Tài liệu Tiểu luận Những điều kiện phát triển của du lịch Việt Nam hiện nay: 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA DU LỊCH HỌC
Tiểu luận: Những điều kiện phát triển của
Du Lịch Việt Nam hiện nay
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hà
Lớp: Du lịch bằng kép 2
Hà Nội ngày 15 tháng 1 năm 2011
2
Phụ Lục Trang
I GIỚI THIỆU VIỆT NAM …………………………………………………2
II NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHUNG…………………………………………17
2.1Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội……………………………..17
2.2Điều kiện kinh tế…………………………………………………………..20
2.3Chính sách phát triển du lịch………………………………………………23
III CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ THÂN LÀM NẢY SINH DU LỊCH……………23
3.1Thời gian rỗi………………………………………………………………..23
3.2 Khả năng tài chính của du khách tiềm năng……………………………….24
3.3 Nhận thức…………………………………………………………………..26
IV KHẢ NĂNG CUNG ỨNG NHU CẦU DU LỊCH…………………………26
4.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên
nhiên……………………………………..…………………………………….26
4.2 Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân
văn……………………..………………………………………………………30
4.3 Một s...
39 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Những điều kiện phát triển của du lịch Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA DU LỊCH HỌC
Tiểu luận: Những điều kiện phát triển của
Du Lịch Việt Nam hiện nay
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hà
Lớp: Du lịch bằng kép 2
Hà Nội ngày 15 tháng 1 năm 2011
2
Phụ Lục Trang
I GIỚI THIỆU VIỆT NAM …………………………………………………2
II NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHUNG…………………………………………17
2.1Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội……………………………..17
2.2Điều kiện kinh tế…………………………………………………………..20
2.3Chính sách phát triển du lịch………………………………………………23
III CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ THÂN LÀM NẢY SINH DU LỊCH……………23
3.1Thời gian rỗi………………………………………………………………..23
3.2 Khả năng tài chính của du khách tiềm năng……………………………….24
3.3 Nhận thức…………………………………………………………………..26
IV KHẢ NĂNG CUNG ỨNG NHU CẦU DU LỊCH…………………………26
4.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên
nhiên……………………………………..…………………………………….26
4.2 Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân
văn……………………..………………………………………………………30
4.3 Một số tình hình và sự kiện đặc
biệt……………………………………………………………………………..31
4.4 Sự sẵn sàng đón tiếp du khách…………………………………………...33
V XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM…………………….34
3
Lời giới thiệu
Là một đất nước giàu tiềm năng du lịch, Việt Nam chúng ta có điều kiện trở
thành một quốc gia phát triển về du lịch. Để đạt được mục tiêu đó có rất
nhiều việc phải làm nhưng trước hết mỗi công dân của nước Việt Nam đặc
biệt là những người làm trong ngành du lịch phải hiểu rõ được những điều
kiện để phát triển Du Lịch Việt Nam. Đó cũng là lý do tôi viết đề tài tiểu luận
này.
I: GIỚI THIỆU VIỆT NAM
4
5
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1.1 Vị trí địa lý
Tọa độ:
Kinh tuyến: 102o 08’ đến 109o28’ đông
Vĩ tuyến: 8o02 đến 23o23’ bắc
Diện tích: 331.211,6 km2
Lãnh hải: rộng 12 hải lý , tính từ đường cơ sở.
Vùng đặc quyền kinh tế: rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ sở.
Dân số 86,93 triệu người( theo tổng cục thống kê Việt
Nam năm 2010)
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có
chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo,
vùng biển và vùng trời. Nhìn trên bản đồ, Việt Nam là một dải đất hình chữ
S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía đông bán đảo Đông Dương,
phía bắc nam giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào, Cămpuchia, phía đông,
nam và tây nam là biển Đông. Bờ biển Việt Nam dài 3.260km, biên giới đất
liền dài 4.510km. Trên đất liền, từ điểm cực bắc đến điểm cực nam (theo
đường chim bay) dài 1.650km, từ điềm cực đông sang cực tây nơi rộng nhất
600km (Bắc Bộ), 400km (Nam Bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình).
1.2 Địa hình
Phần đất liền:
6
Núi: vị trí địa lý cùng với lịch sử phát triển lãnh thổ lâu dài và phức tạp đã
tạo cho Việt Nam một hoàn cảnh tự nhiên khá độc đáo. Ba phần tư diện tích
đất liền là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Độ cao địa hình dưới
1.000m (so với mực nước biển) chiếm tới 85%. Núi cao trên 2.000m chỉ
chiếm khoảng 1%. Căn cứ vào lịch sử phát triển của lãnh thổ thì các núi của
Việt Nam đều là những núi già được trẻ lại. Trong số những đỉnh núi cao của
Việt Nam có đỉnh Phanxipăng (Lào Cai) cao nhất với độ cao 3.143m.
Miền Bắc và đông bắc Bắc bộ (tả ngạn sông Hồng) có các nếp núi uốn
dạng hình cánh cung bao quanh khối núi vòm sông Chảy, mở rộng về phía
tây bắc, quay mặt lồi về phía đông, một đầu chụm lại ở Tam Đảo. Các cánh
cung đó là Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, và Đông Triều. Địa hình núi thấp
chiếm phần lớn diện tích của vùng. Theo hướng các dãy núi là hướng vòng
cung của các thung lũng sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam,…
Miền Tây Bắc và Bắc Trung bộ (từ hữu ngạn sông Hồng chạy đến núi
Động Ngài-Bạch mã, Thừa Thiên Huế) có những nét khác biệt khá rõ nét so
với địa hình miền Bắc và đông bắc Bắc bộ. Đây là vùng núi non trùng điệp,
hùng vĩ, có nhiều núi cao, vực sâu, sườn dốc, lắm thác, nhiều ghềnh. Núi non
toàn khu vực này không phải là một khối duy nhất mà là nhiều dãy núi chạy
theo hướng tây bắc-đông nam, so le nhau.. Xen giữa các dãy núi có nhiều cao
nguyên đá vôi rất đồ sộ, điển hình là dãy cao nguyên đá vôi chạy dọc theo
thung lũng sông Đà, từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, dài chừng 400km, rộng từ
10 đến 25km, cao từ 600 đến 1000m. Hướng nghiêng chung địa hình toàn
miền là tây bắc-đông nam. Các đỉnh núi cao thường phân bố ở trên biên giới
tây bắc và thấp dần ra biển. Riêng mạch núi Trường Sơn có thể coi như một
cánh cung lớn, mặt lồi quay về phía biển Đông và có hai sườn không cân đối,
sườn phía đông dốc xuống biển còn sườn phía tây thoải dần tới thung lũng
sông Mê Kông.
7
Các mạch núi miền này thường chạy đâm ngang ra sát biển, không còn
chỗ cho các đồng bằng chây thổ lớn phát triển nên đồng bằng và thềm lục địa
ở đây đều hẹp. Bờ biền khúc khủy, gập ghềnh, núi cao trên 2.000m đứng
cạnh các hố biển cũng sâu 2.000m. Miền này ít có các vùng đồi núi thấp,
trung du rõ nét như ở miền Bắc và đông Bắc bộ. Địa hình toàn khu vực tạo ra
thế hiểm trở, khó thông thương với các khu vực lân cận, nhưng mối giao lưu
giữa miền ngược và miền xuôi lại tương đối dễ dàng và thuận lợi.
