Tiểu luận Nghiên cứu chiến lược marketing quốc tế của tập đoàn Ford Motor

Tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu chiến lược marketing quốc tế của tập đoàn Ford Motor: Trang 1 Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh Khoa Thương Mại – Du Lịch – Marketing Bộ Môn Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Đề tài tiểu luận : Nghiên Cứu Chiến Lược Marketing Quốc Tế của Tập Đoàn FORD MOTOR Giáo Viên Hướng Dẫn : Ths. Quách Thị Bửu Châu. Sinh Viên Thực Hiện : Vũ Kim Hằng. KDQT1 – K32 Dương Tùng Lâm. KDQT1 – K32 Đỗ Bảo Ngọc. KDQT1 – K32 Võ Minh Thảo KDQT1 – K32 Thái Nguyễn Tường Vy. KDQT1 – K32 Trang 2 Nhận xét của Giáo Viên _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ ____________________________________...

pdf73 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu chiến lược marketing quốc tế của tập đoàn Ford Motor, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 Trường Đại Học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh Khoa Thương Mại – Du Lịch – Marketing Bộ Môn Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Đề tài tiểu luận : Nghiên Cứu Chiến Lược Marketing Quốc Tế của Tập Đoàn FORD MOTOR Giáo Viên Hướng Dẫn : Ths. Quách Thị Bửu Châu. Sinh Viên Thực Hiện : Vũ Kim Hằng. KDQT1 – K32 Dương Tùng Lâm. KDQT1 – K32 Đỗ Bảo Ngọc. KDQT1 – K32 Võ Minh Thảo KDQT1 – K32 Thái Nguyễn Tường Vy. KDQT1 – K32 Trang 2 Nhận xét của Giáo Viên _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ _________________________________________________________________ Trang 3 Nhận xét công việc của các thành viên A. Công việc chung : - Tất cả các thành viên đều có trách nhiệm thảo luận, thống nhất đề cương, dàn ý chi tiết và hỗ trợ công việc lẫn nhau. - Cùng nhau tìm kiếm thông tin tài liệu chung cho cả nhóm. B. Công việc cá nhân : 1. Vũ Kim Hằng : • Xác định lợi thế cạnh tranh ngành công nghiệp ô tô. • Phân tích chiến lược xúc tiến trong 4P. Đánh giá mức độ hoàn thành công việc : Tốt. 2. Dương Tùng Lâm : • Powerpoint. • Phân tích chiến lược sản phẩm trong 4P. • Phân tích những thành công và thất bại của Ford. • Các bài học kinh nghiệm. Đánh giá mức độ hoàn thành công việc : Tốt. 3. Đỗ Bảo Ngọc : • Phân tích môi trường. • Phân tích chiến lược kinh doanh chung của FORD. • Chiến lược marketing toàn cầu của FORD . • Phân tích chiến lược giá trong 4P. • Phân tích chiến lược sản phẩm trong 4P. Đánh giá mức độ hoàn thành công việc : Tốt. 4. Võ Minh Thảo : Nhóm trưởng • Tổng hợp tài liệu, chỉnh sửa file Word hoàn chỉnh. • Nhận định chung về thị trường ô tô thế giới Trang 4 • Chiến lược marketing toàn cầu của FORD • Phân tích chiến lược phân phối trong 4P. Đánh giá mức độ hoàn thành công việc : Tốt. 5. Thái Nguyễn Tường Vy : • Phụ trách viết mở đầu, kết luận. • Phụ trách viết sơ lược lịch sử công ty. • Triết lý kinh doanh của FORD. Đánh giá mức độ hoàn thành công việc : Tốt. Trang 5 Mục Lục Lời Mở Đầu 7 1. Giới thiệu sơ lược 8 1.1 Lịch sử hình thành Ford Motor : 8 1.2. Lĩnh vực hoạt động 8 1.3 Kết quả hoạt động thời gian gần đây 9 1.4 Triết lý kinh doanh của FORD : 10 2.Chiến lược kinh doanh của Ford : 13 2.1 Phân tích sơ lược một số các yếu tố môi trường thế giới chính: 13 2.1.1 Tình hình kinh tế, tài chính. 13 2.1.2 Chính trị và luật pháp. 13 2.1.3 Văn hoá, xã hội. 14 2.1.4 Khoa học và công nghệ 15 2.2. Xác định lợi thế cạnh tranh trong ngành công nghiệp ô tô: 16 2.2.1 Áp lực cạnh tranh từ khách hàng 16 2.2.2. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành : 16 2.2.3. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn 19 2.2.4 Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp 20 2.2.5 Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế 20 2.3 Chiến lược kinh doanh chung của FORD : 20 2.3.1 Chiến lược kinh doanh toàn cầu chung 20 a. Sức ép giảm chi phí: 21 b. Sức ép thích nghi địa phương. 25 Trang 6 2.3.2 Liên minh chiến lược. 26 a. Liên minh hợp tác khác ngành 26 b. Liên minh hợp tác cùng ngành 28 3.Chiến lược Marketing quốc tế của FORD 30 3.1 Nhận định chung về thị trường ô tô thế giới : 30 3.1.1 Thị trường Bắc Mỹ : 30 3.1.2 Thị trường Nam Mỹ : 32 3.1.3 Thị trường Châu Âu : 32 3.1.4 Thị trường châu Á & Thái Bình Dương : 35 3.1.5 Thị trường châu Phi và Trung Đông : 38 3.2 Chiến lược Marketing toàn cầu tổng quát của FORD : 40 3.3 Các chiến lược Marketing Mix 4P : 42 3.3.1 Chiến lược sản phẩm : 42 3.3.2 Chiến lược giá : 46 3.3.3 Chiến lược phân phối : 53 3.3.4 Chiến lược xúc tiến : 55 4. Nhận xét về thành công, thất bại và rút ra bài học kinh nghiệm của FORD : 63 4.1 Những thành công của Ford : 63 4.2. Những thất bại của Ford 66 4.3. Bài học kinh nghiệm 69 Lời Kết 71 Danh Mục Tham Khảo 72 Trang 7 Lời Mở Đầu Một trong bốn hãng sản xuất xe đứng đầu thế giới, Ford Motor Company, trong hai năm trở lại đây thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng với những tin tức về sự bất ổn trong tình hình hoạt động. Tuy vậy, từ những ngày đầu mới thành lập đến nay, với sự lãnh đạo của gia đình nhà Ford, không ai có thể phủ nhận đẳng cấp của Ford về chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng. Không chỉ được công nhận tại thị trường Mỹ, Ford còn mang đẳng cấp của mình đến với nhiều khu vực và nhiều quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự thành công đó bắt nguồn từ sự tận tâm của lực lượng lao động, các bộ phận, phòng ban của mỗi chi nhánh, bên cạnh đó không thể không kể đến óc lãnh đạo tài tình với các chiến lược, chiến thuật kinh doanh và marketing của những nhà lãnh đạo tài ba, là đầu tàu cho sự đi lên của Ford. Nắm bắt được điều đó, nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài “Chiến lược marketing quốc tế của Ford motor company”. Bải nghiên cứu gổm ba chương: y Chương 1: Giới thiệu sơ lược y Chương 2: Chiến lược kinh doanh y Chương 3: Chiến lược marketing quốc tế y Chương 4: Nhận xét sự thành công, thất bại và rút ra bài học kinh nghiệm từ Ford Với những nội dung nêu trên, nhóm nghiên cứu tin rằng bài tiểu luận sẽ là những kiến thức bổ ích cho chính bản thân cũng như giúp cho các bạn sinh viên trong việc trang bị thêm kiến thức về việc áp dụng các chiến lược marketing quốc tế trong thực tế của các công ty, tập đoàn, từ đó rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm và tạo một nền tảng chắc chắn giúp ích cho việc học tập cũng như cho công việc trong tương lai. Trang 8 1. Giới thiệu sơ lược 1.1 Lịch sử hình thành Ford Motor : Là tập đoàn đa quốc gia của Mỹ và là một trong những nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới, Ford được thành lập vào ngày 16 tháng 6 năm 1903 bởi Henry Ford (30.7.1863 – 7.4.1947) cùng với mười một nhà đầu tư khác và $28.000 tiền vốn. Trong những năm đầu khi mới thành lập, công ty chỉ sản xuất được vài chiếc ôtô mỗi ngày tại nhà máy nằm trên đại lộ Mack ở Detroit. Henry Ford thành lập ra hãng Ford năm ông 40 tuổi. Và từ đó đến nay Ford trở thành một trong những công ty lớn nhất và mang lại nhiều lợi nhuận nhất trên thế giới. Ford có trụ sở chính đặt tại Dearborn, bang Michigan, ngoại ô của Metro Detroit. Đến nay, hãng đã sở hữu rất nhiều nhãn mác xe hơi nổi tiếng thế giới bao gồm Lincoln và Mercury tại Mỹ; Volvo tại Thụy Điển. Ford cũng nắm một phần ba số cổ phiếu tại Mazda của Nhật. Đứng thứ ba trong số những hãng ôtô bán chạy nhất thế giới vào năm 2005, tập đoàn này còn là một trong mười tập đoàn có doanh thu cao nhất trên thế giới. Đây cũng là một trong số ít các công ty đã trụ vững được sau cuộc Đại suy thoái kinh tế. Từ hơn 100 năm nay, hãng luôn nằm dưới sự lãnh đạo của các thành viên trong gia đình Ford. Các thị trường chính trên thế giới của Ford là Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương, Nam Mỹ , Châu Phi và vùng Trung Đông. • Ford tại Việt Nam Công ty Ford Việt Nam thuộc tập đoàn ô tô Ford được thành lập năm 1995 và khai trương nhà máy lắp ráp ở tỉnh Hải Dương (cách Hà Nội 55 km) hai năm sau đó vào tháng 11/1997. Với hơn 100 năm kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế của công ty Ford Motor, và 10 năm hoạt động tại thị trường Việt Nam, Ford Việt Nam (FVL) đã đạt được nhiều thành công tại thị trường đang phát triển này. Từ vị trí thứ 7 trên thị trường khi bắt đầu hoạt động tại Việt Nam năm 1997, Ford Việt Nam đã nhanh chóng phát triển và đến hết năm 2004, Ford Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 2 trên thị trường với 14% thị phần. 1.2. Lĩnh vực hoạt động Ra đời từ một nhà máy chuyên nâng cấp xe Wagon, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Ford là sản xuất và kinh doanh xe hơi và các bộ phận xe hơi. Bên cạnh đó là các dịch vụ tài chính liên quan đến xe hơi, dịch vụ cho thuê xe hơi và các dịch vụ liên quan trực tiếp đến xe hơi. Với phương pháp sản xuất theo dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng loạt, và là hãng đấu tiên sử dụng dây chuyền lắp ráp tự động trên thế giới, từ những ngày mới thành lập Ford đã nhanh chóng chiếm Trang 9 lĩnh thị trường, cuối năm 1913, Ford là nhà cung cấp 50% số xe tại thị trường Mỹ và đến năm 1918 một nửa số xe trên nước Mỹ là Model T của Ford. Năm 1999, Ford được đánh giá là một trong những nhà sản xuất ô tô có mức sinh lợi lớn nhất thế giới. Đến nay, Ford đã là một trong bốn nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới cùng với Toyota, General Motors và Volkswagen. 