái Lan.
b) Trái chôm chôm “ Java ” của Việt Nam.
Tuổi lá
Trong thời kỳ xiết nước, cây chôm chôm phải có ba đợt lá, khi đợt lá thứ ba già thì
cây sẽ cho hoa (Lê Thanh Phong, 1994). Lá thuần thục cần thiết cho sự ra hoa. Sự hiện
diện của những tán lá non ngăn chặn sự hình thành mầm hoa, do đó việc chăm sóc, xén
tỉa cho cây sau khi thu hoạch rất cần thiết để kích thích cây ra chồi non đồng thời dự trữ
dinh dưỡng cho chu kỳ cảm ứng hoa và phát triển kế tiếp (Nakasone và Paull, 1998). Ở
Thái Lan, người ta khuyến cáo dùng phân MKP (0-52-34) phun ở giai đoạn 1 hoặc 2
tháng trước khi ra mầm hoa để tăng cường độ chín sinh lý của lá, giảm ra lá non, tăng đọt
hoa (Vũ Công Hậu, 1996).
Thời tiết
Thời tiết và khả năng dự trữ chất dinh dưỡng là hai yếu tố quyết định sự ra hoa và
phát triển trái (Whitehead, 1959). Mặc dù cùng họ nhưng khác với nhãn và vải, chôm
chôm không yêu cầu nhiệt độ thấp cho sự ra hoa và thích hợp ở những khu vực nhiệt đới
với nhiệt độ 22-23oC (Nakasone và Paull, 1998). Cây chôm chôm cần có một thời gian
khô hạn ít nhất một tháng để hình thành mầm hoa (Sari, 1983 trích dẫn bởi Vũ Công Hậu,
1996). Thời gian khô hạn có liên quan đến cường độ ra hoa. Nhà vườn xiết nước từ 46-61
ngày, đạt tỉ lệ ra hoa từ 70-90%. Whitehead (1959) cũng cho biết rằng điều kiện thời tiết
trước và ở thời điểm ra hoa có ảnh hưởng đến quá trình phát triển của phát hoa chôm
chôm. Lượng mưa quá lớn trước khi ra hoa sẽ thúc đẩy sự sinh trưởng của cây. Sự khô
hạn làm giảm sự sinh trưởng dinh dưỡng của cây do nó đã thúc đẩy sự thuỷ phân tinh bột
và protein dẫn đến sự gia tăng lượng carbohydrate hoà tan và amino acid. Trong thời gian
khô hạn lượng đạm hữu dụng trong đất cũng giảm. Do đó, tỉ số C/N tăng trong thời kỳ
khô hạn được xem là yếu tố thúc đẩy sự ra hoa chôm chôm. Ở những địa phương chỉ có
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 50
một mùa khô cây chôm chôm mỗi năm ra hoa một lần, những nơi có 2 mùa khô riêng biệt
chôm chôm có thể cho hai vụ quả trên năm (Đường Hồng Dật, 2000). Do ảnh hưởng của
những đợt khô hạn nên ở Malaysia, cây chôm chôm ra hoa hai lần trong năm vào tháng
3-5 và tháng 8-10, trong đó có một mùa thuận và một mùa nghịch. Tuy nhiên, trong năm
nghịch (đối với cây ra trái cách năm) thì hầu như cây không ra hoa trong mùa nghịch.
Nguyên do có lẽ do chất dự trữ trong cây kém và tỉ lệ C/N không phù hợp.
Sản phẩm chôm chôm trái vụ
Xét về sản phẩm chôm chôm trái vụ, chúng ta cần lưu ý một điều : không có sự
khác biệt rõ ràng giữa chôm chôm trái vụ và chôm chôm chính vụ. Tùy thuộc vào từng
điều kiện cụ thể : giống, tuổi thọ, thời tiết, kỹ thuật…mà chất lượng của chôm chôm trái
vụ sẽ khác nhau. Sự so sánh giữ chôm chôm chính vụ và chôm chôm trái vụ là khập
khiễng. Tuy nhiên, trong bài báo cáo này, sự so sánh giữa sản phẩm chính vụ và trái vụ
dựa trên những thống kê của các cơ quan chức năng đã công bố.