Vùng Nam Trung bộ và Nam bộ (từ núi Động Ngài và Bạch Mã trở vào
phía nam). Phía tây nam Trung bộ là môt vùng sơn nguyên đồ sộ, trong đó
nổi lên là các cao nguyên đất đỏ bazan có dạng xếp tầng, chênh nhau tới
500m, bên cạnh đó là các mạch núi bao quanh phía bắc và phía nam sơn
nguyên. Phía đông của Nam Trung bộ có các mạch núi nam Trường Sơn đâm
ngang, chia cắt địa hình thành những ô nhỏ. Phần còn lại nằm ở phía nam là
vùng đồng bằng rộng lớn.
Đất: đất nông nghiệp chiếm 22,2%; đất lâm nghiệp chiếm 29,12% diện tích
đất tự nhiên. Trên lãnh thổ Việt Nam, đất thuộc nhiều thành phần, nhưng
chiếm diện tích hơn cả là hai nhóm đất: Feralit ở các miền đồi núi và đất phù
sa ở vùng đồng bằng. Đất Feralit hình thành trên đá vôi (phân bố chủ yếu ở
miền Bắc) và trên đá bazan (phân bố chủ yếu ở miền Nam).
Đất phù sa là loại đất được bồi tụ của các con sông. Tùy theo vị trí địa
lý, loại đất này có thể được bồi hằng năm và không được bồi hằng năm. Dù là
loại đất nào thì tính năng của mỗi loại vẫn có thể thích ứng cho những loại
cây trồng khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú trong danh mục cây trồng
ở Việt Nam.
Rừng: Rừng của Việt Nam là rừng rậm điển hình của rừng nhiệt đới. Trong
các loài cây rừng đa phần rụng lá vào mùa khô. Nhưng tùy theo vị trí và độ
ẩm khác nhau mà có rừng rậm đến rừng thưa, xa van và đồng cỏ. Bên cạnh
các kiểu rừng nhiệt đới còn có các kiểu rừng cận nhiệt đới trên núi trung bình
8
hay núi cao. Ven biển và miền Tây Nam bộ còn có loại rừng ngập mặn chủ
yếu là các loài sú, vẹt, trang, đước…
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, rừng Việt Nam đã bị tàn phá nặng nề.
Tính đến năm 2009, độ che phủ của rừng Việt Nam đạt 39,1 % (tăng 1,1% so
với năm 2006). Đất trống đồi trọc vẫn chiếm tỉ lệ lớn, chất lượng rừng tiếp
tục bị suy giảm: gỗ quý ngày càng hiếm, một số loài thú quý hiếm đang đứng
trước nguy cơ tuyệt chủng nếu không được bảo vệ.
Sông: Việt Nam có 2.860 con sông có chiều dài từ 10km trở lên. Dọc theo bờ
biển, cứ khoảng 20km lại có một cửa sông. Sông của Việt Nam thường là
sông nhỏ, ngắn và dốc. Các sông lớn như Mê Kông, sông Hồng thì chỉ có
phần hạ lưu chảy qua lãnh thổ Việt Nam. Hướng chảy của hầu hết các con
sông chủ yếu là tây bắc- đông nam. Tuy nhiên cũng có một số sông chảy theo
hướng vòng cung, uốn dòng theo các cánh cung của núi như sông Cầu, công
Thương, sông Lục Nam.
Nhìn chung sông ngòi Việt Nam có tổng lượng nước chảy lớn và mang
theo lượng phù sa cao bồi đắp lên hai đồng bằng lớn nhất là đồng bằng châu
thổ sông Hồng (do sông Hồng bồi đắp) và đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long (do sông Mê Kông bồi đắp).
Đồng bằng: hai đồng bằng lớn nằm ở Bắc bộ: đồng bằng châu thổ sông
Hồng, và Nam bộ: đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Đồng bằng Bắc bộ diện tích khoảng 15.00kmk2 được bồi tụ bởi phù sa
của nhiều con sông nhưng chủ yếu là do hệ thống sông Hồng và sông Thái
Bình.
9
Đồng bằng sông Cửu Long do phù sa của hệ thống sông Cửu Long (sông Mê
Kông) bồi đắp, diện tích trên 40.000km2. Địa hình thấp và bằng phẳng. Hiện
nay đồng bằng Nam bộ vẫn tiếp tục phát triển mạnh về phía tây nam (mũi Cà
Mau), hàng năm lấn ra biển tới 60-80m. Địa hình ở đây thấp nên nước biển
có năm xâm nhập tới 1/3 diện tích.
Nối hai đồng bằng lớn là một dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển chạy suốt từ
Bắc vào Nam, được ví như cây đòn gánh gánh hai vựa lúa của Việt Nam ở
bắc và Nam bộ.
Vùng biển: ngày 12 tháng 5 năm 1977, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã công bố văn bản khẳng định vùng lãnh hải rộng 12 hải lý; vùng
đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ sở. Biển của Việt Nam
nằm ở phía đông, nam và tây nam phần đất liền của Việt Nam, có diện tích
10
gấp nhiều lần so với diện tích phần đất liền và nằm trong biển Đông-một biển
lớn và kín thuộc Thái Bình Dương.
Biển của Việt Nam là biển nóng quanh năm. Nhiệt độ nước biển trên
mặt bao giờ cũng cao hơn nhiệt độ của không khí.
Chế độ thủy triều trong vùng biển Việt Nam rất phức tạp. Những đoạn bờ
biển như Móng Cái-Quảng Bình, Đà Nẵng-Mũi Kê Gà (mũi Ba Kiềm), mũi
Cà Mau-Hà Tiên đều có chế độ nhật triều (mỗi ngày đem chỉ một lần nước
lên và một lần nước xuống). Các đoạn bờ biển còn lại thuộc chế độ bán nhật
triều (một ngày đêm có hai lần nước lên, hai lần nước xuống).
Trong vùng biển có hai dòng hải lưu lớn, một dòng hải lưu hướng đông
bắc-tây nam phát triển mạnh trong mùa đông và một dòng hải lưu hướng tây
nam-đông bắc, hoạt đọng trong mùa hè. Cả hai dòng hải lưu đó hợp thành
một vòng tròn thống nhất. Ngoài ra, trong vịnh Bắc bộ còn có hai dòng hải
lưu nhỏ, hướng thay đổi theo hướng gió mùa.
Vùng biển Việt Nam có khoảng 4 nghìn hòn đảo, trong đó riêng vịnh
Bắc bộ đã có 3 nghìn đảo lớn nhỏ. Gần bờ biển Trung bộ có hàng trăm đảo
lớn như Hòn Mê, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Hòn Tre,
Phú Quý…Xa hơn là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cách Vũng Tàu
gần 100 hải lý có 16 đảo lớn nhỏ thuộc địa phận huyện Côn Đảo (tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu). Ngoài khơi biển Kiên Giang có đảo Phú Quốc là hòn đảo có
diện tích lớn nhất trogn số các đảo ở Việt Nam, xa hơn là quần đảo Thổ Chu.
Khí hậu
Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên
về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có một nền
nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22oC đến 27oC. Hàng năm có
khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000mm. Độ
ẩm không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1.500-2.000 giờ, nhiệt bức
xạ trung bình năm 100kcal/cm2.
11
Nhìn chung Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương
đối lạnh, ít mưa. Theo đó, khí hậu của các tỉnh ở phía Bắc (từ đòe Hải Vân
trở ra Bắc) thay đổi theo bốn mùa khá rõ nét: xuân- hạ - thu –đông.