1.3 Kết quả hoạt động thời gian gần đây Những ngày đầu mới thành lập, Ford chỉ sản xuất một vài chiếc xe một ngày với nhóm hai hoặc ba công nhân làm việc với một chiếc xe. Đến 2008, số công nhân của Ford ở Mỹ lên đến 87.700 người và 245.000 người trên toàn thế giới. Suốt những năm cuối 1990, Ford đã bán ra một số lượng lớn xe hơi trong nền kinh tế bùng nổ của Mỹ với sự phát triển của thị trường chứng khoán và giá cả nhiên liệu thấp. Tháng 12.2006, Ford đã quyết định thế chấp toàn bộ tài sản của công ty để vay 24 tỉ USD từ ngân hàng. Ở thời điểm đó, tuy Ford gặp một số khó khăn nhất định, nhưng nền kinh tế Mỹ vẫn đang tăng trưởng vững vàng. Cuối cùng, khi khủng hoảng nổ ra, Ford vẫn duy trì được sự độc lập của mình và từng bước vượt qua cuộc khủng hoảng lớn nhất của ngành công nghiệp ô tô trong hàng chục năm qua. Năm 2006, hãng đã gặp phải sự thua lỗ lớn nhất trong lịch sử công ty với con số 12,7 tỉ USD, và dự đoán sẽ chưa đạt được lợi nhuận đến năm 2009. Tuy nhiên, trong quý II năm 2007, Ford đã gây ngạc nhiên khi doanh thu trên toàn thế giới đạt 172,5 tỉ USD, đạt mức lợi nhuận 750 triệu USD. Dù vậy, công ty cũng kết thúc một năm vói 2,7 tỉ USD thua lỗ. Năm 2007, lần đầu tiên trong vòng 56 năm, với doanh số bán ra tại Mỹ, Ford từ hạng hai rơi xuống hạng thứ ba, xếp sau General Motors và Toyota. Với doanh số trên toàn thế giới, Ford xếp hạng tư sau cả Volkswagen. Đến năm 2009, Ford đã trở thành hãng sản xuất ô tô lớn thứ hai ở châu Âu (chỉ sau Volkswagen), với hai thị trường lớn là Anh và Đức. Quý II năm 2008, hãng công bố báo cáo tài chính về mức thua lỗ 8,76 tỉ USD, đây được coi là quý làm ăn thảm hại nhất trong lịch sử 105 năm của hãng. Doanh số bán ra của các loại xe do Ford Motor chế tạo riêng tại thị trường nội địa Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2008 giảm tổng cộng 14% so với mức giảm chung 10% của tất cả các loại xe do các hãng chế tạo. Tháng 1 năm 2009, Ford thông báo khoản lỗ 14,6 tỉ USD trong năm trước, khiến năm 2008 là năm làm ăn thảm bại nhất trong lịch sử công ty. Ba tháng đầu năm 2009, doanh số của Ford tại Mỹ giảm 43% so với cùng kỳ năm ngoái, so với mức giảm chung 38% của toàn thị trường. Hiện Ford đang kỳ vọng những sản phẩm mới nhất của hãng, trong đó có mẫu xe sedan tầm trung Taurus mới, có Trang 10 thể ngăn sự sụt giảm xa hơn của doanh số. Các chuyên gia cũng cho rằng, Ford hiện đang cạn tiền mặt và tiền chỉ đủ dùng cho một năm nữa. 1.4 Triết lý kinh doanh của FORD : “Nếu anh coi trọng đồng tiền hơn sản phẩm của mình thì nó sẽ tiêu diệt sản phẩm của anh và phá hủy nền tảng các dịch vụ”, Henry Ford – người sáng lập Tập đoàn ôtô Ford chia sẻ. Lời phát biểu của ông là minh chứng tiêu biểu cho triết lý “Coi sản xuất là dịch vụ, coi trọng dịch vụ khách hàng” trong hoạt động kinh doanh của tập đoàn Ford. Ông đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm: "Thị trường không bao giờ bị bão hòa với một sản phẩm tốt, nhưng nó sẽ bị bão hòa rất nhanh với một sản phẩm tồi”. Trong câu nói này, nhà thiết kế kiểu mẫu xe ôtô mang tính cách mạng T Ford của năm 1908 cho chúng ta thấy rằng các sản phẩm chất lượng sẽ luôn tạo được sức mạnh lâu bền trước những sản phẩm “mì ăn liền”. Trong bất kỳ lĩnh vực sản xuất nào, sẽ luôn có ít “những sản phẩm tốt” và sự phát triển của những mặt hàng nhái được sản xuất hàng loạt. Ông Ford thúc giục chúng ta cần chắc chắn rằng những gì chúng ta đưa tới người tiêu dùng phải có chất lượng cao để có thể đánh bật mọi sự cạnh tranh. Theo những quan điểm này, về sau Ford đã tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt khi kinh doanh ôtô Ford. Giá cả và chất lượng của loại xe này đã tạo ra một thị trường, thậm chí là một thị trường lớn. Và khách hàng mua ôtô của Ford cũng đã và đang tiếp tục được phục vụ chu đáo. Tiểu sử vị lãnh đạo của Ford cho chúng ta thấy ông là con người của sáng kiến, do đó một điều tất yếu Đổi mới, Sáng tạo cũng là châm ngôn hoạt động của ông nói riêng và của tập đoàn Ford nói chung. Ông phát biểu: “Các nhà kinh doanh thường sa sút trong làm ăn vì họ luôn áp dụng phương thức cũ mà không chịu đổi mới. Bởi họ là những người không hiểu rằng ngày hôm qua đã là quá khứ và sáng hôm sau, họ thức dậy vẫn mang tư tưởng từ năm ngoái. Như thế, chúng ta gần như có một công thức là: cuối cùng khi một người đã tìm ra phương pháp cho mình thì anh ta nên tự xem lại bản thân để biết trí óc của mình có làm việc tích cực không. Sẽ là mối nguy hiểm khôn lường nếu anh ta là người luôn rập khuôn máy móc bởi vì sớm muộn anh ta sẽ bị văng ra khỏi vòng xoáy cuộc Trang 11 sống.” Trong suốt quá trình phát triển của Ford, những thiết kế mới với các tính năng phù hợp tiện dụng hơn cho người sử dụng đồng thời giúp tiết kiệm nhiên liệu và bảo vệ môi trường được liên tục sản xuất ra thị trường. Đội ngũ lao động là một bộ phận không thể thiếu góp phần cho sự đi lên của Ford. Henry Ford cùng với tập đoàn của ông ngay từ những ngày đầu đã rất quan tâm đến những hoạt động hỗ trợ cho công nhân viên. Coi trọng đội ngũ lao động là một triết lý hoạt động tiến bộ mang lại nhiều ảnh hưởng tốt đẹp cho công ty. Ford là công ty đầu tiên ở Mỹ áp dụng chính sách lương tối thiểu và tuần làm việc 40 tiếng trước khi chính phủ cho thi hành đạo luật này. Tháng 1 năm 1914, hãng đã nâng cao tính hiệu quả của công ty bằng cách tăng lương gấp đôi cho nhân viên và áp dụng giờ làm việc 8 tiếng/ngày thay vì 9 tiếng như trước đây. Hãng tiến hành thuê những công nhân lành nghề và từ đó năng suất lao động tăng vọt còn số lượng nhân công từ bỏ công việc giảm đi rõ rệt do chi phí sản xuất giảm. Sự kết hợp các nhà máy hiệu quả cao, nguồn nhân công được trả lương hậu hĩnh và những quy trình sản xuất chi phí thấp của Henry Ford đã được khắp thế giới biết đến như là Triết lý kinh tế vào năm 1914. Hiện nay trong xu thế toàn thế giới đang lâm vào khủng hoảng kinh tế, FORD đang đề ra một triết lý kinh doanh mới : “ONE FORD ONE TEAM . ONE PLAN . ONE GOAL” Ford đã, và vẫn đang khẳng định đẳng cấp của mình. Theo www.ford.com, ta có thể hiểu “One Ford – One Team. One Plan. One Goal” như sau: y One Team (một Đội) Mọi người cùng làm việc với nhau như một tổ chức lãnh đạo ô tô toàn cầu, tổ chức là tập hợp của: Khách hàng, Đội ngũ lao động, Thương nhân, Nhà đầu tư, Nhà cung cấp, Công đoàn/Hội đồng, và Sự thỏa mãn Cộng đồng. Ford luôn hướng đến và lắng nghe khách hàng, thương nhân, lực lượng lao động, UAW (công đoàn liên hiệp công nhân ô tô), nhà cung cấp, nhà đầu tư, cộng đồng, chính quyền các địa phương, liên bang, coi tất cả các thành phần kể trên là nhân tố chủ yếu cho sự thành công của việc kinh doanh trong tương lai. y One Plan (một Kế hoạch) - Điều chỉnh một cách phù hợp để hoạt động có hiệu quả tại nhu cầu hiện thời và thay đổi mô hình hỗn hợp. - Thúc đẩy sự phát triển các dòng sản phẩm mới mà khách hàng mong muốn và ưa chuộng. Trang 12 - Cấp vốn cho các kế hoạch và cải tiến bảng cân đối kế toán. - Làm việc cùng nhau như một tổ chức thống nhất một cách hiệu quả. y One Goal (một