Năng suất : là một trong những thông số khác biệt rõ nhất giữa sản phẩm chính vụ
và trái vụ. Năng suất chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các điều kiện ngoại cảnh, đặc biệt là yếu
tố về thời tiết. Bên cạnh đó, phương pháp xử lý và các biện pháp canh tác cũng tác động
không nhỏ lên năng suất.Theo thống kê, năng suất chôm chôm chính vụ vào khoảng 15 –
20 tấn/ha, năng suất chôm chôm trái vụ khoảng 15 – 18 tấn/ha. Tuy nhiên, cá biệt có khi
nghịch vụ lại cho năng suất lên đến 30 tấn/ha.
Khối lượng : sự khác biệt giữa khối lượng chôm chôm chính vụ và trái vụ là
không lớn. Theo kết quả của Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam, sự ảnh hưởng của
mùa vụ đến khối lượng của trái chôm chôm là không lớn. Tuy nhiên, nhân tố ảnh hưởng
lớn nhất đến khối lượng của chôm chôm là biện pháp canh tác. Việc bón phân phù hợp,
tưới nước đầy đủ vẫn có thể đảm bảo được khối lượng của trái chôm chôm.
Màu sắc – Cảm quan : sự tác động của mùa vụ đến 2 thông số này vẫn chưa có
một lời giải thích chính xác nào từ các nghiên cứu. Tuy nhiên, một giả thiết đưa ra là do
sự tác động của thời tiết đến quá trình hình thành màu sắc của quả khi chín.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 51
Bảng 7 : So sánh sản phẩm chôm chôm chính vụ và trái vụ
Chôm chôm chính vụ Chôm chôm trái vụ
Năng suất (tấn/ha) 15-20 15-18
Khối lượng (g) 32 30-32
Màu sắc Màu đỏ đậm Màu đỏ đậm
Cường độ màu không đều
Cảm quan Vị ngọt Vị ngọt kém
4.2.4. Xoài
Xoài có tên khoa học là mangifera indicaL.(Anacardiaceae). Cả thế giới gọi là
"Vua của loài quả".Theo y học hiện đại, xoài có thành phần hóa học như sau:
100g xoài chín cho 65 calo, 17g hydrat cacbon, 3.894 UI.vitamin A (78% nhu cầu hằng
ngày), 28mg vitamin C (46% nhu cầu), 1mg E (10%)... Đường của xoài là loại cấp năng
lượng nhanh. Quả xanh ít vitamin A và nhiều vitamin C. Xoài có những tác dụng sau:
chất glucozit chống viêm, ung thư, diệt khuẩn. Xoài làm giảm cholesterol, hạ huyết áp
phòng chống bệnh tim mạch, tăng nhu động ruột thải nhanh chất cặn bã trong ruột nên
phòng chống được bệnh ung thư ruột kết. Xoài là một thức ăn bổ não, rất tốt cho những
người làm việc nhiều bằng trí óc, thi cử. Tuy nhiên không nên ăn xoài lúc đói bụng và
sau bữa ăn no, đang có các bệnh nhiệt sốt vì bản chất xoài nóng như hành, tỏi, ớt.
Hiện nay, xoài vẫn đang là loại trái cây được người tiêu dùng thích nhất. Có nhiều
giống : xoài cát (Hòa Lộc Tiền Giang), xoài Thơm (Cần Thơ), xoài Bưởi (Cái Bè), một
số giống ít phổ biến: xoài Hòn, Thanh Ca, Battmbang, Xiêm, Tượng.... Tuy nhiên, xoài
cát Hòa Lộc vẫn là giống xoài được trồng khá nhiều và có chất lượng ngon nhất hiện nay.
Xoài cát Hoà Lộc là một trong những giống xoài nổi tiếng nhất ở đồng bằng Sông Cửu
Long - Việt Nam và là một trong những loại quả được ưa chuộng bởi màu sắc hấp dẫn,
mùi vị thơm ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. Những năm gần đây xoài cát Hòa Lộc
đem lại giá trị kinh tế cao cho bà con nhân dân hai tỉnh Bến Tre và Đồng Tháp. Quả xoài
cát Hoà Lộc có trọng lượng trung bình 350-450g/quả, hình thuôn dài, khi chín vỏ màu
vàng nhạt, thịt quả màu vàng tươi, cấu trúc thịt chắc, mịn và ít xơ, vị rất ngon và thơm.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 52
Đặc điểm ra hoa của cây xoài:
Cây xoài ra hoa trên chồi tận ngọn. Hoa xoài có hai loại là hoa đực và hoa lưỡng
tính. Mỗi hoa mang từ 1-2 bao phấn hữu thụ và 1-6 bao phấn bất thụ. Tỉ lệ hoa lưỡng
tính thay đổi tùy giống và điều kiện thời tiết.