Việt Nam chịu tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc, nên nhiệt độ
trung bình thấp hơn nhiệt độ trung bình của nhiều nước khác cùng vĩ độ ở
châu Á. So với các nước này thì ở Việt Nam, nhiệt độ về mùa đông lạnh hơn
và mùa hạ ít nóng hơn.
Do ảnh hưởng gió mùa, hơn nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu của
Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác và giữa
nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Khí hậu Việt
Nam cũng tạo ra những bất lợi về thời tiết như bão (trung bình một năm có 6-
10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới), lũ lụt, hạn hán…thường xuyên đe dọa.
Tài nguyên
Tài nguyên rừng
Rừng Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, gụ,
trắc, pơ mu…tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây
dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, nấm linh chi, mộc
nhĩ, mật ong…về động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu,
khỉ…còn có những loài quý hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công,
trĩ, gà lôi đỏ…
Tỷ lệ che phủ rừng của Việt Nam thấp, năm 2009 chiếm 39,1% diện tích tự
nhiên. Nhiều loài thực động vật đang bị khai thác ngoài sự kiểm soát nên có
xu hướng ngày càng cạn kiệt, nhiều loài thú quý đang đứng trước nguy cơ
tuyệt chủng.
Tài nguyên thủy hải sản
12
Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ, và nước mặn là nguồn tài
nguyên phong phú về tôm, cá…trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính
riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài
cua, 300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, và 653 loài rong biển…Nhiều
loài cá thịt ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực…Có những
loài thân mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc…
Biển Việt Nam cũng là một tiềm năng lớn trong việc khai thác muối
phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu.
Khoáng sản
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: than (trữ lượng dự
báo khoảng trên 6 tỷ tấn), dầu khí (ước lượng trữ lượng dầu mỏ khoảng 3-4 tỷ
thùng). Khí đốt khoảng 50-70 tỷ m3); U-ra-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200-
300 nghìn tấn); kim loại đen (sắt, măng gan, titan); kim loại màu (nhôm,
đồng, vàng, thiếc, chì…); khoáng sản phi kim loại (apatit, pyrite…). Việt
Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Diện tích
mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ, đầm, kênh rạch,
biển…chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông đường thủy, thủy điện;
cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống…
Các nguồn nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú
và phân bố khá đều trong cả nước.
Tài nguyên du lịch
Việt Nam có hơn 40 nghìn di sản văn hóa vật thể là bất động sản (đình
chùa, đền miếu, thành quách, lăng mộ…). Tính đến tháng 8/2010, Việt Nam
có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh trong đó có hơn 3000 di tích được xếp hạng
di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số
lượng di tích nhiều nhất ở 11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm
13
khoảng 70% di tích của Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam có 7 di sản được
UNESCO công nhận di sản thế giới, đó là di sản thiên nhiên Vịnh Hạ Long
(Quảng Ninh, hai lần được công nhận năm 1994 và 2000), di sản thiên nhiên
Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng (Quảng Bình), quần thể di sản văn hóa
Thừa Thiên Huế, di sản văn hóa phố cổ Hội An, di sản văn hóa Mỹ Sơn
(Quảng Nam); hai di sản văn hóa phi vật thể là Nhã nhạc, nhạc cung đình
Việt Nam (Thừa Thiên Huế) và không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên. Cả nước có 117 bảo tang, trong đó Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch
trực tiếp quản lý 6, các bộ ngành và đoàn thể khác ở trung ương quản lý 32 và
địa phương quản lý 79.
Việt Nam có nhiều thắng cảnh nổi tiếng
Tính đến năm 2009, Việt Nam được UNESCO công nhận 8 “Khu dự trữ
sinh quyển thế giới”, đó là:
1, Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau(2009)
14
2, Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm (2009)
3, Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An( 2007)
4, Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang(2006)
15
5, Cát Bà (thành phố Hải Phòng-2004)
6, Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng (thuộc địa bàn hai huyện
Tiền Hải-Thái Bình và huyện Giao Thủy-Nam Định-2004)
16
7, Vườn Quốc gia Cát Tiên (tỉnh Đồng Nai-2001)
8, Cần Giờ / Rừng Sác (thành phố Hồ Chí Minh-2000)
17
Việt Nam là một trong hơn mười quốc gia trên thế giới có vịnh “ Đẹp
nhất thế giới”, đó là Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) và Vịnh Nha Trang (Khánh
Hòa).
Vịnh Nha Trang Vịnh Hạ Long
Hiện nay, Việt Nam có đến 31 vườn quốc gia; 400 nguồn nước nóng,
nhiệt độ từ 40oC đến 105oC.
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 27 trong số 156 quốc gia có biển trên thế
giới, với 125 bãi tắm biển, trong đó hầu hết là các bãi tắm rất đẹp và thuận lợi
cho khai thác du lịch mà không phải quốc gia nào cũng có.
Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, Việt Nam có nhiều yếu tố
thuận lợi phát triển ngành du lịch. Những năm gần đây ngành du lịch Việt Nam
đã và đang thu hút nhiều triệu du khách trong và ngoài nước, góp phần quan
trọng trong cơ cấu thu nhập quốc dân.
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHUNG
1.1 Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội
18
Không khí chính trị hòa bình bảo đảm cho việc mở rộng các mối quan hệ kinh
tế, khoa học-kỹ thuật, văn hóa và chính trị giữa các dân tộc. Du khách thích đến
những vùng đất có không khí chính trị hòa bình vì ở nơi đây họ cảm thấy yên
ổn, tính mạng họ được coi trọng. Do vậy, điều kiện an ninh chính trị và an toàn
xã hội của một nước hay một địa điểm du lịch là một trong những nhân tố giúp
du lịch phát triển.
So sánh với tình hình chính trị trong khu vực và toàn cầu hiện nay, Việt Nam là
nước có nền an ninh chính trị-xã hội an toàn và ổn định.
Theo khảo sát toàn cầu về mức độ yên bình, Việt Nam đứng thứ 39 trên tổng số
144 nước, được đánh giá cao về sự thân thiện với người nước ngoài và nguy cơ
xảy ra khủng bố thấp. Chỉ số hòa bình toàn cầu (Global Peace Index), do Viện
Hòa bình Kinh tế tại Australia phối hợp với Đơn vị tình báo kinh tế thực hiện -
xếp hạng 144 quốc gia về mức độ yên bình - theo định nghĩa là không có bạo
lực. Chỉ số được đưa ra dựa trên 23 chỉ tiêu bao gồm ổn định chính trị, nguy cơ
khủng bố, tỷ lệ giết người, khả năng xảy ra biểu tình bạo lực, tôn trọng nhân
quyền, nội chiến, nhập khẩu vũ khí và liên quan tới chiến tranh nước ngoài. Một
ví dụ hết sức thuyết phục minh chứng cho mức độ yên bình và ổn định của Việt
Nam đó là đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Trước và trong sự kiện này đã
có rất nhiều nguồn tin dự báo về khủng bố, bạo loạn…nhưng thực tế cho thấy
đại lễ đã diễn ra hết sức suôn sẻ.