Đích đến) Tất cả vì một sự tăng trưởng lợi nhuận của FORD. Trang 13 2.Chiến Lược Kinh Doanh Của FORD : 2.1 Phân tích sơ lược một số các yếu tố môi trường thế giới chính: 2.1.1 Tình hình kinh tế, tài chính. Năm 2006 đến khoảng đầu năm 2007 là năm của hạnh phúc, năm vinh quang rực rỡ của nền kinh tế thế giới. (Nguồn: Nhưng cũng không ngờ trong bối cảnh vinh quang ấy đã tiềm tàng những nguy cơ yếu tố dẫn đến cuộc đại suy thoái gây hậu quả năng nề cho nhưng năm 2008, 2009 và về sau. Những chính sách kinh tế lũng đoạn, thiếu sáng suốt, sự thiếu trách nhiệm và uy tín trong khâu dịch vụ cho vay cầm cố trên thị trường tài chính Mỹ đã làm cho nền kinh tế Mỹ lung lay ở mức báo động đỏ, rồi hàng loạt các ngân hàng tuyên bố phá sản, hàng ngàn công ty sụp đổ, hàng ngàn người mất việc …. Bằng một cái hắt hơi của mình ông trùm kinh tế Mỹ đã khiến toàn thế giới phải lao đao lâm vào tình trạng đại khủng hoảng. Theo đài thông tấn xã BBC cho hay, tổ chức quỹ tiền tệ thế giới đã thông báo rằng nền kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng rất chậm vào năm 2008 và 2009 bởi cuộc khủng hoàng vào khoảng 3.7% thấp hơn năm 2007 là 1.25%. Dẫn đầu cuộc suy thoái sẽ là nền kinh tế Mỹ với sự tăng trưởng thấp 1.6%. Đến ngày hôm nay của năm 2009, nhà kinh tế học vừa đoạt giải Nobel thế giới, Paul Krugman Wins, dự đoán rằng cuộc khủng hoảng và nền kinh tế thế giới đã chạm đáy, mọi thứ đã dần ổn định nhưng để có thể phục hồi lại như cũ thì đây vẫn còn là một câu hỏi hóc búa, khó khăn. 2.1.2 Chính trị và luật pháp. Thời đại ngày nay là thời đại của Toàn Cầu Hoá và Hội Nhập. Tất cả các nước dần xích lại gần nhau hơn. Các khối liên minh khu vực được thành lập và mở rộng ra với mục đích làm thế đối trọng với các nền kinh tế lơn như Mỹ…. Đối với các liên minh khu vực, tổng thống, thủ tướng từ các nước luôn họp bàn, đề ra các biện pháp nâng cao sức mạnh của các nước trong liên minh và cả khối liên minh nói chung. Ngoài ra còn luôn cố gắng xây dựng một sự thống nhất trong liên minh như là đồng tiền chung, bộ luật chung…. Trang 14 Nền kinh tế mậu dịch tự do là cái đích mà các nhà kinh tế lớn mong muốn. Quan điểm này đã được các nhà kinh tế học lớn tác động, truyền đến các quốc gia trên thế giới. Ngày nay các quốc gia trên thế giới đang cố gắng xây dựng một nền kinh tế thị trường, ít can thiệp từ chính phủ, nhà nước và một nền kinh tế thế giới tự do có thể. Tuy vậy, thực tế vẫn tồn tại các đạo luật bảo vệ mậu dịch khu vực, bảo hộ các nhà sản xuất trong nước, các hàng rào thuế quan, hạn ngạch không thống nhất, khác nhau ở từng quốc gia. Ở một số quốc gia, nhà nước còn can thiệp quá sâu vào thị trường. Vẫn còn tồn tại sự phân biệt đối xử nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác, trong và ngoài nước, khu vực này với khu vực khác. Vấn đề năng lượng ngày càng trở nên nóng bỏng trên toàn cầu. Các quốc gia luôn cố gắng bảo vệ các nguồn tài nguyên của nhau và một số quốc gia còn dùng chính trị bằng phương pháp hoà bình đến vũ lực để cạnh tranh với quốc gia khác nhằm mục đích chiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá cho chính quốc gia mình. Đây cũng là một trong các nguyên nhân chính yếu dẫn đến các cuộc chiến tranh lạnh hay các cuộc chiến tranh thảm khốc trên toàn thế giới. Một trong các vấn đề cần đề cập quan tâm tới đó là môi trường. Hiện tại môi trường con người đang ở mức báo động, hàng loạt các hành dộng biện pháp đã được đề ra nhằm bảo vệ môi trường như hạn chế sử dụng túi nilông vì thời gian phân huỷ của túi nilông là quá lâu, hạn chế khí thải, khuyến khích sử dụng năng lượng tự nhiên như gió, mặt trời… các cuộc họp liên hiệp thượng đỉnh luôn cảnh báo về vấn để ô nhiễm môi trường toàn cầu. Hầu hết các quốc gia đã, đang rồi sẽ phải đề ra các bộ luật các chương trình hành động bảo vệ môi trường một cách chặt chẽ. Tất cả những chương trinh này hiển nhiên sẽ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp lên mọi người, mọi doanh nghiệp… 2.1.3 Văn hoá, xã hội. Toàn cầu hoá không chỉ mang các quốc gia gần lại với nhau về kinh tế và chính trị mà còn cả về văn hoá, nhận thức, và một số điều khác. Xu hướng quan niệm ngày nay tại các quốc gia đã dần thay đổi một phần khác với truyền thống ngày xưa, hội nhập và bị ảnh hưởng dần bởi các phần còn lại trên thế giới. Ngày nay khi khoa học công nghệ giữ một vị trí quan trọng trong đời sống thì các vật dụng hiện đại nhỏ gọn, tiết kiệm đang ngày càng trở nên được ưa chuộng hơn nhất là khi mà kinh tế toàn cầu đang trong tình trạng khủng hoảng như hiện nay. Xu hướng thích những vật dụng to, đồ sộ, và tốn nhiều xăng hay nhiều chi phí đã dần bị thu hẹp lại và chỉ xuất hiện ở một số quốc gia như Mỹ…. Hầu hết người tiêu dùng ưa chuông sản phẩm tiết kiệm về chi phí, nhỏ nhắn xinh xắn, tiện dụng. Cuộc suy thoái vừa qua ở Mỹ là bằng chứng cho điều này. Các loại xe của ngành sản xuất xe của Mỹ trước kia ưa chuộng là mấy thì trong thời kỳ khủng hoảng phải nằm phủ tuyết trắng xoá trong kho vì không thể tiêu thụ được. Người dân Mỹ vôn dĩ hào phóng và không ngại vay mượn nay khi chịu tác động nặng từ cụôc suy thoái kinh tế đã hạn chế chi tiêu, tiết kiệm ở Trang 15 mức tối đa. Họ đã chuyển dịch từ những chiếc xe to lớn, chi phí cao sang những chiếc xe nhỏ gọn, tiết kiệm chi phí của Nhật sản xuất. Với nhận thức trình độ ngày càng cao, con người càng đặt nặng vấn đề yếu tố môi trường, sức khoẻ lên hàng đầu. Những sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường đang là những sản phẩm được ưa chuộng hơn. Yếu tố xanh sạch, có lợi cho sức khoẻ được các nhà sản xuất, kinh doanh chọn là khiá cạnh mạnh để quảng cáo, nâng cao danh tiếng của mình. Boeing, nhà sản xuất máy bay nổi tiếng của Mỹ, cũng đang cố gắng hết sức quảng bá hình ảnh của mình như là một nhà sản xuất những chiếc máy bay thân thiện với môi trường chạy bằng các nguyên vật liệu tự nhiên như dầu mè. 2.1.4 Khoa học và công nghệ Thế kỷ 21 và các thế kỷ về sau, dù thời gian nào đi nữa thì khoa học công nghệ luôn đóng một vai trò quan trọng đối với tri thức nhân loại con người. Mỗi cuộc cách mạng khoa học, mỗi phát minh sáng chế mới là mỗi chià khoá mở ra một cách cửa mới, các thách thức mới cho con người nói chung và cho các ngành kinh doanh nói riêng. Nhiều công nghệ sản xuất mới dần được ra đời thay thế lẫn nhau. Nếu trước kia xe hơi chạy bằng hơi nước, rồi đến hệ thống diesel thì nay công nghệ hybrid lên ngôi nhưng về sau rồi sẽ lai được thay thế bằng các công nghệ khác tiên tiến hơn phù hợp hơn với lựa chọn, nhu cầu, xu hướng tiêu dùng, xu hướng ước muốn của khách hàng. Xu hướng phát triển khoa học công nghệ ngày nay phục vụ, hỗ trợ giúp xu hướng suy nghĩ con người ngày nay thành hiện thực. Đó là phải thân thiện với môi trường, thân thiện với người dùng, nhỏ gọn, tiện dụng và gây sự thích thú. Nguồn nguyên liệu tự nhiên như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, sức nước… được các nhà khoa học, con người trên thế giới khuyến khích và ưa chuộng. Thế kỷ 21 là thời gian mà các con chip, sự tự động hoá lên ngôi. Mạng lưới website, internet là một điều không thể thiếu trong cuộc sống, chi phối gần như mọi hoạt động con người. Các phát minh khoa học tạo nên các sản phẩm có thể gần gũi, chia sẻ tâm tư tình cảm với con người rất được ưa chuộng, hấp dẫn, đáng quan tâm. Tóm lại, trong môi trường kinh doanh phát triển đa dạng và sức cạnh tranh cao như thế này thì khoa học công nghệ là một công cụ đắc lực, yếu tố sống còn giúp cho các nhà sản xuất tạo nên lợi thế cạnh tranh cho mình trong thế kỷ mới này. Trang 16 2.2. Xác định lợi thế cạnh tranh trong ngành công nghiệp ô tô : 2.2.1 Áp lực cạnh tranh từ khách hàng Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Hiện nay, thị trường của Ford trải rộng ở khắp nơi, không chỉ ở thị trường Mỹ mà còn ở Canada, Mexico, Anh, Đức, Brazil, Argentina, Australia, Trung Quốc, và nhiều nước khác trong đó có cả Việt Nam. Ford đã thu hút hàng triệu khách hàng trung thành nhờ dòng sản phẩm đa dạng và sáng tạo xứng đáng với giá trị của nó. Thứ nhất, Ford có những thương hiệu xe hơi hạng sang như dành cho những khách hàng cao cấp, những người ưa thích sự nổi bật và riêng biệt sẵn sàng bỏ một