Hình 23 : Hoa xoài cát Hòa Lộc
(a) Hoa đực với một bao phấn hữu thụ
(b) Hoa lưỡng tính với bầu noãn và một bao phấn bất thụ
Khảo sát sự biến đổi của đỉnh sinh trưởng khi cây xoài ra hoa trong điều kiện tự
nhiên, Mustard và Lynch (1946) cho rằng khi thấy xuất hiện sự nhô lên ở đỉnh sinh
trưởng là dấu hiệu của sự ra hoa. Tuy nhiên, qua kết quả thí nghiệm, Samala (1979) nhận
thấy chỗ nhô nầy bất động trong 15 tháng và sau đó phát triển thành chồi lá và tác giả kết
luận rằng đây là những mầm trong tình trạng ngủ và nó có khả năng phát triển thành chồi
lá hay chồi hoa. Khi xử lý Nitrate kali, tác giả nhận thấy sau 4 ngày đỉnh sinh trưởng bắt
đầu nhô lên, sự hoạt động của hoa đã hình thành sau 6 ngày và các bộ phận của phát hoa
kéo dài và có thể thấy được sau 8 ngày. Từ kết quả quan sát nầy, Samala (1979) kết luận
rằng Nitrate kali tác động như một tác nhân kích thích, phá vỡ sự ngủ nghỉ của mầm đã
hiện diện trước và thúc đẩy sự phân hóa thành hoa.
Dựa vào vị trí ra hoa, cây xoài được xếp vào nhóm ra hoa ở chồi tận ngọn cùng
nhóm với vải, nhãn và bơ. Trong nhóm nầy, cây xoài có đặc điểm khác hơn các loại cây
khác là trong thời kỳ mang trái cây xoài không ra đọt (trên chồi mang trái). Đặc tính nầy
làm cho cây xoài không phát triển được tán cây trong giai đoạn mang trái và gây ra tình
trạng ra trái cách năm (Cull, 1991). Xoài ra hoa theo mùa và cách năm (Bondad, 1980)
mà nguyên do có thể do đặc tính sinh trưởng của cây xoài. Cây xoài sinh trưởng do
những đợt ra đọt từ chồi ngọn mà sự xuất hiện những đợt đọt mới phụ thuộc vào yếu tố
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 53
khí hậu, điều kiện môi trường, tuổi cây và lượng trái mà cây xoài mang ở mùa trước
(Nakasone và cộng sự.., 1955). sau khi thu hoạch và đợt thứ hai xuất hiện vào tháng 6
hoặc tháng 7 và ra hoa tự nhiên vào tháng 10.
Hình 24 : Xoài ra hoa-đậu trái ở chồi tận cùng
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra hoa:
Giống:
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự ra hoa trên cây xoài là
giống. Một số yếu tố khác là khí hậu, đặc điểm sinh trưởng, sự trưởng thành của chồi,
năng suất của cây, tình trạng dinh dưỡng và chất điều hòa sinh trưởng của cây (Pandey
and Kishore, 1987).
Tuổi cây và tuổi lá
Ảnh hưởng của tuổi cây lên sự ra hoa xoài bao gồm nhiều yếu tố như hàm lượng
các chất đồng hóa hay các chất điều hòa sinh trưởng. Chacko và Ananthanarayanan
(1982) cho biết hàm lượng tinh bột trong vỏ của cây xoài ra hoa nhiều gấp 10 lần so với
cây xoài còn tơ với sự thúc đẩy sự luân chuyển và sự di chuyển của đường và protein
trong thời gian kích thích mầm hoa và phát triển.
Lá có vai trò quan trọng trong sự kích thích ra hoa (Sen và cộng sự..., 1972). Vai
trò sinh lý của lá xoài trong sự ra hoa còn được chứng minh qua thí nghiệm của Singh và
Singh (1972) cho thấy rằng trên cây xoài không có hiện tượng ra trái cách năm thì ra
nhiều chồi bên hơn so với cây xoài ra trái cách năm.