Thiên tai cũng có tác động xấu đến sự phát triển du lịch của Việt Nam. Việt
Nam là nước ít gặp thiên tai như động đất, núi lửa, sóng thần…nhưng lũ lụt vẫn
xảy ra ở khu vực miền Trung từ tháng 7 đến tháng 10 hằng năm, và vùng Duyên
hải Nam Trung Bộ từ tháng 10 đến tháng 12. Điều này ít nhiều cũng có ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của du lịch Việt Nam. Vì trong khoảng thời gian
xảy ra lũ lụt thì không thế tổ chức tour du lịch tại các điểm trên.
19
Về bệnh dịch, Việt Nam đã thành
công trong việc khống chế sự lan
truyền của các bệnh dịch nguy
hiểm đã bùng phát trên toàn thế
giới trong những năm gần đây như:
dịch SARS năm 2003, dịch cúm
AH5N1 năm 2009. Điều này khiến
du khách yên tâm hơn khi du lịch ở Việt Nam.
2.2 Điều kiện kinh tế
Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển
du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đề chi sự
ra đời và phát triểnn của ngành kinh tế du lịch. Điều này được giải thích bởi sự
lệ thuộc cả du lịch vào thành quả các ngành kinh tế khác. Những nước có nền
kinh tế phát triển, có điều kiện sản xuất ra nhiều của cải vật chất có chất lượng
đạt các tiêu chuẩn quốc tế sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch.
20
Ngành nông nghiệp và công nghiệp Việt Nam khá phát triển, đặc biệt là ngành
công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm như công nghiệp chế biến đường,
thịt, sữa, đồ hộp, công nghiệp chế biến rượu, bia, thuốc lá…
Những năm qua, ngành sữa Việt Nam phát triển khá nhanh, nếu như trước
những năm 1990 chỉ có 1- 2 nhà sản xuất, phân phối sữa thì hiện nay thị trường
sữa Việt Nam tăng lên 72 doanh nghiệp. Ngành sữa Việt Nam còn có tiềm năng
về nguyên liệu sữa cho sản xuất. Theo thống kê từ Hiệp hội thức ăn gia súc Việt
Nam, nhu cầu sữa tươi nguyên liệu tăng dần từ 500 triệu lít (năm 2010) lên 805
triệu lít (năm 2015). Hiện nay ngành sữa Việt Nam đáp ứng 22% nguyên liệu,
dự kiến đến năm 2020, nguồn nguyên liệu sữa tươi đáp ứng từ 38- 40% cho sản
xuất. Việt Nam không còn xuất khẩu sữa sang các nước Châu Phi.
Theo ước tính thì đến năm 2020, sản lượng đường của Việt Nam sẽ đáp ứng
được nhu cầu trong nước và có thể dư thừa để xuất khẩu.
Một số ngành công nghiệp nhẹ đóng vai trò không kém phần quan trọng trong
cung ứng vật tư cho du lịch Việt Nam như: công nghiệp dệt may, công nghiệp
thủy tinh, công nghiệp sành sứ và đồ gốm. Ngành công nghiệp dệt may cung
21
cấp cho các xí nghiệp du lịch các loại vải để trang bị cho phòng khách, khăn trải
bàn, ga trải giường…Các ngành công nghiệp nhẹ phát triển đã cung ứng cho
ngành du lịch Việt Nam những vật tư, hàng hóa, trang thiết bị chất lượng cao từ
đó nâng cao chất lượng dịch vụ của ngành du lịch.
Về giao thông vận tải, sự phát triển về số lượng và chất lượng của các phương
tiện giao thông vận chuyển là nhân tố thúc đẩy ngành dịch vụ Việt Nam phát
triển mạnh mẽ.
Từ năm 2006 đến nay, cả nước đã mở mới được 11.874 km đường giao thông
nông thôn và nâng cấp đươc̣ 32.546 km; xây dưṇg 2.365 cầu/ 53.352md cầu các
loại và 14.125/353.140 m cống. Tổng số vốn huy đôṇg đươc̣ là 13.942 tỷ đồng;
Huy đôṇg đươc̣ hơn 48 triêụ ngày công lao đôṇg . Ngành Giao thông vận tải đã
và đang triển khai dự án giao thông nông thôn 3 tại 33 tỉnh miền Bắc , miền
Trung và Duyên hải Nam Trung bô ̣với tổng mức vốn đầu tư 150 triêụ USD để
xây dưṇg khoảng 2.150 - 4.150 km đường giao thông nông thôn...
Ngành đường sắt đã đóng mới hơn 500 toa xe các loaị và sửa chữa 100%
phương tiêṇ vâṇ tải.
Tính đến đầu năm 2010, đôị tàu biển Viêṭ Nam gồm 1.654 tàu biển, trong đó có
450 tàu biển hoạt động tuyến quốc tế , với tổng troṇg tải đaṭ 6,2 triêụ DWT .
Trong 3 năm gần đây, đôị tàu biển Viêṭ Nam đa ̃có sư ̣phát triển maṇh me ̃về số
tấn troṇg tải, với tốc đô ̣tăng bình quân 20% / năm. Đội tàu Việt Nam hiện đứng
vị trí 60/152 quốc gia có tàu mang cờ có quốc tic̣h và xếp thứ 4 trong 10 nước
ASEAN, sau Singapore , Indonesia, Malaysia. Về tuổi tàu , đôị tàu Viêṭ Nam
“trẻ” thứ 2 sau ASEAN, trung bình 1,29 tuổi….
Vậ̣n tải hàng không ngày càng khẳng điṇh về vi ̣ thế , đóng góp quan troṇg vào
sư ̣phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoaṇ 2005-2009, thị trường hàng không
tăng trưởng bình quân 14,2% về hành khách và 10,7 % về hàng hóa. Năm 2009,
22
sản lượng hàng hóa, khách thông qua các cảng hàng không, sân bay Viêṭ Nam là
26,16 triêụ lươṭ , gấp 1,8 lần so với năm 2005 (năm 2010 dư ̣kiến đaṭ 30 triêụ
lươṭ khách ) và gần nửa triệu tấn hàng hóa gấp 1,5 lần năm 2005. Hãng hàng
không Quốc gia Viêṭ Nam đa ̃khai thác 40 đường bay quốc tế đến 26 thành phố
của 15 quốc gia và vùng lañh thổ…Ngày 10/6/2010, Hãng hàng không Quốc gia
Viêṭ Nam Vietnam Airlines chính thức gia nhâp̣ Liên minh Hàng không toàn cầu
Sky Team. Đây là sư ̣ghi nhâṇ hôị nhâp̣ sâu của Hàng không Viêṭ Nam với quốc
tế…
Về công nghiêp̣ sản xuất ô tô , sản phẩm đạt được trong 3 năm gần đây là 8.780
xe chở khách và xe buýt các loaị; 38.470 ô tô tải các loaị; Sản xuất và lắp ráp xe
gắn máy đaṭ tỷ lê ̣hóa trên 70% với 209.000 xe gắn máy…
Lĩnh vực bảo đảm an toàn giao thông , đa ̃có những chuyển biến tích cưc̣ , đăc̣
biêṭ trong những năm gần đây . Nhiều chính sách , biêṇ pháp đa ̃đươc̣ ngành
tham mưu cho Đảng , Chính phủ được ban hành và thực thi một cách mạnh mẽ ,
quyết liêṭ nên bước đầu đa ̃kiềm chế sư ̣gia tăng tai naṇ giao thông , bảo đảm sự
bền vững của phát triển .