số tiền lớn, so với mặt bằng thu nhập chung, để sở hữu những thương hiệu hạng sang qua đó họ thể hiện phong cách, gu thẩm mỹ của mình. Ví dụ như dòng xe Ford GT nguyên bản có giá dao động từ 140.000 USD đến 157.000 USD, các mức giá có thể tăng thêm khác nhau phụ thuộc vào những lựa chọn thêm của khách hàng. Ngoài ra với chiếc Ford GT đã được hãng độ xe Hennessey nâng cấp, với rất nhiều điểm khác biệt, chiếc xe này đã được đưa lên trang mua bán lớn nhất thế giới để đấu giá với mức giá khởi điểm là 229.500 USD. Ngoài ra, Ford đã mua lại hai hãng chế tạo ô tô của Anh Jaguar vào năm 1989 với giá 2,5 tỉ đô la Mỹ và Land Rover vào năm 2000 với giá 2,7 tỉ đô la Mỹ, sau đó sáp nhập hai hãng này với Aston Martin và Volvo, thành tập đoàn Premier Automotive Group chuyên cung cấp những dòng xe thời thượng, tuy vậy hiện nay Ford đã bán lại hai thương hiệu cao cấp Jaguar và Land Rover cho tập đoàn Tata của Ấn Độ với giá 2,3 tỷ USD. (truongton.net/forum/showthread.php?t=636096&page=5 - 160k) Bên cạnh đó, Ford cũng sản xuất xe hơi với mức giá trung bình dành cho phần lớn đối tượng người tiêu dùng, đặc biệt ở các thị trường đông dân và đầy tiềm năng như Trung Quốc, Ấn Độ. Đặc biệt, trong thời kỳ suy thoái hiện nay, những chiếc xe hạng trung có thể là một hướng đi để thành công. Đó là các dòng xe như Ford Escape, Ford Edge, Ford Focus, Ford Fusion…. Với mức giá dao động từ 14000 đến khoảng 25000.. Thứ hai, trước xu hướng sử dụng xe cỡ nhỏ của người tiêu dùng, Ford cũng đã bắt nhịp với sự thay đổi này bằng việc chuyển trọng tâm từ những mẫu xe “cồng kềnh” và “ăn” xăng sang những mẫu xe ít tiêu hao nhiên liệu hơn. Một trong những bước đi quan trọng đầu tiên của Ford là bỏ ra 75 triệu USD ở chi nhánh Michigan Truck để sản xuất những mẫu xe cỡ nhỏ. 2.2.2. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành : Có thể nói đối thủ cạnh tranh lớn nhất hiện nay của Ford Motor Co. không ai khác chính là Toyota Motor Co - hãng ô tô hàng đầu của Nhật Bản và cũng là nhân vật sóan ngôi GM trở thành nhà sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới. Đây Trang 17 cũng là công ty vừa đánh vào thị trường cao cấp, vừa đánh vào phân khúc bình dân. Thật vậy, Toyota Motor Co đã qua mặt hãng Ford Motor Co. để trở thành công ty thứ hai về doanh số bán xe ô tô tại thị trường Mỹ năm 2007, nhờ việc liên tục đưa ra những sản phẩm mới và kiên trì theo đuổi chiến lược hạ bệ Ford – vốn đã chiếm giữ vị trí trên trong vòng 75 năm qua. Theo số liệu công bố ngày 03/01, trong năm 2007 Toyota đã bán được 2,62 triệu xe ô tô các loại và xe tải, tăng 3%. Trong khi đó, Ford chỉ bán được 2,57 triệu chiếc, giảm 12% so với năm 2006. Đồng thời, tại một thị trường mà Ford đã từng rất thành công là thị trường Nga hiện nay cũng đã phổ biến là các dòng xe Toyota (21,3%), trong khi đó thị phần của Ford chỉ là 6,5%. Còn tại Việt Nam, cho đến hết tháng 7 năm 2007, doanh số bán của Toyota Motor Co đã đạt mức 9.936 xe chiếm 28.4% thị phần ô tô, nâng tổng số bán cộng dồn của Toyota Motor Co lên con số kỷ lục gần 83,000 chiếc kể từ khi thành lập.Cùng với sự tăng trưởng về doanh số bán, số lượng khách hàng trung thành của Toyota cũng tăng lên đáng kể. Tính đến tháng 7/2007, Câu lạc bộ Toyota đã có hơn 900 hội viên vàng trong đó hơn 200 hội viên thuộc khu vực phía Bắc và hơn 700 hội viên thuộc khu vực phía Nam. (www.vntrades.com/tintuc/name-News-file-article-sid-11170.htm - 45k -) Sở dĩ Toyota chiếm lĩnh được thị trường như vậy không chỉ dựa vào thương hiệu Nhật Bản nổi tiếng về công nghệ, chất lượng, độ bền , kỹ thuật mà còn nhờ vào sự nhanh nhạy trong việc đáp ứng nhu cầu thị trừơng. Nhu cầu tăng mạnh đã tạo điều kiện cho công việc kinh doanh tiến triển. Tuy vậy thị trường cũng ngày càng cạnh tranh và luôn đòi hỏi các nhà sản xuất phải đa dạng hóa sản phẩm cũng như nâng cao sự sáng tạo. Toyota đã được chuẩn bị rất chu đáo cho sự thay đổi trong nhu cầu của khách hàng. Thật sự không có gì ngạc nhiên khi mà chiếc xe đầu tiên mà Toyota bán ở thị trường Mỹ là Land Cruiser - là loại xe thể thao chuyên dụng. Công ty bây giờ đã phát triển thêm 5 loại tương tự khác mà những hãng sản xuất xe hơi khác đang phải theo gót. Không chỉ nhanh nhạy đáp ứng nhu cầu thị trừơng, Toyota cũng đã phát triển mạnh mẽ nhờ những giá trị cốt lõi, đó chính là sản xuất ra những chiếc xe có chất lượng cao nhất với giá cạnh tranh. Thật vậy, hầu hết những người dân Việt Nam sở hữu và sử dụng xe Toyota đều đánh giá chiếc “xế hộp” của mình rất tiện dụng, phụ tùng xe Toyota cũng dễ kiếm, máy bền lại rất kinh tế vì ăn ít xăng ( trong khi đó nhiều dòng xe Ford bị đánh giá là hao xăng, khó kiếm được phụ tùng thay thế), điều này đặc biệt có ý nghĩa trong thời buổi nhiên liệu tăng giá liên tục như hiện nay, chất lượng tốt với mức giá vừa túi tiền nhiều người càng khiến nó trở nên hấp dẫn hơn. Ông Nobuhiko Murakami, Tổng giám đốc Toyota Việt Nam “bật mí” bí quyết của hãng để khiến chiếc Innova lại có giá thành cạnh tranh và được ưa chuộng đến thế, chính là yếu tố nội địa hóa. Trong những năm gần đây, nhờ hoạt động của xưởng dập và trung tâm xuất khẩu phụ tùng ô tô cũng như đẩy mạnh hoạt động của mạng lưới các nhà cung cấp, TMV là thành viên dẫn đầu VAMA về tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 15 đến 33% (tùy theo từng sản phẩm). Trang 18 TMV cũng lý giải một nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến thành công vượt bậc của hãng là các hoạt động chăm sóc khách hàng. Trong 10 tháng đầu 2007, các trạm dịch vụ của Toyota đã đón hơn 290.000 lượt xe vào làm dịch vụ, tăng 18% so với cùng kỳ 2006. (nguồn : ww.toyotabienhoa.net/news/detail_news.asp?idtt=60&show=vn - 13k -) Bên cạnh việc mở rộng dịch vụ bảo dưỡng nhanh và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Vào tháng 9/2007, TMV cũng lần đầu tiên giới thiệu cho người tiêu dùng dịch vụ sửa chữa nhanh thân vỏ và sơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian mà vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ cao. Không chỉ Toyota mà hiện nay Honda cũng là một trong những đối thủ đáng gờm của Ford. Trong một cuộc thăm dò kết quả cho thấy các hãng xe hơi nổi tiếng của Nhật như Honda vẫn là nhãn hiệu tin tưởng nhất của người tiêu dùng châu Á. Không chỉ ở Châu Á, ngay trên đất Mỹ, các đại gia sản xuất xe hơi hàng đầu Nhật Bản là Toyota Motor và Honda Motor tiếp tục tung hoành và lấn át cả các đại gia Mỹ ngay trên sân nhà của họ. Trong năm 2008, các hang xe Mỹ bị tụt giảm thị phần ngay chính tại thị trường của mình so với năm 2007 (Ford từ 16.5% xuống 15.4%) thì các hang xe Nhật như Toyota và Honda thì có thị phần tăng lên đáng kể (thị phần Toyota tăng từ 17.2% tới 18.4%) và Honda thì thị phần tăng từ (9.3% lên 12%). Thậm chí tại châu Âu, nơi những nhà sản xuất xe hơi của Nhật Bản bị coi là những kẻ đến sau thì Honda cũng có một kết quả rất khả quan. Báo cáo cho thấy, doanh số của hãng đã tăng tới 23% trong năm nay, tương ứng với khoảng 380.000 xe đã được bán. Honda cũng dự đoán sẽ tiếp tục tăng 11% doanh số bán vào năm sau, đạt ngưỡng 420.000 chiếc. (nguồn : sales-champ.html; vietnambranding.com/...su.../Honda-dang-tren-da-tang-truong-manh - 23k) Với những sự mở rộng sản xuất của mình tại Brazil và Argentina, doanh số bán hàng của Honda đang tăng trưởng rất mạnh tại thị trường Nam Phi, nhảy vọt lên tới hơn 30% với 118.000 chiếc xe được bán trong năm nay. Tại Trung Quốc, một thị trường đông dân nhất trên thế giới, Honda cũng đã lên kế hoạch để đạt được con số tăng trưởng 29% một năm, tương đương với lượng xe tiêu thụ hàng năm là 420.000 chiếc. Mới đây nhất, trong năm 2009, cùng với những dòng xe của hãng Toyota, những chiếc xe hơi của Honda như Honda Civic - giá chỉ dẫn của nhà sản xuất: 22.150 - 23.650USD, Honda Accord - giá chỉ dẫn của nhà sản xuất: 21.175 - 29.400USD, Acura TL, cũng là một sản phẩm của Honda - giá chỉ dẫn của nhà sản xuất: 33.325 - 33.525USD, Honda Odyssey - giá chỉ dẫn của nhà sản xuất: 25.510 - 38.810USD nằm trong top mười chiếc xe kinh tế và hữu dụng nhất và đây luôn được coi là một trong những chỉ dẫn đáng giá với người mua sắm do tờ tạp chí chuyên về hàng tiêu dùng Consumer Reports bình chọn. (nguồn : www.hiendaihoa.com/automoto_detail.php?id=252 - 57k -) Trang 19 2.2.3. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn Những gã khổng lồ Mỹ, trong đó có Ford Motor. Co. đang mất dần quyền lực trong ngành công nghiệp ôtô toàn cầu. Hiện tại, chúng ta đã có thể nghe thấy tiếng đe dọa từ những tên tuổi Trung Quốc vốn luôn nuôi tham vọng sở hữu những thành trì đổ nát mà người Mỹ vừa đánh đổ. Thật vậy, không thể phủ nhận sự phát triển mạnh mẽ của các nhà sản xuất ôtô mới đến từ Trung Quốc, Ấn Độ đang thực sự là mối đe dọa những tên tuổi lâu năm của các thương hiệu xe hơi nổi tiến hiện nay. Theo tính toán, cuối năm nay, Trung Quốc sẽ thay thế Nhật để trở thành nước sản xuất ôtô nhiều nhất thế giới và có cơ hội thôn tính nhiều tài sản của các tập đoàn Mỹ, vốn đang gặp khủng hoảng. Trong các thế lực mới nổi, Trung Quốc chiếm thế thượng phong. Đầu năm nay, Geely, hãng xe tư nhân lớn nhất nước này đã mua nhà cung cấp hộp số của Australia. Weichai Power, một trong các nhà sản xuất động cơ diesel thuộc hàng top, đồng thời hãng này cũng đã mua hãng động cơ dầu của Pháp. BYD thì trình làng mẫu xe điện dân dụng đầu tiên, trước cả khi GM cho ra đời Chevrolet Volt. Phil Lienert, một chuyên gia về thông tin thị trường xe hơi trên Internet, cho rằng: “Vấn nạn lớn nhất của ngành sản xuất ôtô Hoa Kỳ là khi TQ bắt đầu bán xe hơi vào đây. TQ sẽ qua mặt Đức với tư cách là nhà sản xuất ôtô lớn thứ ba thế giới (sau Nhật và Mỹ - LTS), và nếu họ đã làm được những loại xe đó, bạn sẽ thấy chúng có mặt khắp nước Mỹ trong 10 năm tới.. Không chỉ Trung Quốc, tại một nơi khác cũng đang nổi lên là một trung tâm xe hơi mới của thế giới đó chính là đất nước vùng Nam Á - Ấn Độ. Thị trường từng được xem là nhỏ bé đang bắt đầu thu hút sự đầu tư mới một cách nghiêm túc để có thể biến nó thành một thị trường lớn thực sự. Khattar cũng nhấn mạnh rằng các hãng Maruti, Tata Motors và Hyundai sẽ có được quy mô sản xuất lớn khi mỗi hãng hiện nay có thể sản xuất hơn 200.000 chiếc mỗi năm. Hiện tại, toàn bộ ngành công nghiệp Ấn Độ, những nhà sản xuất nội địa và liên doanh nói chung thì sản xuất được khoảng 1,4 triệu chiếc mỗi năm. Chính phủ cũng hi vọng doanh thu bán hàng của Ấn Độ sẽ từ 34 tỷ USD năm 2006 tăng lên 145 tỷ USD trong năm 2016. Nếu được như vậy thì nền công nghiệp xe hơi trong nước sẽ chiếm khoảng 10% GDP. Ấn Độ cũng có thể tự hào với lực lượng lao động rẻ, chất lượng cao và năng suất đáng kể. Đất nước này cũng đang bắt đầu xây dựng khu vực thiết kế và sản xuất phụ tùng và bộ phận của những chiếc ô tô lớn hơn, khu vực này đang thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Ngành kinh doanh phụ tùng xe hơi Ấn Độ được dự kiến sẽ có doanh thu hàng năm tăng gấp 3 lần hiện nay, từ 12 tỷ USD lên 40 tỷ USD trong năm 2014. Qua những phân tích trên đây có thể thấy rằng, thời đại của của ngành công nghiệp ôtô đến từ Trung Quốc, Ấn Độ đang tới rất gần, thực sự là mối đe dọa to lớn cho những đại gia hiện nay. (nguồn : www.vietbao.vn/O-to-xe-may/Thi-truong-xe-hoi-An-Do.../350/ - 56k Trang 20 2.2.4 Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp Ford đã thành lập mối quan hệ với Penske Logistics, một trong những nhà cung cấp dịch vụ hậu cần tốt nhất. Penske Logistics sẽ quản lý và điều chỉnh luồng di chuyển của nguồn lực của sản xuất của 19 nhà máy lắp ráp ở khu vực Bắc Mỹ qua đó đẩy nhanh tốc độ và giảm được chi phí cho chuỗi cung ứng. Tùy từng nhà máy sản xuất ở các nước, các khu vực khác nhau trên thế giới mà Ford sử dụng các nguồn cung ứng thép khác nhau như Ford Uc có nhà cung cấp thép là công ty thép Tokyo Boeki (Úc)….Tất cả những công ty đa số là những nhà cung cấp rất có uy tín trên thị trường. Do đó Ford phải giữ mối quan hệ với các nhà cung cấp này để duy trì nguồn cung ổn định. 2.2.5 Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế Trong thời đại khủng hoảng kinh tế và nhiên liện như hiện nay, để sở hữu một chiếc xe ôtô quả thật không phải là chuyện dễ dàng. Thêm vào đó, vấn nạn kẹt xe, trễ giờ làm, tìm chỗ đậu xe, chi phí sữa chữa, hỏng hóc đang thực sự là mối lo cho người lái xe.Bên cạnh đó, cùng với những khuyến khích kêu gọi từ phía chính phủ, thì xe búyt, tàu điện ngầm mang tính an toàn , tiện dụng , chi phí thấp đang là những phương tiện đi lại được người dân lựa chọn ngày càng phổ biến. Thậm chí, một số nước hiện nay còn kêu gọi người dân đi xe đạp và hãy rời xa những chiếc xe hơi để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và giải quyết tình trạng tắc đường ở các thành phố lớn. Việc đạp xe mang lại nhiều lợi ích về sức khỏe và tiết kiệm tiền, giảm thiểu những tác động của khí thải mà xe cộ tạo ra. Tại một số thị trừơng ở Châu Á như Việt Nam chẳng hạn, thói quen sử dụng xe gắn máy vẫn tồn tại phổ biến trong người dân, không chỉ vì đường phố nhỏ hẹp, cơ sở hạ tầng còn kém mà vì thuế suất ôtô bị đánh rất cao và còn vì mặt hàng ôtô Nhà nước không quản lý giá như một số mặt hàng khác nên không thể phạt nếu doanh nghiệp tăng giá quá cao. 2.3 Chiến lược kinh doanh chung của FORD : 2.3.1. Chiến lược kinh doanh toàn cầu chung Khoảng những năm 80 trở về trước của thế kỷ 20 xe hơi là một trong các phương tiện hiện đại và phát minh tiên tiến nhất trong lịch sử loài người. với nền kinh tế toàn cầu đang dần phát triển, nhu cầu ngày càng được khơi mở, với tiềm lực xây dựng, phát triển tại Mỹ, Ford Motor đã dần xây dựng cho mình vị trí một ông hoàng thống trị mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất xe hơi lúc bấy giờ với chiến lược kinh doanh quốc tế. Nếu như khi ấy, áp lực chi phí sản xuất không cao, nhu cầu con người chỉ ở mức tương đối đó là khát khao có một chếic xe hơi trong mơ dễ dàng thuận tiện đi qua các vùng, xu hướng thích xe đồ sộ to lớn, quan niệm tiết kiệm về nhiên liệu Trang 21 hay tiền bạc vẫn chưa có một tác động mạnh mẽ, khoa học công nghệ tuy phát triển rất mạnh nhưng vẫn còn một số hạn chế … thì lúc đó một chiếc xe hơi do Ford Motor sản xuất dường như là một giấc mơ chỉ có thể thoả mãn với những tầng lớp cao, dư dả tiền bạc. Chiến lược kinh doanh quốc tế đã mang lại cho Ford những khoản lời không lồ và tiềm lực cạnh tranh mạnh. Nhưng ngày nay, những năm đầu của thế kỷ 21, ván bài đã xoay vòng lật mặt. thế giới những năm 2007-2009 vừa qua đã phải hứng chịu cuộc đại khủng hoảng kinh tế nặng nề, quan niệm nhận thức con người về sự tiết kiệm, về năng lượng, kích cỡ … đã phát triển thay đổi và khác xa so với những năm trước kia nhất là sau cuộc đại khủng hoảng vừa qua. Khoa học kỹ thuật theo thời gian ngày càng phát triển tiến bước lên một tầm cao mới xa hơn vượt bậc hơn. Thế kỷ 21 giờ đây là thị trường cho các công cụ nhỏ gọn, các con chip tinh vi và đa năng. Ngày nay vấn đề môi trường đang và rổi sẽ ngày càng là vấn đề nóng bỏng trên khắp năm châu thế giới… Trước những sự thay đổi lớn này và cùng với một số thay đổi nhỏ và những thay đổi tiềm tàng, chiến lược kinh doanh toàn cầu của Ford cũng phải thay đổi để thích nghi và phát triển để theo đuổi một sứ mạng đặt ra ngay từ đầu khi mà Ford hình thành. Vậy trong thế kỷ 21 này Ford Motor đã chọn cho mình chiến lược gì? Nhóm nghiên cứu sẽ nhận định chiến lược kinh doanh toàn cầu của Ford Motor với hai yếu tố nền tảng đó là sức ép giảm chi phí và sức ép thích nghi với môi trường. a. Sức ép giảm chi phí: Ngày nay khi khoa học công nghệ phát triển vượt bậc, nước Mỹ đã không còn giữ vị trí bá chủ về khoa học hay kinh tế, thì đồng nghĩa các ngành chủ đạo nhất ngành ô tô của Mỹ phải chịu một sức ép cạnh tranh rất lớn từ các quốc gia mới phát triển sau như Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc…. Nhận định rằng các đối thủ cạnh tranh đáng gờm nhất đối với các hãng xe của Mỹ đó là Nhật. Các hãng xe Toyota, Honda dần càng phát huy sức cạnh tranh của mình đánh vào khía cạnh giá thành sản phẩm, giá bán thấp nhưng đầy đủ các chức năng tiện nghi không thua kém gì và nhiều khi còn vượt trội hơn so với Ford Motor của Mỹ. Đó chính là sức ép rất lớn buộc ông trùm Ford phải cân nhắc. Đã có một khoảng thời gian vì cứ mãi bám trụ theo chiến lựơc cũ, ngủ quên trên chiến thắng Ford đã để các địch thủ đàn em tận dụng lợi thế người đi sau cũng với khả năng