Chất dinh dưỡng và chất đồng hóa hay tỉ số C/N
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 54
Để giải thích vai trò của chất đạm và chất carbohydrate biến đổi trên sự ra hoa
xoài, Chadha và Pal (1986) khẳng định rằng trong nhiều trường hợp không có sự liên
quan giữa sự phân hóa mầm hoa với chất đạm và carbohydrate trong chồi nhưng chất
đạm và carbohydrate dự trữ giữ vai trò quan trọng trong sự phân hóa mầm hoa, mặc dù
đây không phải là yếu tố đầu tiên.
Chất điều hòa sinh trưởng:
Chất điều hòa sinh trưởng là một trong những yếu tố trong giả thuyết “đa yếu tố“
(multifactorial) nhằm giải thích quá trình chuyển đổi sang sự ra hoa của cây trồng
(Bernier và cộng sự..., 1993). Nhiều tác giả cho rằng sự cân bằng của các chất điều hòa
sinh trưởng ở đỉnh sinh trưởng là nguyên nhân gây ra sự ra hoa. Điều nầy ám chỉ vai trò
chung hoặc riêng biệt của các chất Auxin, Gibberellin, Cytokinin và các chất ức chế
trong cơ chế sự ra hoa (Zeevart, 1976).
Các biện pháp kích thích ra hoa trái vụ:
Giai đoạn sau khi thu hoạch
Cây xoài ra hoa trên chồi tận cùng nên việc kích thích cho xoài ra đọt non là yếu
tố quan trọng quyết định khả năng ra hoa của xoài. Do đó, sau khi thu hoạch xoài chính
vụ vào tháng 4-5 cần tiến hành các biện pháp kỹ thuật để thúc đẩy cây ra đọt non tập
trung để dễ phòng trừ sâu bệnh và kích thích ra hoa. Các biện pháp quan trọng cần thực
hiện là:
Tỉa bỏ những phát hoa đã rụng trái, cành vô hiệu trong mình mẹ, cành ốm yếu,
bị sâu bệnh hoặc che rợp lẫn nhau gây trở ngại cho việc chăm sóc, phòng trừ
sâu bệnh và thu hoạch. Thông thường những phát hoa đã rụng bông và trái non
phải mất 3-4 tháng mới rụng. Do đó, nếu cắt bỏ những phát hoa nầy sẽ kích
thích cho cây ra đọt sớm hơn.
Bón phân: giúp cho cây ra chồi mập, lá to, tích lũy nhiều chất dự trữ giúp cho
cây có khả năng ra hoa và nuôi trái trong mùa sau. Đây là giai đoạn thúc đẩy sự
sinh trưởng của cây nên công thức phân thường có đạm và lân cao hơn so với
kali như 2:1:1, 2:2:1 hay 3:2:1. Lượng phân bón tùy theo tuổi cây, tình trạng
sinh trưởng và năng suất mùa trước.
Tưới nước: 2-3 ngày/lần giúp cho cây xoài ra đọt tập trung
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 55
Đối với cây già (20-30 năm tuổi) khả năng ra đọt kém, cần kích thích cho cây ra
đọt non bằng cách phun urê ở nồng độ 1,5-2,0% hoặc gibberellin ở nồng độ từ 5-10 ppm
hoặc thiourea ở nống độ 0,5%.
Giai đoạn ra đọt non
Sự phát triển của đọt non có ảnh hưởng rất quan trọng đến khả năng ra hoa và nuôi
trái của cây xoài, do đó cần chú ý phòng trừ các loại sâu, bệnh để bảo vệ cho đọt non xoài
phát triển tốt. Các loại sâu bệnh cần chú ý phòng trừ trong giai đoạn này là: bệnh thán thư
(Colletotrichum gloeosporioides), rầy bông xoài (Idiocerus spp.) hay một số lọai sâu ăn lá
như châu chấu xanh (Hypomeces squamosus). Trường hợp bón phân không đúng lúc hay
lượng phân không đầy đủ chồi non xuất sẽ ngắn, ốm yếu. Có lẽ bổ sung bằng cách phun
các lọai phân bón qua lá.