Hiêṇ nay, nhiều dư ̣án , công trình giao thông vâṇ tải đang đươc̣ triển khai trên
khắp đất nước như: Đường Hồ Chí Minh (giai đoaṇ 2), đường cao tốc Nôị Bài –
Lào Cai, đường cao tốc Hà Nôị – Hải Phòng (Quốc lô ̣5B), các dự án đường bộ
cao tốc Bắc – Nam, cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong , dư ̣án cải taọ luồng
cho tàu biển có troṇg tải lớn vào sông Hâụ , nhà ga sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất, Cần Thơ .
Trên khắp đất nước Viêṭ Nam , nhiều công trình giao thông v ận tải lớn , có ý
nghĩa đã hoàn thành như : Những cây cầu l ớn (Bãi Cháy, Thanh Trì, Vĩnh Tuy,
Rạch Miễu, Hàm Luông, Cần Thơ), mạng lưới quốc lộ Bắc –Nam, 38 cầu giao
thông nông thôn đồng bằng sông Cửu Long , cầu Thuâṇ An , cầu Tư Hiền, cầu
Suối Long, Quốc lô ̣37, vâṇ tải thủy từ Hải Phòng đến Thủy điêṇ Sơn La , cảng
cái lân, Đài thông tin Duyên hải, hê ̣thống Đèn biển Viêṭ Nam, Đội tàu SAR tìm
23
kiếm cứu naṇ trên biển , đường cất ha ̣cánh , đường lăn sân đỗ cảng hàng không
Liên Khương , Cảng hàng không Chu Lai…
Các dự án công trình giao thông vận tải này đã và đang phục vụ cho mục tiêu
đưa nước ta trở thành nước công nghiêp̣ vào năm 2020 và các mục tiêu phát
triển của những năm tiếp theo.
2.3 Chính sách phát triển du lịch
Ngành du lịch của một nước có phát triển hay không phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố trong đó có yếu tố bộ máy quản lý xã hội. Những chính sách phát triển du
lịch đúng đắn sẽ góp phần quan trọng trong sự phát triển chung của ngành du
lịch nước đó. Ngành du lịch Việt Nam đang có rất nhiều cơ hội để phát triển
hơn nữa là do những chính sách đổi mới, đúng đắn và kịp thời của các Đảng,
Nhà nước và các ban ngành có liên quan. Đã có nhiều dự án du lịch được phê
duyệt khởi công trong như: trong năm 2010, dự án du lịch nghỉ dưỡng Sixsenses
Con Dao đạt tiêu chuẩn 5 sao gồm 35 biệt thự, spa, hồ bơi, nhà hàng với tổng
vốn đầu tư 25 triệu USD đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 12-2010.
Ngoài ra, một dự án du lịch tại khu vực Bãi Đất Dốc, tổng vốn đầu tư 38 triệu
USD dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động từ tháng 1/2011.
Quảng Ngãi sẽ xây dựng khu du lịch Đặng Thùy Trâm tại khu vực từng là nơi
làm việc của nữ bác sĩ, liệt sĩ viết cuốn nhật ký nổi tiếng thời chống Mỹ. Dự
kiến vốn đầu tư cho khu du lịch lớn này vào khoảng 400 tỉ đồng và sẽ đi vào
hoạt động vào năm 2012.
III. CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ THÂN LÀM NẢY SINH NHU CẦU DU LỊCH
Các nhân tố tự thân chính làm cho nhu cầu du lịch tăng trưởng chính là thời
gian rỗi, thu nhập, trình độ dân trí.
3.1 Thời gian rỗi
24
Một trong những tiêu chí được xác định trong định nghĩa du lịch là chuyến đi
thực hiện trong thời gian rỗi của con người (ngày nghỉ cuối tuần, kỳ nghỉ phép,
thời gian rỗi có được trong chuyến công tác.
Từ khi luật lao động Việt Nam quy định làm việc theo ngày, 1 ngày làm việc 8
giờ đồng hồ và nghỉ 2 ngày cuối tuần thứ bảy và chủ nhật (ngày 2-10-1999),
người Việt Nam có nhiều thời gian rỗi hơn để đi du lịch vào cuối tuần.
Việt Nam còn có một số ngày nghỉ toàn quốc như: Tết Dương Lịch 1 tháng 1,
Tết Nguyên Đán Từ 30 tháng 12 (hay 29 tháng 12 nếu
tháng thiếu) đến 3 tháng 1 (Âm lịch), Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 (Âm lịch)
Tưởng, Ngày giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. 30 tháng 4, Quốc tế Lao động 1 tháng 5, Quốc khánh 2
tháng 9.
Ngoài ra còn có các ngày lễ truyền thống của một số đơn vị, ngành cụ thể như:
ngày học sinh-sinh viên Việt Nam (9/1), Ngày thầy thuốc Việt Nam (27/2),
ngày nhà giáo Việt Nam (20/11), ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam
(22/12)…
Thời gian rỗi nằm trong quỹ thời gian, còn thời gian dành cho du lịch, thể thao
và nghỉ ngơi lại nằm trong thời gian rỗi. Vì vậy muốn phát triển du lịch, người
làm du lịch phải nghiên cứu kỹ cơ cấu thời gian rỗi và tận dụng tối đa, hợp lý
khoảng thời gian đó cho hoạt động du lịch.
Tuy quỹ thời gian rỗi của Việt Nam đã tăng lên đáng kể so với giai đoạn trước
năm 1995, nhưng xét về mặt bằng chung với các nước trong khu vực như Trung
Quốc (với chế độ nghỉ “tuần lễ vàng” được áp dụng từ năm 1999: Tết Nguyên
Đán, Quốc tế lao động mùng 1 tháng 5 và ngày Quốc khánh Trung Quốc mùng
1 tháng 10.) thì Việt Nam vẫn là một nước có ít ngày nghỉ. Nếu như thời gian
25
rỗi từ những ngày lễ được tăng lên cùng với việc sử dụng hợp lý quỹ thời gian
và có chế độ lao động đúng đắn thì ngành du lịch Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội
hơn để phát triển.
3.2 Khả năng tài chính của du khách
Con người khi muốn đi du lịch, không chỉ cần có thời gian rỗi mà còn phải có
đủ tiền để thực hiện chuyến đi đó. Nền kinh tế phát triển sẽ làm cho người dân
có mức sống cao, do đó họ có khả năng thanh toán cho các nhu cầu về du lịch
trong nước cũng như ra nước ngoài.
Khi đi du lịch và lưu trú ở ngoài nơi ở thường xuyên, khách du lịch cần tiêu
dùng nhiều dịch vụ, hàng hóa, phương tiện đi lại…vì vậy thu nhập của nhân dân
là chỉ tiêu quan trọng và là điều kiện vật chất để họ có thể tham gia đi du lịch.
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hàng tháng.
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Đơn
vị
nghìn
đồng
651,5 738,3 817,4 979,7 1068,5 1297,1 1565,3 1976,0 2159,0 2501,3
(theo số liệu của tổng cục thống kê Việt Nam
Nhìn chung thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện có tăng so với
những năm trước (năm 2009 là 2501,3 nghìn đồng/tháng cao gấp 3,84 lần thu
nhập năm 2000). Thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2010 ước đạt
1.160 USD. Thu nhập tăng, đời sống được nâng cao, người Việt Nam đã chăm
đi du lịch hơn. Tuy nhiên, so với mặt bằng trong khu vực thì Việt Nam vẫn là
26
một nước có mức thu nhập bình quân thấp. Phát biểu trong Hội thảo "Phát triển
và Giảm nghèo của các nước đang phát triển thời kỳ hậu khủng hoảng" tại Hà
Nội, ông James Adams, Phó chủ tịch phụ trách khu vực Đông Á Thái Bình
Dương - Ngân hàng Thế giới (WB) khẳng định, với thu nhập đầu người trên
1.000 USD, Việt Nam nằm trong nhóm thu nhập thấp thấp nhất châu Á (dưới
2.000 USD) cùng với Bangladesh, Campuchia, Lào, Mông Cổ, Sri Lanka,
Papua New Guinea, Nepal.