mạnh mẽ của mình đã vượt qua mặt, khiến Ford liên tiếp gặp thất bại và chịu nhiều khoản lỗ nặng. Trang 22 Trong một câu hỏi đưa ra trên diễn đàn yahoo rằng loại xe nào tốt hơn “Who is Better? Ford vs. Toyota?” thì một số câu trả lời và các bằng chứng được đưa ra chứng tỏ và thể hiện quan niệm cho rằng xe của hãng Toyota hoạt động tốt và bền hơn rất nhiều xe được sản xuất từ Ford là rất nhìu. Giá bán lại một chiếc Ford và một chiếc Toyota đã qua sử dụng có sự chênh lệch nhau rất lớn. “Toyota all the way. That is why their resale value is so much higher. I've had both and the Fords always had more problems. They end up being more expensive because of the maintenance sometimes.” Ý kiến của một khách hàng dưới bí danh Felicia B. (Nguồn: Ngày nay các đàn em, đối thủ của Ford liên tục đa dạng hoá các loại sản phẩm của mình, giảm đáng kể chi phí sản xuất tối đa từ đó cho ra mức giá cạnh tranh gắt gao với hàng loạt các sản phẩm đa dạng. Điều này đã và đang gây sức ép cạnh tranh rất lớn lên ông trùm xe motor Ford. Dưới đây là bảng so sánh giá của xe Ford Taurus được cho là cạnh tranh với Toyota Camry Price Comparison (MSRP) : Ford Taurus vs. Toyota Camry Model Year 2009 2009 Model Taurus Camry Trim Limited XLE V6 Trang 23 Body 4dr Sedan 4dr Sedan Base Price $30,670 $28,695 Floormats $199 Heated front seats $440 Navigation system $1,995 $1,200 Remote start $395 $529 Satellite radio $449 Stability control $650 Sunroof $895 Sunshade, rear $225 Total options $3,510 $3,467 Destination $825 $720 Gas Tax / Credit $0 $0 Net Price $35,005 $32,882 Lowest Net Price Camry XLE V6 4dr Sedan Difference $2,123 (nguồn: comparison.php?session_code=&aff= ) Bảng giá khởi điểm của từng loại sản phẩm của Ford và Toyota được thống kê lấy từ website chủ của các hãng. (đơn vị: $) Ford Toyota Cars Focus sedan 15.520 Yaris 12.205 Trang 24 Focus coupe 16.400 Corolla 15.350 Fusion 19.270 Matrix 16.290 Mustang 20.995 Camry 19.395 Taurus 25.170 Camry solara 20.180 Prius 22.000 Venza 25.975 Avalon 27.845 Hybrids Fusion hybrid 27.270 Pirus 22.000 Escape hybrid 29.645 Camry hybrid 26.150 Highlander hybrid 34.700 Crossovers Edge 26.635 Taurus X 28.270 Flex 28.550 SUVS Escape 20.435 RAV4 21.500 Sport trac 27.460 FJ cruiser 23.320 Explorer 28.470 Highlander 25.705 Expedition 34.150 4runner 28.640 Sequoia 38.530 Land cruiser 64.755 Sienna 24.540 Trucks Trang 25 Ranger 16.395 Tacoma 15.170 F-150 20.815 Tundra 23.155 F-250 super duty 25.285 F-350 super duty 26.005 E-series 28.165 F-450 super duty 42.010 b. Sức ép thích nghi địa phương. Một yếu tố thứ hai bất kể công ty đa quốc gia nào một khi đã bước chân ra thị trường đều phải suy nghĩ kỹ về điều này. Philip Kotler cho rằng quan niệm sai lầm khi nghĩ rằng nhu cầu, ước muốn khách hàng thế giới cũng như là khách hàng nội địa là yếu tố giết chế sự thành công của công ty. Do đó với Ford cũng vậy. Đã qua rồi thời gian người tiêu dùng chịu ảnh hưởng của quan niệm cứ to cứ đồ sộ mới là đẹp là uy lực. Ngày nay, ngay cả chính khu vực phương tây, nơi nguồn gốc xuất phát của quan niệm to mới đẹp, cùng với thế giới đã chuyển sang quan niệm nhỏ nhắn xinh xắn, gọn nhẹ, tiện dụng, thanh lịch mới là đẹp. Quan niệm này càng mạnh hơn và gây áp lực hơn đối với bất kỳ nhà sản xuất tại các quốc gia Phương Đông nhất là Nhật Bản, Hàn Quốc …. Những nhà sản xuất nào muôn đặt chân, phát triển duy trì tại những thị trường này họ buộc phải thay đổi và thích nghi với thị trường đó. Một ví dụ khác đơn giản hơn về sự thích nghi theo từng vị trí địa lý, ý thích, xu hướng con người ở từng điạ phương đó là vị trí tay lái thuận. Nếu như tại Mỹ khách hàng thuận lái tay trái thì ngay tại Anh thuộc khối EU thì ngược lại thuận lái bên tay phải. Nếu như tại Mỹ khí hậu tương đối lạnh, máy sưởi là yếu tố quan trọng trong xe thì tại những xứ nóng điển hình như là Việt Nam hay các quốc gia Châu Phi thì xem ra yếu tố máy sưởi trong xe hoá ra lại thừa. Do đó, Ford với lĩnh vực sản xuất xe chịu áp lực về thích nghi khu vực ở mức tương đối cao. Dựa vào các phần trên mà nhóm nghiên cứu đã trình bày về môi trường, lợi thế cạnh tranh, phần này dựa vào hai yếu tố đó là áp lực về chi phí và sự thích nghi địa phương, nhóm nghiên cứu nhận định chiến lược kinh doanh toàn cầu hiện nay của Ford đó là Chiến lược xuyên quốc gia. Bằng chiến lược xuyên quốc gia sẽ giúp Ford Motor phát triển trên thị trường thế giới trong hoàn cảnh này. Ford Motor vẫn tiếp tục theo con đường cạnh tranh chung chính đó là chiến lược khác biệt hoá tập trung để tạo nên sự khác biệt, thích thú, một nét cảm hứng chỉ có ở Ford trong khách hàng. Trang 26 Ford Motor với bốn nhãn hiệu chính đó là Ford, Volvo, Lincoln, Mercury và các loại sản phẩm chính như xe hơi, xe hybrid, xe tải … nhằm phục vụ khách hàng của mình. Hiện tại các loại xe mang nhãn hiệu Ford được tập trung sản xuất theo chiến lược chi phí thấp nhằm cạnh tranh với các mặt hàng tương xứng của các đối thủ khác như Toyota, General Motor, Honda…. Mặt khác Ford vẫn có những sự khác biệt riêng lớn bao trùm. Đó là sự tin cậy trong khách hàng trong loại hàng xe tải chuyên chở, dòng F và E-series mặt hàng được cho là thế mạnh của Ford khó có thể cạnh tranh qua các năm. Đó là dòng nhãn hiệu hạng sang cao cấp như Volvo đánh vào khu vực Châu Âu; Lincoln, Mercury Châu Mỹ và khu vực Trung Đông…. Đó là đẳng cấp thú vị, phong cách độc đáo mà Ford đem lại cho khách hàng của mình. Trên đây chính là nên tảng cơ sở Ford theo đuổi con đường cạnh tranh chung là khác biệt tập trung và chiến lược xuyên quốc gia để xây dựng lợi thế cạnh tranh với các đối thủ đàn em khác trong ngành ngay tại Mỹ và các nước trên toàn thế giới. Phần giá nhỉnh hơn giữa các sản phẩm của Ford với đối thủ cạnh tranh đó chính là phần bù cho điểm vốn có mà Ford muốn mang lại. 2.3.2. Liên minh chiến lược. Thời đại ngay nay, trước sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối thủ trong ngoài ngành, thuộc hay khác quốc gia nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, lợi thế của từng nước… và một số sức ép từ chính trị như hàng rào thuế …, sức ép từ xã hội như vấn đề môi trường … thì vần đề liên minh chiến lược không còn là một chuyện mới mẻ. một quy luật tồn tại của cuộc sống đó là phải quan hệ, tiếp xúc với nhau. Trong cạnh tranh cũng vậy. Tuy hoạt động trong cùng một ngành nhưng không phải lúc nào cũng luôn là đối thủ, cũng phải cạnh tranh nhau với nguyên lý một mất một còn. Nhiều khi hợp tác bắt tay cũng là một trong các chiến lược rất tốt mà bất kể công ty nào nhất là các công ty quốc gia nên và phải cân nhắc thực hiện. Liên minh ở đây được hiểu ra trên hai khía cạnh đó là trong ngành và khác ngành. Đây cũng là một chiến lược mà tập đoàn Ford Motor sử dụng. a. Liên minh hợp tác khác ngành Ford Motor đã tạo mối quan hệ, liên minh với một số các tập toàn, công ty lớn khác ngành như: Trang 27 Bằng cách bắt tay hợp tác với các tập đoàn lớn khác, Ford nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành, đáp ứng triệt để, tối ưu các nhu cầu ước muốn của khách hàng. Hai bên liên minh đều có lợi khi sản phẩm của mình được giới thiệu rộng rãi dựa vào danh tiếng của nhau, tận dụng lợi thế của nhau để bù đắp, xây dựng, phát triển lợi thế cho chính mình nhằm tăng cường sức cạnh tranh trên trường quốc tế và ở từng quốc gia. Sau những lúc thua lỗ hàng tỷ USD gần 2.7 tỷ USD trong những năm 2007 - 2008, bằng quyết định sáng suốt bắt tay với ông trùm lĩnh vực phần mềm Microsolf, Ford Motor đã dần lấy lại vị thế của mình. Hệ thống SYNC trong phiên bản xe Ford Focus là kết quả của sự liên minh này đã đem về cho cả Ford và Microsolf những khoản doanh thu lớn, làm thoả mãn ước muốn sự quan tâm cuả khách hàng qua hàng loạt các chức năng như nghe nhạc, tìm kiếm địa chỉ qua vệ tinh, gửi thông tin đường bộ, nhận và nhắn tin SMS… và nhất là hệ thống này còn có thể báo trước cho người lái biết khu vực nào đang bị ùn tắc xe và đưa ra chỉ dẫn tốt nhất về hướng đi mới, một chức năng rất được khách hàng Trang 28 ưa chuộng. Doanh số bán hàng của những chiếc Ford Focus đã tăng lên đáng kể 22.5% so với cùng kỳ năm 2007. Còn với Microsolf trong tương lai dù ở bất kỳ đâu thì bạn vẫn không thể thoát