Xử lý paclobutrazol
Thời điểm xử lý: khi lá non đã phát triển hoàn toàn, lá có đỏ hay vàng nhạt (15-20
ngày tuổi) hay lá có màu đọt chuối đến màu xanh nhạt. Không nên xử lý hóa chất
khi lá đã già (có màu xanh đậm).
Liều lượng: 1-2 g a.i./m đường kính tán. Liều lượng hóa chất tùy thuộc vào tuổi
cây, tình trạng sinh trưởng của cây. Cây tơ nên xử lý hóa chất ở nồng độ cao hơn
so với cây trưởng thành. Cây sinh trưởng mạnh nên xử lý nồng độ cao hơn cây
sinh trưởng kém. Liều lượng paclobutrazol cũng tùy thuộc vào từng giống. Nồng
độ quá cao có thể làm cho phát hoa ngắn hay chùn lại, không có khả năng đậu trái.
Cách xử lý: xới đất xung quanh tán cây, bề rộng từ 20-50 cm, sâu từ 10-15 cm.
Sau đó pha hóa chất với 20-50 lít nước tưới đều vùng đất đã xới. Đối với vùng đất
tơi, xốp, có nhiều cát nên tưới với lượng nước ít hơn để tránh cho dung dịch hóa
chất bị mất theo con đường thẩm lậu. Một tuần sau khi xử lý hóa chất nên tưới
nước đầy đủ để rễ cây xoài có thể hấp thụ hóa chất hoàn toàn.
Hình 25 : Phát hoa xoài thanh ca
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 56
Kích thích ra hoa
Một tháng trước khi kích thích ra hoa cần làm giảm sự sinh trưởng của cây bằng
cách bón phân với tỉ lệ phân đạm thấp, tăng tỉ lệ lân và kali. Tiếp theo phun MKP (0-52-
34) ở nồng độ 0,5% ở giai đoạn 10-15 ngày trước khi phun chất kích thích ra hoa để giúp
cho lá mau trưởng thành, tăng tỉ lệ đậu trái và ngăn cản sự ra đọt non. 5-7 ngày trước khi
kích thích ra hoa nên phun thuốc phòng ngừa các loại sâu bệnh như bệnh thán thư
(Colletotrichum gloeosporioides), rầy bông xoài và sâu ăn bông.
Sau khi xử lý paclobutrazol 75-90 ngày có thể tiến hành phun hóa chất kích thích
cho xoài ra hoa bằng cách phun thiourea ở nồng độ 0,3-0,5% hay nitrate kali ở nồng độ
2,0-2,5%, 5-7 ngày sau phun lại lần hai với hóa chất tương tự nhưng nồng dộ giảm 50%.
Cần chú ý là điều kiện mưa dầm, ẩm độ đất cao có thể kích thích mầm lá phát triển thay
vì mầm hoa. Do đó chỉ nên kích thích ra hoa khi trời khô ráo và rút nước trong mương
khô kiệt cho đến khi mầm hoa xuất hiện.
Thời gian xuất hiện mầm hoa tùy theo giống và thời vụ. Quá trình phát triển hoa từ
khi xử lý đến khi kết thúc quá trình nở hoa của bốn giống xoài Nam Dok Mai, cát Hòa
Lộc, Thơm và Thanh Ca được trình bày ở bảng sau.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 57
Bảng 8 : Quá trình phát triển hoa từ khi xử lý đến khi kết thúc quá trình nở hoa của
bốn giống xoài Nam Dok Mai, cát Hòa Lộc, Thơm và Thanh Ca (Đặng Thanh Hải,
2000)
Giống Thời gian từ khi xử lý đến nhú mầm hoa (ngày)
Thời gian từ khi nhú mầm hoa
đến khi hoa nở (ngày)
Thời gian hoa
nở (ngày)
Nam Dok
Mai 7-9 14-15 10
Cát Hòa
Lộc 7-9 14-15 12
Thơm 5-6 14 10
Thanh Ca 6-7 15 9
Giai đoạn nở hoa
Để làm tăng tỉ lệ đậu trái có thể phun các sản phẩm có chứa Bo (B) trước khi hoa
nở hay auxin như NAA giai đoạn 3-4 ngày sau khi hoa nở. Chú ý phun NAA ở nồng độ
cao có thể làm rụng trái non do ở nồng độ NAA kích thích sự tạo thành etylen kích thích
sự rụng trái.