Theo tính toán của tổ chức này, thu nhập trung bình của người Việt Nam tụt hậu
tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với
Singapore.
Nhiều khoản vay ODA từ Nhật Bản, WB đã dần chuyển từ dạng lãi suất ưu đãi
cho quốc gia thu nhập thấp sang khoản vay kém ưu đãi hơn dành cho nước có
mức thu nhập cao hơn.
3.3 Trình độ dân trí
Sự phát triển của du lịch còn phụ thuộc vào trình độ văn hóa chung của nhân
dân ở một đất nước. Nếu trình độ văn hóa của cộng đồng được nâng cao, nhu
cầu đi du lịch của nhân dân ở đó tăng lên rõ rệt. Mặt khác, nếu trình độ văn hóa
của nhân dân nước đó cao thì đất nước đó khi phát triển du lịch sẽ dễ đảm bảo
phục vụ khách du lịch một cách văn minh và làm hài lòng khách du lịch đến đó.
Trình độ dân trí thể hiện bằng các hành động, cách ứng xử cụ thể với môi
trường xung quanh, bằng thái độ đối với du khách của người dân địa phương,
bằng cách cư xử của du khách tại nơi du lịch.
IV. KHẢ NĂNG CUNG ỨNG NHU CẦU DU LỊCH
Những điều kiện tác động đến sự phát triển của du lịch không mang tính phổ
biển mà chỉ mang tính đặc trưng đối với từng quốc gia riêng. Theo đó, những
27
điều kiện khu vực chủ yếu chỉ tác động đến khả năng cung ứng nhu cầu du lịch
đó là
4.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên
4.1.1 Vị trí địa lý
Khoảng cách từ nơi du lịch đến các địa điểm du lịch có ý nghĩa quan trọng đối
với nước nhận khách du lịch. Tuy nhiên những bất lợi về khoảng cách đã dần
được khắc phục bằng sự phát triển của ngành giao thông vận tải: đường bộ,
đường thủy, đường hàng không.
Việt Nam có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi cho du lịch. Từ rất lâu, Việt Nam đã
bị các nước nhòm ngó vì địa thế “cửa ngõ ba châu” của mình. Vị trí địa lý này
rất thuận lợi cho việc đi lại giao lưu văn hóa, phát triển du lịch quốc tế.
4.1.2 Địa hình
Địa hình là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên phong cảnh và
sự đa dạng của phong cảnh nơi đó. Đối với du lịch, địa hình càng đa dạng,
tương phản và độc đáo càng có sức hấp dẫn du khách. Đặc biệt khách du lịch
thường ưa thích những nơi nhiều đồi núi, mà địa hình nước ta có đến ¾ là đồi
núi. Trong các kiểu địa hình, kiểu địa hình Karst (núi và hang động) và địa hình
bờ nước là những tài nguyên du lịch rất giá trị. Cả hai loại địa hình trên đều phổ
biến ở nước ta. Địa hình đá vôi nước ta phân bố rộng khắp từ vĩ tuyến 160 trở
lên với nhiều hệ thống hang động có giá trị du lịch như Phong Nha, Hương
Tích, Bích Động, Thẩm Tà Toong…
28
Động Phong Nha Động Hương Tích
Đặc biệt hơn cả là kiểu địa hình karst ngập nước nhiệt đới điển hình ở Vịnh Hạ
Long- địa danh đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế
giới.
4.1.3 Khí hậu
Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa-kiểu khí hậu khá ôn hòa thường
được du khách ưa thích.
Nhiệt độ trung bình năm của Việt Nam từ 220C đến 270C, thích hợp với du lịch
biển. Hơn nữa, du khách ở các nước hàn đới còn có nhu cầu sang Việt Nam để
tránh cái rét lên tới âm độ ở nước họ.
4.1.4 Thủy văn
29
Thủy văn-nước là một yếu tố không thể thiếu được để duy trì sự sống của con
người. Gương nước rộng lớn không những tạo ra một bầu không khí trong lành
mà còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe con người. Ngoài tác dụng để tắm
thông thường, gương nước còn là một phương thuốc khá hiệu nghiệm để chữa
stress.
Trong tài nguyên nước, các nguồn nước khoáng là tiền đề không thể thiếu được
đối với việc phát triển du lịch chữa bệnh. Theo các nhà địa thủy chất văn Việt
Nam, ở nước ta có trên 400 điểm nước khoáng có giá trị như Kim Bôi, Quang
Hanh, Hội Vân…
Bể tắm nước khoáng Kim Bôi-Hòa Bình
4.1.5 Thế giới động, thực vật
Thế giới động, thực vật đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của du lịch
chủ yếu nhờ sự đa dạng và tính đặc hữu. Ngay nay con người có xu hướng quay
trở về với thiên nhiên, vì vậy thế giới động thực vật hoang dã ngày càng thu hút
con người và trở thành một hoạt động du lịch sôi nổi.
Ở Việt Nam có một số địa điểm du lịch thỏa mãn ý thích khám phá những nơi
rừng rậm nhiệt đới, nhiều cây leo…của du khách nước ngoài như vườn Quốc
gia Cúc Phương, Bên En, Tam Đảo…
30
Vườn Quốc gia Cúc Phương Gia đình ông cố vấn trưởng dự án bảo
tồn Vườn quốc gia Tam Đảo Herberb
Christ tham gia ’’Ngày đa dạng sinh học
Việt Nam’’
4.2 Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn
Giá trị văn hóa lịch sử, các thành tựu chính trị và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng
cho sự phát triển của du lịch ở một địa điêm, một vùng hoặc một đất nước.
Chúng có sức hấp dẫn đặc biệt với số đông khách du lịch với nhiều nhu cầu và
mục đích khác nhau của chuyến du lịch.
Các thành tựu về kinh tế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút khách
du lịch đến xem như hội chợ triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm…Ở đó thấy
được kết quả của công việc phát triển công nghiệp, nông nghiệp, giao thông,
thông tin. Ví dụ tham gia triển lãm và Hội thảo quốc tế chuyên ngành giao
thông vận tải đường bộ (Viet Transport) năm 2010 có trên 30 công ty đến từ 10
quốc gia trên thế giới trưng bày các sản phẩm và dịch vụ , tập trung vào nhóm
đường bộ và đường cao tốc, đường sắt, hệ thống giao thông thông minh và công
nghệ thông tin truyền thông.
31
Hơn nữa, Việt Nam là một nước có lịch sử lâu đời và các tài nguyên văn hóa có
giá trị như ca trù, nhã nhạc cung đình Huế, hát quan họ, kỹ thuật làm đồ gốm
Bát Tràng, tranh Đông Hồ…đã thu hút rất nhiều khách du lịch cũng như các
chuyên gia nghiên cứu
4.3 Một số tình hình và sự kiện đặc biệt
Các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng có một số tình hình và sự kiện
đặc biệt có thể thu hút khách du lịch và là điều kiện đặc trưng để phát triển du
lịch. Đó là các hội nghị, đại hội, các cuộc tọa đàm dân tộc hoặc quốc tế, các
cuộc thi đấu thể thao, các cuộc kỷ niệm tín ngưỡng hoặc chính trị…Các hình
thức này tuy chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng đóng vai
trò có ích trong sự phát triển du lịch.