khỏi các thông tin quảng cáo. Liên minh Ford và Sony cũng là một ví dụ hùng hồn khác về sự thành công của Ford. Bằng cách liên minh với Sony, tập đoàn Ford đã nhanh chóng lấy lòng được nhiều khách hàng trẻ tại khu vực Bắc Mỹ với những chiếc xe trang bị thiết bị Sony Xplod. b. Liên minh hợp tác cùng ngành Ngày công nghiệp xe hơi là một chiếc bánh béo bở mà các ông trùm lớn không muốn bỏ, các đối thủ cạnh tranh mới muốn chen chân vào. Là một trong những ngành mũi nhọn của các quốc gia để cạnh tranh nhau. Những ông trùm lớn của ngành công nghiệp nặng này đó là GM, Ford, Honda, Toyota, Hyundai-Kia, Nissan, Volkswagen, DaimlerChrysler … và các hãng xe mới nổi từ Trung Quốc và Ấn Độ… Liên minh trong ngành là một điều không thể thiếu và cực kỳ gay cấn không chỉ đối với Ford mà còn với tất cả các công ty, tập đoàn đa quốc gia khác. Những diễn biến thị trường thế giới ngày nay như sáp nhập, chia tách, bán mua đang tạo nên một trào lưu "lai tạp" sản phẩm giữa các hãng, nghĩa là động cơ của hãng này, hộp số của hãng kia và ngược lại. Trên thực tế, xu hướng này đang trở nên phổ biến bởi còn rất ít nhà sản xuất tự mày mò làm từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất để lắp ráp thành xe. Nếu làm theo cách cũ và truyền thống thì chi phí và cái giá trả cho những sản phẩm đó quá cao mà rào cản bắt chược thì càng ngày càng thấp và dễ bị phá vỡ, sự chắc chăn về tính hiện đại của công nghệ ấy qua một thời gian để đủ thu hồi vốn và kiếm lãi là quá rủi ro. Do đó, dù nhiều khi có “một mất một còn” thì vẫn phải liên minh những lúc cần thiết. Trước kia để cạnh tranh và phát triển những thị trường mới, hãng xe Mazda (Nhật) đã bán 15% vốn của mình cho Ford. Sau đó Mazda đã bị lâm vào tình trạng khủng khoảng tài chính. Do vậy, ngày 31 tháng 3 năm 1999, Ford đã trở thành cổ đông chính với tỷ lệ nắm giữ lên đến 33,4% và nắm giữ quyền điều hành. Liên minh Ford – Mazda bắt đầu từ đó. Sự hợp tác đã giúp cho Ford sản xuất một số model dựa trên các model của Mazda như chiếc Probe, model mới nhất là Escort (Bắc Mỹ) và Mercury Tracear và chiếc hợp tác sản xuất Escape/Mazda Tribute. Năm 1979 nổi bật với sự kiện Ford bán những model của Mazda tại Châu Á và Úc dưới cái tên như Laser và Telstar. Những model này thay thế các model của Ford châu Âu được bán trong những năm 70. Ford cũng sử dụng các model của Mazda để chiếm lĩnh thị trường Nhật bản. Tại đây, nhà phân phối là công ty Autorama đã bán những chiếc xe này, cùng với các model của Ford Mỹ và Ford châu Âu. Những model thiết kế thời kỳ này không còn được sản xuất vào đầu thế kỷ 21 nữa khi Ford thay thế chiếc Laser bằng chiếc Focus và chiếc Telstar bằng chiếc Mondeo của hãng. Trang 29 Ford và Mazda đã đi đến hợp tác mang ý nghĩa hơn dựa trên nền tảng chia sẻ. Ford đã sử dụng các lợi điểm Mazda như thế nào thì ngựơc lại Mazda cũng như thế. Mazda đã bán những chiếc xe hơi được xây dựng trên các model của Ford như chiếc Mazda 121 dựa trên chiếc Ford Fiesta. Nhờ sự giúp sức của Ford, Mazda dần tiến sâu vào đất Mỹ phát triển các loại động cơ tốt hơn với các mẫu xe hiện đại hơn. Hãng đã dành tâm huyết cho hai sản phẩm là RX-7 và 626 để mở rộng thương hiệu trên nước Mỹ. Họ xây dựng một nhà máy ôtô của Mỹ (nay là AutoAlliance International) để sản xuất chiếc 626 và Ford đã hỗ trợ rất nhiều cho dự án này. Hiện tại Ford vẫn đang liên minh hợp tác chặt chẽ với Mazda dưới tên gọi Auto Alliance (một liên minh nổi tiếng chỉ sau liên minh lâu đời NUMMI (New United Motor Manufacturing Inc) nhất thế giới, đóng tại Fremont, California, giữa General Motors và "khắc tinh" Toyota; tròn 23 tuổi và là nơi cho ra đời những chiếc Pontiac, Toyota Tacoma và Toyota Corolla) xúc tiến sản xuất các mẫu xe như Mazda 2, Mazda 3, Mazda 6 những chiếc xe dựa trên kiểu thiết kế của Ford Fiesta và Ford Focus và những chiếc Mustang huyền thoại. Liên minh này tiếp tục duy trì bằng các kế hoạch đầu tư hàng tỷ USD vào các nhà máy liên doanh sản xuất tại Thái Lan, Trung Quốc và Mỹ. Với liên minh hợp tác này hai hãng sẽ giúp nhau phát triển xây dựng những loại động cơ tốt và mới hơn, các loại sản phẩm của mình, cùng nhau duy trì và sống sót bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Mặc dù chiến đấu "sứt đầu mẻ trán" trên thương trường nhưng Ford và GM cũng đã bắt tay nhau phát triển hệ truyền động 6 cấp. Và gần đây đã có nhiều thông tin cho hay hai ông trùm hàng đầu của Mỹ dự định liên kết hợp tác sau khi cuộc thương lượng đàm phán của hãng Renault-Nissan (Pháp) với GM và Ford thất bại gần đây. Hai hãng này muốn hợp tác với nhau để cải tổ hiệu quả sản xuất sau cuộc khủng hoảng vừa qua. Trước sự ra đời và phát triển của công nghệ hybrid, các nhà quản trị cấp cao của Ford đã tuyên bố chung chung: “Chúng tôi gặp gỡ thường xuyên với những nhà sản xuất ôtô khác để thảo luận về rất nhiều chủ đề liên quan tới lợi ích chung.” Một số thông tin nói rằng Ford muốn đàm phán để có thể sử dụng công nghệ hybrid của Toyota dù thực tế là Ford đã trả tiền mua dây truyền sản xuất bộ dẫn động của Escape Hybrid bởi nó tương tự như hệ thống Hybrid Synergy Drive của Toyota. (nguồn: ) Trang 30 3.Chiến lược Marketing quốc tế của FORD 3.1 Nhận định chung về thị trường ô tô thế giới : 3.1.1 Thị trường Bắc Mỹ : Đây được xem như là sân nhà của Ford. Như chúng ta đã biết, Mỹ là quốc gia có sản lượng sản xuất xe hơi hàng đầu thế giới với hàng loạt các đai gia như GM, Chysrler và các hãng xe hơi khác của Đức và Nhật Bản như Mercedes, Toyota. Chính điều này đã khiến cho tổng kim ngạch của nền công nghiệp xe hơi và các ngành liên quan chiếm tới 1/5 tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế quốc dân Mỹ. Điều này lý giải vì sao mặc dù trong những năm gần đây, tuy thị trường xe hơi Mỹ có sự ảm đạm do ảnh hưởng của suy thoái, tuy nhiên các hãng xe lớn vẫn không ngừng đầu tư vào Mỹ vì nhưng khoản lợi nhuận khổng lồ do thói quen tiêu dùng này. (trụ sở chính của FORD tại Detroit, Mỹ) Theo báo cáo gần đây nhất của Ford, trong tháng 4/2009 vừa rồi lượng tiêu thụ xe hơi giảm mạnh 34% so với cùng kì năm ngoái. Hiên nay doanh số tiêu thụ xe hơi của Mỹ rơi xuống mức thấp nhất trong 3 thập kỉ qua.. Vì bận mối lo thất nghiệp và suy thoái kinh tế, đa số người tiêu dùng không màng chuyên mua xe mới mặc dù các đại lý đưa ra nhiều ưu đãi. Cụ thể doanh số tiêu thụ ô tô tại Bắc Mỹ giảm 55%, còn tại Mỹ trong giảm 41% tính đến hết tháng 2, đưa doanh số xuống còn 9.1 triệu xe. Trong khi năm trước con số này là 15.4 triệu xe. Ba nhà sản xuất ô tô lớn nhất Mỹ là GM, Ford và Chrysler đều giảm doanh số. GM giảm 53%, Chrysler giảm 44%. Các nhà sản xuất ô tô Nhật như Toyota, Nissan…thì có khá hơn nhưng nói chung đều giảm. Trang 31 (nguồn : tạp chí FORD số tháng 5/09 tại www.at.ford.com) Bắc Mỹ là 1 trong những thị trường lớn của thế giới. Mỹ cùng với Canada và Mexico tạo thành 1 khu vực kinh tế hết sức phát triển. Tại đây Ford đã xây dưng cho mình 14 nhà máy lắp ráp và 23 nhà máy sản xuất phụ tùng trên khắp các bang của nước Mỹ, Canada và Mexico. Mexico được xem như là 1 nhà sản xuất của Mỹ bởi lẽ giá nhân công ở đây thấp, đa phần các sản phẩm hoặc linh kiện công nghệ cao của Mỹ đều đưa qua Mexico sản xuất, sau đó nhập khẩu ngươc về Mỹ theo 1 quy trình khép kín. Cùng với thuận lợi về việc giáp ranh biên giới nên mậu dịch giữa 3 quốc gia rất dễ dàng. Với dân số vào khoảng 518 triệu người, trong đó Mỹ chiếm dân số đông nhất. Điều này cho thấy quy mô thị trường Bắc Mỹ là rất lớn. Người Mỹ luôn tự hào là cường quốc số một trên thế giới về nhiều lĩnh vực, trong đó có cả ngành công nghiệp chế tạo ô tô. Chính vì vậy giá thành ô tô ở đây tương đối rẻ so với mức thu nhập trung bình của người dân. Hơn nữa tại Mỹ và Canada lại có chế độ hỗ trợ vay vốn nên càng tạo điều kiện dễ dàng để người dân có thể sở hữu 1 chiếc xe hơi. Chính đặc điểm này nên tại Mỹ, xe hơi được xem như là 1 tài sản thông dụng, đặc biệt chính vì sự hiện diện của quá nhiều các hãng xe khiến cho người tiêu dùng Mỹ có thói quen “thay xe như thay áo”. Người tiêu dùng Mỹ rất coi trọng thời trang và kích thước của chiếc xe. Họ thích nhưng chiếc xe SUV to lớn, kềnh càng (chẳng hạn như chiếc Chevy Trail Blazer, Chevrolet