Hoa xoài thụ phấn chéo, chủ yếu nhờ côn trùng như ruồi nên tuyệt đối không phun
các loại thuốc trừ sâu bệnh, phân bón trong giai đoạn nầy để không làm ảnh hưởng đến
quá trình thụ phấn của hoa.
Giai đoạn phát triển trái
Giai đoạn 7-10 ngày sau khi đậu trái (khi thấy “trứng cá”): phun phân bón lá như:
15-30-15 hoặc Canxi nitrat (0,2%) để giúp quá trình phân chia tế bào và làm giảm
sự rụng trái non.
Giai đoạn 28-35 ngày sau khi đậu trái: Chú ý phòng ngừa sâu đục trái (hột)
(Deandis albizonalis). Phun GA3 5-10 ppm để làm giảm sự rụng trái non.
Giai đoạn 30-35 ngày sau khi đậu trái: Bón phân gốc với tỉ lệ 1:1:1 để giúp cho
trái phát triển. Có thể phun canxi nitrat ở nồng độ 0,2% để hạn chế sự nứt trái. Có
thể phun 2-3 lần cách nhau 10 ngày/lần để làm tăng phẩm chất trái.
Giai đoạn 55-60 ngày sau khi đậu trái: Nếu trái phát triển chậm nên bón thêm phân
vào đất để giúp trái phát triển tốt. Bao trái để ngừa sâu, bệnh.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 58
Giai đoạn 70-75 ngày sau khi đậu trái: Phun KNO3 nồng độ 1% lên trái để tăng
phẩm chất trái như màu sắc, độ ngọt.
Giai đoạn 84-90 ngày sau khi đậu trái: Thu hoạch khi trái đã phát triển bề rộng, bề
ngang, “lên màu” hoặc tỉ trọng bằng 1,02. Có thể xác định thời điểm thu hoạch
thích hợp bằng cách cho trái xoài vào nuớc, nếu trái chìm dưới đáy từ từ thì vừa
thu hoạch, nếu nổi lơ lửng là chưa thật già và nếu chìm quá nhanh tức là trái đã
quá già.
Hình 26 : Quy trình xử lý xoài ra hoa mùa nghịch, thu hoạch vào dịp tết nguyên
đán được tóm tắt như sau:
Sản phẩm xoài trái vụ:
Xử lý cho xoài ra trái sớm vừa được mùa, được giá, vừa tránh được mùa xoài thu
hoạch rộ ở các tỉnh lân cận trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Xử lý xoài cho trái
sớm, ngoài lợi thế về giá còn có lợi thế về mùa vụ, có thể thu hoạch 2-3 vụ trong năm,
tránh được tình trạng xoài trổ hoa gặp mưa bão, tranh thủ vụ thứ hai trong năm mà không
bị động bởi khâu tiêu thụ.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 59
Nếu xét về chất lượng, xoài trái vụ thường không tốt bằng xoài chính vụ. Xoài trái
vụ thường có độ ngọt kém hơn, trọng lượng trái nhỏ hơn và năng suất thấp hơn.
Bảng 9 : So sánh xoài trái vụ và chính vụ
Xoài chính vụ Xoài trái vụ
Năng suất (tấn/1000m2) 5,5-6 5
Khối lượng (g) 600 - 1500 500- 1500
Màu sắc Màu vàng tươi Màu vàng nhạt
Cảm quan Vị ngọt thanh Vị ngọt kém hơn, xoài có
vị chua hơn
4.2.5. Thanh long
Cây thanh long (tên tiếng Anh là Pitahaya, hay còn gọi là Dragon fruit, thuộc họ
xương rồng, có nguồn gốc ở các vùng sa mạc thuộc Mehico và Colombia. Thanh 1ong
được người Pháp đem vào trồng ở Việt Nam trên 100 năm nay, nhưng mới được đưa lên
thành hàng hóa từ thập niên 1980. Việt Nam hiện nay là nước duy nhất ở Đông Nam Á
có trồng thanh long tương đối tập trung trên qui mô thương mại với diện tích ước lượng
4.000 hecta (1998), tập trung tại Bình Thuận 2.716 hecta, phần còn lại là Long An, Tiền
Giang, TP. HCM, Khánh Hòa và rải rác ở một số nơi khác. Nông dân Việt Nam với sự
cần cù sáng tạo đã đưa trái thanh long lên mặt hàng xuất khẩu làm nhiều người ngoại
quốc ngạc nhiên. Hiện nay, nước ta đã xuất khẩu thanh long qua nhiều nước dưới dạng
quả tươi. Riêng thị trường Nhật do sự kiểm dịch thực vật rất khắt khe trong vài năm gần
đây đã chỉ nhập thanh long dưới dạng đông lạnh. Ở Bình Thuận nói riêng và Nam bộ nói
chung mùa thanh long tự nhiên xảy ra từ tháng 4 tới vườn tháng 10, rộ nhất từ tháng 5 tới
tháng 8. Vào thời điểm ấy giá rẻ , một số nhà vườn tiến bộ đã phát hiện, hoàn chỉnh dần
từng bước kỹ thuật thắp đèn tạo quả trái vụ để chủ động thu hoạch, nâng cao hiệu quả
kinh tế. Vài năm gần đây Thái Lan, Taiwan và cả Trung Quốc cũng đã bắt đầu nghiên
cứu trồng cây này.