32
Cúp bóng đá AFF cup 2010
Hội nghị thượng định Asean lần thứ 17 tại Hà Nội 2010
Bên cạnh đó, Việt Nam đang tích cực hội nhập quốc tế và tham gia các tổ chức
lớn như tổ chức thương mại thế giới WTO( tham gia năm 2006), hội đồng bảo
an Liên Hợp Quốc UN (2007)…
Ở Việt Nam, chưa có nhiều những sự kiện lớn mang tầm quốc tế, hay những lễ
hội tôn giáo hay tín ngưỡng đặc biệt thu hút du khách bởi điều kiện kinh tế và
33
năng lực tổ chức chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu. Nhưng với tốc độ phát
triển của kinh tế, văn hóa, giáo dục…ta có thể hy vọng ở một tương lai không
xa. Chúng ta tự hào chỉ trong một thời gian ngắn, nước ta đã tổ chức thành
công rực rỡ kỳ Seagame 22-đại hội thể thao lớn nhất Đông Nam Á và hội nghị
APEC 14, Hoa hậu Trái đất 2010 điều này cho thấy sự trưởng thành của đất
nước trên nhiều lĩnh vực. Qua những sự kiện lớn này Việt Nam đã đón tiếp
hàng chục nghìn du khách nước ngoài đến từ nhiều nơi trên thế giới mang lại
một nguồn ngoại tệ lớn cho kinh tế Việt Nam.
4.4 Sự sẵn sàng đón tiếp du khách
Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch thể hiện ở ba nhóm điều kiện chính: các điều
kiện về tổ chức, về kỹ thuật và điều kiện về kinh tế.
4.4.1 Điều kiện về tổ chức:
Để có thể sẵn sàng đón tiếp khách du lịch, các tổ chức và xí nghiệp du lịch
chuyên trách trước hết phải thực hiện tốt khâu tổ chức. Ở Việt Nam hiện nay,
khâu tổ chức còn nhiều yếu kém về cả mặt kỹ năng và cơ sở vật chất. Trước hết
Việt Nam cần có chương trình nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tổ chức sự
kiện, và đầu tư hơn nữa vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc tổ
chức du lịch.
4.4.2 Điều kiện kỹ thuật.
Những điều kiện kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch
trước tiên là các vấn đề về trang bị tiện nghi ở nơi du lịch, việc xây dựng và duy
trì cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết. Đó là cơ sở vật chất kỹ thuật của tổ chức du
lịch và cơ sở hạ tầng.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật của tổ chức du lịch, cùng với sự gia tăng về số lượng
khách du lịch thì cơ sở lưu trú ngày càng tăng lên về cả chất lượng và số lượng.
34
tính đến năm 2007 thì ở Việt Nam có 25 khách sạn 5 sao, 64 khách sạn 4 sao,
135 khách sạn 3 sao, còn lại là khách sạn 1 hoặc 2 sao. Trong đó, số phòng
khách sạn tiêu chuẩn 3-5 sao trên cả nước đạt khoảng gần 5.000 phòng. Việt
Nam đã có một số khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trong đó Sofitel Legend
Metropole Hà Nội, Caravelle Thành phố Hồ Chí Minh, Park Hyatt Sài Gòn và
Hilton Hanoi Opera đã là 4 trong tổng số 500 khách sạn hàng đầu quốc tế do tạp
chí Travel & Leisure (Mỹ) số tháng 1/2011 bình chọn. Tuy nhiên số lượng
khách sạn trên sẽ không đáp ứng được lượng du khách trong tương lai. Vì vậy
Việt Nam cần thu hút hơn nữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực
này.
Về cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông: đường xá, nhà ga, sân bay, bến cảng,
đường sắt của Việt Nam đã có nhiều phát triển vượt bậc với các công trình tu
sửa và xây mới thuận tiện cho việc đi lại và làm đẹp cảnh quan môi trường như ,
công trình xây dựng hầm đèo Hải Vân, công trình sửa chữa cầu Thăng Long
năm 2009…Tuy nhiên tình trạng giao thông ở nước ta vẫn là một vấn đề đáng
lo ngại đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và với phát triển du lịch
nói riêng. Nhiều du khách đã chia sẻ nỗi lo về an toàn tính mạng khi tham gia
giao thông ở Việt Nam. Hi vọng rằng trong tương lai không xa, giao thông và ý
thức của người tham gia giao thông ở Việt Nam sẽ được nâng cao hơn.
4.4.3 Điều kiện cung ứng vật tư hàng hóa, lương thực thực phẩm
Việc cung ứng vật tư hàng hóa, lương thực thực phẩm cho ngành du lịch phải
thường xuyên, đều đặn và đầy đủ. Ngoải ra, cung ứng cần phải đảm bảo chất
lượng và giá cả hàng hóa vật tư để tổ chức du lịch có đủ sức cạnh tranh trên thị
trường.
V. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM
35
Những nhân tố trên tác động trực tiếp đến ngành du lịch, dẫn đến việc hình
thành Xu thế phát triển của ngành Du lịch trong tương lai như sau:
Du lịch vẫn là một ngành thương mại lớn. Tuy nhiên, du lịch đại trà sẽ phát
triển. Du lịch theo nhóm được đặt trước sẽ ngày càng giảm, các kỳ nghỉ cá
nhân, được đặt ngẫu nhiên sẽ ngày càng tăng. Các yếu tố văn hóa truyền
thống sẽ được pha trộn với các dịch vụ hiện đại, theo yêu cầu.
Bên cạnh đó, con người ngày càng mong muốn hiểu biết hơn về cộng đồng.
Trong nhiều trường hợp, con người đi du lịch xuất hiện từ nhu cầu các mối
liên hệ cá nhân hay nhu cầu được nghỉ ngơi cùng với gia đình và bạn bè.
Những người độc thân đi du lịch vì muốn gặp gỡ, hẹn hò và tìm bạn lứa đôi.
Ngoài ra, cuộc sống năng động trong tương lai sẽ khiến con người phải di
chuyển thường xuyên từ nơi này đến nơi khác, vì thế chúng ta trông đợi
những kỳ nghỉ có thể giúp chúng ta cân bằng, bình ổn trở lại. Ngày càng
nhiều người đi du lịch, đặc biệt là người già. Do sự phát triển của khoa học
công nghệ nên khách du lịch đòi hỏi những dịch vụ nhanh chóng và tiện lợi,
đơn giản. Khách du lịch muốn đến các điểm du lịch một cách nhanh nhất và
dễ dàng nhất.
Vào năm 2020, sẽ không có những kỳ nghỉ vui chơi thuần tuý. Các kỳ nghỉ sẽ
được pha trộn với những hoạt động khác như các khách sạn sẽ được sát nhập
với bệnh viện, trường học, viện bảo tàng, các câu lạc bộ dành cho các kỳ nghỉ
sẽ hoạt động như các cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ, các toà tháp bị bao
quanh bởi những khu nghỉ ngơi, các tàu du lịch sẽ tạo cơ hội cho những việc
làm tạm thời. Khi đó, gần như không một nơi nào là con người không biết
đến. Thế giới đã được khám phá. Do đó, thay vì muốn những cảm giác hưng
phấn, khám phá, con người có vẻ như muốn tìm một sự yên tĩnh tương đối,
và những trải nghiệm tinh thần. Con người đã cảm thấy kiệt sức với cuộc
sống xã hội phức tạp, do vậy cơ hội được nghỉ ngơi sẽ trở nên quan trọng hơn
là vui chơi giải trí.