Thanh long có nguồn gốc nhiệt đới, chịu hạn giỏi, nên được trồng ở những vùng
nóng. Một số loài chịu được nhiệt độ từ 500C tới 550C . Nhưng nó không chịu được giá
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 60
lạnh. Chúng thích hợp khi trồng ở các nơi có cường độ ánh sáng mạnh, vì thế hễ bị che
nắng thân cây sẽ ốm yếu và lâu cho quả. Cây mọc được trên nhiều loại đất khác nhau như
đất xám bạc màu (Bình Thuận), đất phèn (TP.HCM), đất đỏ latosol (Long Khánh)…; nó
có khả năng thích ứng với các độ chua (pH) của đất rất khác nhau. Khi trồng thanh long
nên chọn các chân đất có tầng canh tác dày tối thiểu 30 - 50 cm và để có năng suất cao
nên tưới và giữ ẩm cho cây vào mùa nắng.
Sự ra hoa của thanh long:
Thanh long là cây ngày dài (trường quang kỳ). Tại Nam Bộ hoa xuất hiện sớm
nhất vào trung tuần tháng 3 dương lịch và kéo dài tới khoảng tháng 10 dương lịch, rộ
nhất từ tháng 5 dương lịch tới tháng 8 dương lịch. Trung bình có từ 4 - 6 đợt ra hoa rộ
mỗi năm.
Hoa lưỡng tính, rất to, có chiều dài trung bình 25 - 35 cm, nhiều lá đài và cánh hoa
dính nhau thành ống, nhiều tiểu nhị và 1 nhụy cái dài 18 - 24 cm, đường kính 5-8 mm,
nuốm nhụy cái chia làm nhiều nhánh. Hoa thường nở tập trung từ 20 - 23 giờ đêm và
đồng loạt trong vườn. Từ nở đến tàn kéo dài độ 2 - 3 ngày. Thời gian từ khi xuất hiện nụ
tới hoa tàn độ 20 ngày. Các đợt nụ đầu tiên rụng từ 30% đến 40%, về sau tỉ lệ này giảm
dần khi gặp điều kiện ngoại cảnh thuận lợi.
Xử lý thanh long trái vụ:
Có nhiều phương pháp xử lý thanh long trái vụ. Tuy nhiên, xét về tổng quan thì có
3 phương pháp phổ biến : thắp điện vào ban đêm, biện pháp thâm canh, dung chất điều
hòa sinh trưởng. Hiện nay, phương pháp thắp điện vào ban đêm đang được sử dụng phổ
biến và cho hiệu quả rất cao.
Phương pháp thắp đèn vào ban đêm:
Một đặc điểm khác biệt của thanh long so với các loại cây khác là cây chỉ ra hoa
nhiều trong điều kiện ngày dài hơn đêm. Nếu thời gian chiếu sáng nhỏ hơn thời gian
chiếu sáng tới hạn thì cây thanh long sẽ không ra hoa. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này
vẫn chưa có một lời giải thích chính xác nào vể cơ chế này. Phương pháp này được tiến
hành tương đối đơn giản:
Trước khi xử lý : cần bón phân NPK với tỷ lệ 33:11:11
Kỹ thuật xử lý bằng phương pháp chiếu sáng :
Sử dụng điện lưới hoặc máy nổ, nguồn điện ổn định
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 61
Sử dụng bóng đèn tròn 75-100W
Khoảng cách từ bóng đèn đến tán cây từ 0.5 -1 m
Thời gian chiếu sáng ban đêm từ 4-8h
Tổng thời gian chiếu sáng từ 15-20 ngày
Phương pháp thâm canh:
Phương pháp này gồm 2 công việc chủ yếu : bón phân để tạo nhánh sớm và tạo
tán, tỉa chồi. Tuy nhiên, phương pháp này thường không áp dụng một mình mà kết hợp
với phương pháp khác.