36
Khi xã hội ngày càng trở nên phức tạp, con người bắt đầu thể hiện sự hứng
thú với những nền văn hoá khác. Con người phát triển nhân cách thông qua
việc khám phá các nền văn hóa bên ngoài và các loại hình nghệ thuật. Do
vậy, du lịch là một cách thức hữu hiệu giúp con người tìm hiểu, giao lưu với
các nền văn hóa bên ngoài.Bên cạnh đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng, sự hỗ
trợ của các phương tiện giao thông mới, thu nhập tăng khiến du lịch trở thành
một hiện tượng phổ biến trong xã hội.
Năm 2020, Du lịch sẽ phát triển như thế nào?
Các trung tâm nghỉ ngơi chất lượng cao với phương thức trọn gói được hình
thành: Các khu du lịch khổng lồ sẽ được xây dựng ở Địa trung hải, Tiểu
vương quốc A rập, Quata, Trung Quốc và Brazil..v.v. Các trung tâm hồi sức
hiện đại này sẽ đáp ứng đầy đủ nhu cầu của con người: sự ấm áp từ ánh nắng
mặt trời và những thiết bị xử lý nhiệt độ, tình yêu được nảy sinh từ những sự
tình cờ cho tới những cuộc phiêu lưu lãng mạn, sự phục hồi sinh lực từ những
biện pháp đơn giản như mát xa mặt cho tới phương pháp điều trị chống sự lão
hoá của tế bào. Tất cả sẽ được đáp ứng, kể cả việc có cả một sân bay tại chỗ
để thuận tiện cho việc đi lại. Tất cả các dịch vụ cho kỳ nghỉ đều sẵn có và sẵn
sàng phục vụ.
Chăm sóc sức khỏe và tinh thần: Vào thời gian đó, con người phải thường
xuyên thay đổi nơi làm việc và chỗ ở, phải di chuyển nhiều và dành nhiều
thời gian với người lạ hơn là cho gia đình, do vậy họ không còn mơ ước
nhiều về việc đi đến những đất nước xa xôi. Một số người không có một chỗ
ở cố định, và phải ở nhiều nơi khác nhau nên họ thường mong ước có một
ngôi nhà thực sự. Ngày càng có nhiều phụ nữ làm việc ở xa mà không có đàn
ông bên cạnh, họ sẽ phải gánh vác nhiều trách nhiệm hơn, và họ sẽ cần được
thoả mãn nhu cầu về cảm giác an toàn, nhu cầu được âu yếm, chăm sóc khi
xa nhà. Trong trong lai, những người xa nhà này sẽ bị thu hút nhiều hơn bởi
Khách Sạn “Mẹ”, nơi họ được chăm sóc như ở nhà.
37
Đi du lịch-cơ hội gặp gỡ và thành đôi: Ngày càng có nhiều ngươì độc thân
cảm thấy rất khó tìm cho mình một người bạn đời. Đối với những nhà tổ chức
tour thì đây là một thị trường hấp dẫn khi tạo ra một nơi những đối tượng trên
có thể gặp gỡ thực sự, bổ sung vào thị trường kết hôn trên mạng, chát room.
Trong tương lai, chính những nhà tổ chức tour sẽ khơi nguồn cho những câu
chuyện tình, và tạo ra sân khấu cho những phút giây lãng mạn theo phần
mềm được thiết kế bởi các trung tâm tổ chức kết hôn.
Các kỳ nghỉ giống như những liều thuốc tinh thần: Trong tương lai, nhu cầu
bảo vệ sức khoẻ ngày càng tăng, thị trường chăm sóc sức khoẻ ngày càng
phát triển. Những bệnh nhân nhạy cảm, những người độc thân, những bệnh
nhân đã quá chán nản với các phương thức trị liệu công nghệ cao sẽ ngày
càng muốn tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc tinh thần trong các kỳ nghỉ của họ.
Các kỳ nghỉ cho sức khoẻ trong tương lai sẽ ít chú trọng đến phần cứng như
các khu tắm nắng, tắm hơi, các phòng tập thẩm mỹ.v.v., mà sẽ chú trọng
nhiều hơn đến phần mềm, hay nói cách khác là tới việc chăm sóc tinh thần và
cảm xúc.
Người già trở thành đối tượng khách du lịch quan trọng: Người già có những
giá trị và mong ước khác với giới trẻ. Càng già, niềm hạnh phúc của chúng ta
phụ thuộc vào những giá trị phi vật chất, vào kinh nghiệm của bản thân hơn
là vào sự sở hữu, vào những mối quan hệ thú vị hơn là những chuyến đi tìm
kiếm kinh nghiệm một cách buồn chán. Điều này có nghĩa là những người già
sẽ đi du lịch tại những nơi mà họ có thể đến đó dễ dàng cũng như có thể tận
hưởng được đầy đủ nhất cuộc sống và tìm thấy ở đó sự bình yên, cảm giác an
toàn và không gian riêng cho bản thân và gia đình.
Theo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, vào năm 2020, Việt Nam phấn đấu
trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vào thời điểm đó, cơ sở
hạ tầng, đặc biệt cơ sở vật chất phục vụ du lịch được cải thiện một cách đáng
kể. Nhiều khách sạn, nhà hàng chất lượng cao, vừa duy trì được nét truyền
38
thống vừa có tính hiện đại, mọc lên. Đặc biệt các trung tâm vui chơi giải trí
lớn như công viên chuyên đề, khu vui chơi Disneyland tại các thành phố,
trung tâm du lịch ra đời. Việc đặt các chuyến du lịch qua mạng Internet trở
nên phổ biến. Mức sống của người dân Việt Nam được nâng cao khiến cho
ngày càng nhiều người đi du lịch trong nước và nước ngoài. Bên cạnh loại
hình du lịch văn hóa lịch sử, du lịch sinh thái vẫn được duy trì phát triển, các
loại hình du lịch mới như du lịch MICE, du lịch học tập, du lịch y tế, du lịch
homestay, du lịch làng nghề, du lịch tìm kiếm lứa đôi … sẽ phát triển mạnh.
Du lịch trở thành phương tiện hữu hiệu giúp thu hút đầu tư, kinh doanh vào
trong nước, có vai trò ngày càng quan trọng, góp phần đáng kể vào phát triển
kinh tế, xã hội đất nước. Vào thời điểm đó, Việt Nam không còn là điểm du
lịch mới mà là điểm đến quen thuộc, trở thành trung tâm du lịch tầm cỡ trong
khu vực, là điểm đến du lịch hấp dẫn đối với du khách quốc tế gần xa.
Tham khảo
1, Tổng cục thống kê VN:
2, Tổng cục du lịch VN:
3,
dau-the-gioi/20111/73892.vnplus
4,
iew&id=20&catid=12
5,
6, Nhập Môn Khoa Học Du Lịch-Trần Đức Thanh-nhà xuất bản ĐHQG HN
7, Non Nước Việt Nam- Tổng cục du lịch Việt Nam phát hành
39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- a1.PDF