Phương pháp dùng chất điều hòa sinh trưởng :
Thường dùng một số chất điều hòa sinh trưởng như Gibberenllen, KNO3 phối hợp
với phân vi lượng và axít humic...Tuy nhiên, đối với thanh long, biện pháp này hầu như
không còn sử dụng.
Sản phẩm thanh long trái vụ:
Sản phẩm thanh long trái vụ không có sự khác biệt rõ rệt so với thanh long chính
vụ. Tuy nhiên, nếu xét về độ ngọt và vị ngọt, trái thanh long trái vụ thường kém hơn so
với thanh long chính vụ.
Bảng : So sánh thanh long chính vụ và trái vụ
Thanh Long chính vụ Thanh Long trái vụ
Năng suất
( tấn/ha)
20-30 20
Khối lượng ( g ) 300-500 300-450
Màu sắc Màu đỏ đậm Màu đỏ nhạt hơn
Cảm quan Vị ngọt thanh, trái đồng đều, đẹp Vị ngọt thanh, độ đồng đều
kém
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 62
PHẦN V HƯỚNG PHÁT TRIỂN - MỚI KẾT LUẬN CHUNG
1. Hướng phát triển mới : trồng rau bằng phương pháp khí canh
Hình 27 : Trồng rau bằng phương pháp khí canh
Lần đầu tiên tại Việt Nam xuất hiện công nghệ trồng cây không cần đất nhưng vẫn
cho ra các sản phẩm cây trồng sạch. Công nghệ này cũng có thể dùng để trồng rau, quả
cho các hộ gia đình.
GS.TS Nguyễn Quang Thạch, nguyên viện trưởng viện Sinh học nông nghiệp (Hà
Nội), chủ nhiệm của đề tài nghiên cứu ứng dụng trồng cây không cần đất cho biết, đây là
công nghệ lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Công nghệ có tên gọi “công nghệ
khí canh trong sản xuất giống cây trồng”, hoạt động bằng cách phun sương kích thích cây
ra rễ mà không cần đến sự tham gia của đất. Nguyên lý của công nghệ là phun dinh
dưỡng dạng sương mù vào bộ rễ. Rễ cây không trực tiếp nhúng vào dung dịch dinh
dưỡng. Thời gian phun và số lần phun trong ngày được điều chỉnh hợp lý tuỳ theo tình
trạng sinh lý của cây và nhiệt độ môi trường bên ngoài. Vì có thể điều khiển tự động thời
gian phun, dung dịch dinh dưỡng… nên có thể tính chính xác chế độ dinh dưỡng cho
từng cây, chẳng hạn cây lấy lá có thể tăng thêm hàm lượng natri, cây lấy củ thêm kali.
GVHD: ThS Tôn Nữ Minh Nguyệt
Rau trái trái vụ Trang 63
Ngoài ra, cũng có thể dùng máy bơm cao áp, khí nén, áp lực nước… phun để cây sinh
trưởng.
Bộ rễ cây trồng theo công nghệ này hoàn toàn nằm trong không khí, chất dinh
dưỡng và nước được phun theo chu kỳ lên toàn bộ hệ rễ. Dung dịch thừa được thu lại,
lọc, bổ sung tiếp tục sử dụng. “Do không cần thường xuyên tiếp xúc một lớp nước dày
nên trọng lượng của hệ khí canh tương đối nhẹ, dễ bố trí trên nóc các sân thượng ở các
thành phố vừa thu được rau sạch, vừa tạo cảnh quan xanh cho các gia đình”, ông Thạch
nói. Theo tính toán sơ bộ, áp dụng công nghệ khí canh có thể giảm 98% chi phí về nước,
95% phân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- RAUTRAITRAIVU.pdf