Tahoe và Ford Explorer) vì chúng cao, to (nên dễ dàng tạo được cảm giác an toàn tối đa cho người lái hơn là khi họ ngồi trên một chiếc xe nhỏ. Ngoài ra, người tiêu dùng Mỹ cũng thường có 1 chiếc xe bán tải (Truck- based SUV) như là phương tiện di chuyển thú 2 trong gia đình. Nói chung các loại xe này ngốn khá nhiều nhiên liệu. Tuy nhiên hiện nay, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và giá xăng dầu tăng, người tiêu dùng Mỹ nói riêng và thế giới nói chung phải áp dụng chính sách “thắt lưng buộc bụng”. Do đó xu hướng này chuyển sang sử dụng các loại xe nhỏ, tiết kiệm nhiên liệu như Toyota Prius hay Ford Fiesta…. Trang 32 3.1.2 Thị trường Nam Mỹ : Các quốc gia Nam Mỹ từ lâu vốn được xem như là “sân sau” của Mỹ. Ngoài trừ 1 số quốc gia thiết lập chế độ bảo hộ mậu dịch hay chống đối với Mỹ như Venezuela hay Bolivia…. Thì đa số các quốc gia còn lại khá thoáng trong việc nhập khẩu hàng của Mỹ, torng đó có ô tô Ford. 2 thị trường lớn nhất của Ford tại đây là Brazil và Aghentina. Bằng chứng là Ford đã cho xây dựng 2 chi nhánh lớn tại đây. Ford cũng thuê hơn 18 nghìn nhân công trong khu vực. Có thể nói tại khu vực Nam Mỹ vẫn là 1 thị trường còn bỏ ngỏ bởi lẽ các hãng xe châu Âu chưa xuất hiện nhiều tại đây. Nhìn chung các hãng xe Mỹ, trong đó có Ford vẫn tạm chiếm thế thượng phong tại thị trường này. Trong thời gian gần đây, do có bất ổn về chính trị dẫn đến khủng hoảng kinh tế như Aghentina và nạn khủng bố tại 1 số quốc gia như Colombia khiến cho thị trường Nam Mỹ cũng không mấy lạc quan. Đặc điểm thị trường Nam Mỹ đó là hầu hết là các nước đang phát triển, đa số người tiêu dùng chỉ có mức thu nhập trung bình khá với GDP trên đầu người cao nhất vào khoảng 7000 USD/năm (thống kê năm 2006). Dân số của khu vực Nam Mỹ là gần 400 triệu người. Điều này cho thấy thị trường Nam Mỹ cũng hết sức tiềm năng cho dòng xe hạng trung như Ford Focus hay Ford Fiesta…Cùng với cuộc khủng hoảng toàn cầu, người dân Nam Mỹ cũng phải thưc hiện chính sách tiết kiệm. Vì vậy một xu hướng tiêu dùng nữa là mua xe cũ nhập của Mỹ. 3.1.3 Thị trường Châu Âu : Châu Âu là thị trường tiêu thụ xe hơi thứ hai sau khu vực Bắc Mỹ. Như chúng ta đã biết, đa số các nước châu Âu (trừ Nga và một số nước Đông Âu khác) đã thống nhất và tạo lập nên một thị trường chung.Các nước trong thị trường chung châu âu vốn dĩ đã có mối quan hệ giao hảo với Mỹ, cùng với chính sách cởi mở trong việc buôn bán mậu dịch nên tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho Ford xâm nhập và phát triển trên thị trường này. Đầu tư vào châu Âu, Ford nhận thấy cái lợi trước mắt đó là trình độ lao động chất lượng cao tại đây, cùng với chính sách Trang 33 thông thoáng của chính phủ và hệ thống giao thông thông suốt, hiện đại. Hơn nữa đa số người dân ở đây đều có mức sống cao với thu nhập bình quân cao vì đa phần là các nước phát triển, dân số vào khoảng 731 triệu (đứng thứ 3 thế giới). Châu Âu hiện có tới 5 trên 8 nước công nghiệp phát triển nhất thế giới. Chính vì vậy mà thị trường ô tô ở đây chịu sự cạnh tranh gay gắt của rất nhiều hãng xe. Ford phải gặp các đối thủ rất mạnh như Mercedes, VW của Đức, Renault của Pháp hay Fiat của Ytalia… (nguồn : tạp chí FORD châu Âu số tháng 3/09, tại www.at.ford.com) Có thể nói thị trường xe hơi châu Âu giống như 1 chiếc bánh gatô bị xé nhỏ thành nhiều mảnh. Hiện tại chiếc bánh này đang được chiếm được ưu thế bởi Volkswagen, với thị phần năm 2008 là 18.8 % và doanh số khoảng 3 triệu chiếc. Các nhà sản xuất PSA (Citroen, Peugeot) từ Pháp và từ Mỹ Ford (Ford, Volvo) đạt được thị phần tương ứng là 13.5% và 10% (theo autonet.com.vn) Trong tháng 3/09, so với cùng kỳ năm 2008, tại Đức doanh số bán ô tô tăng 39,9% do chính phủ nước này đưa ra kế hoạch hỗ trợ người tiêu dùng “đổi xe cũ-mua xe mới”. Các sáng kiến tương tự cũng được thực hiện tại Pháp và Italia, đẩy doanh số bán tăng đáng kể. Tuy nhiên, doanh số bán tại Anh và Tây Ban Trang 34 Nha lại sụt giảm mạnh, với mức tương ứng 30,5% và 38,7%. Ngoài ra, tính trong cả quý I/09, doanh số bán ô tô tại châu Âu giảm 17,2% so với quý I/08. Thị trường châu Âu hiện nay đang mở ra những cơ hội đầy hứa hẹn cho các nhà sản xuất xe hơi. Sự tác động của suy thoái kinh tế đã khiến nhu cầu của người dân không chỉ riêng châu Âu và trên toàn cầu hướng tới dòng xe nhỏ, tiết kiệm nhiên liệu. Có thể nhận thấy qua con số 3,4 triệu chiếc xe mới được bán trong quý I năm 2009. Mặc dù giảm 17% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng lượng xe nhỏ có xu hướng tăng trong khi đó xe cỡ lớn giảm nhanh chóng. (nguồn:ố-ban-o-to-giảm-9-trong-thang-309.html) Về thị hiếu tiêu dùng xe tại châu Âu, người tiêu dùng châu Âu vốn dĩ rất khó tính. Trái ngược với phong cách sử dụng xe của người Mỹ, người dân châu âu chọn lựa xe theo tiêu chí là nhỏ gọn và tiết kiệm nhiên liệu và bảo vệ môi trường. Do vậy tại thị trường này, các dòng xe sử dụng động cơ Diesel được tiêu thụ rất mạnh, chiếm hơn 50% doanh số so với xe sử dụng động cơ xăng. Lý do là xe dùng động cơ Diesel tiết kiệm nhiên liệu trung bình từ 25% đến 40% so với động cơ xăng. Một xu hướng nữa trong việc chọn lựa xe của người châu Âu đó là họ thích những chiếc xe trang bị kỹ thuật hiện đại và mang dáng vẻ thể thao. Điều này lý giải vì sao mà các hãng xe thể thao nổi tiếng đều xuất xứ từ vùng đất này. Vd như Ferrari hay BMW… Hiện nay thị trường xe hơi châu Âu vẫn còn đang phát triển rất mạnh. Những năm gần đây nổi lên 1 số thị trường, điển hình nhất là Nga. Theo một dự báo của R. L. Polk & Co., Nga sẽ trở thành thị trường tiêu thụ xe hơi lớn nhất châu Âu từ năm 2010. Năm 2007, con số xe hơi mới đăng ký đã đạt 2,35 triệu chiếc, lần đầu tiên vượt ngưỡng 2 triệu. Với con số ấn tượng đó, Nga đã đứng vị trí thứ 4 tại châu Âu, sau Đức, Ý và Vương Quốc Anh. Năm 2002, Trang 35 nước Nga chỉ tiêu thụ khoảng 1 triêu chiếc xe, và trong 5 năm gần đây nhu cầu trên thị trường này không ngừng tăng với tốc độ khoảng 140%. Theo dự báo, mức tăng trưởng trong vài năm tới còn mạnh mẽ hơn nữa, đẩy con số xe tiêu thụ lên khoảng 3,7 triệu chiếc một năm vào năm 2010 – một con số vượt lên so với mức tiêu thụ tại tất cả các quốc gia châu Âu khác hiện tại. Nắm bắt được tình hình đó, Ford đã rất nhanh nhạy khi trở thành hãng xe nước ngoài đầu tiên mở nhà máy lắp ráp tại Nga và vào ngày 16/7/2007, Ford đã khai trương đại lý lớn nhất châu Âu tại Moscow. Hiện nay tại thị trường châu Âu nói chung, Ford vẫn theo đuổi chiến lược tập trung sản phẩm vào phân khúc xe trung lưu, tiết kiệm nhiên liệu. Ví dụ như các mẫu Ford Focus, Ford Fiesta hay dòng xe SUV cỡ nhỏ Ford Kuga. 3.1.4 Thị trường châu Á & Thái Bình Dương : Châu Á là châu lục có diện tích cũng như dân số đông nhất trên thế giới với xấp xỉ 4 tỉ người. châu Á là một thị trường đa dạng, với nhiều loại hình văn hoá, hệ thống chính trị và mức độ phát triển kinh tế khác nhau. Có thể nói thị trường ô tô châu Á được chia ra làm 3 thị trường nhỏ : a. Thị trường phát triển : Thị trường ô tô đã phát triển tại châu Á-Thái Bình Dương gồm các nước Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc. Dự kiến tổng doanh số tiêu thụ xe hơi của 3 nước này trong năm nay sẽ đạt 6,1 triệu chiếc, tương đương khoảng 40% của khu vực. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của các thị trường này lại khiêm tốn nhất khu vực; thậm chí trường hợp Nhật Bản, tốc độ tăng trưởng thậm chí âm. Trong 3 thị trường trên, Australia là nơi làm ăn khấm khá nhất của 3 “đại gia” ngành xe hơi Mỹ - GM, Ford, Chrysler, với doanh số chiếm 26%. Tuy nhiên, thị trường này có mức tiêu thụ xe trung bình chỉ 845.000 chiếc/năm và cũng sắp bão hoà. Tại đây, các nhà sản xuất ô tô Mỹ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt đến từ các thương hiệu Nhật Bản. b. Thị trường nhỏ vả đang phát triển : Nhóm này chủ yếu gồm các nước Đông Nam Á và Ấn Độ. Doanh số tiêu thụ ô tô của thị trường Đông Nam Á, hay còn gọi là khối ASEAN, dự kiến đạt 1,6 triệu xe trong năm nay, trong đó 3 nhà sản xuất ô tô lớn của Mỹ chỉ chiếm khoảng 3,5% và tập trung chủ yếu ở Thái Lan. Ford, GM và Chrysler đã đầu tư hơn 800 triệu USD vào Thái Lan trong thập niên 90, với hy vọng giữ vững vị thế tại thị trường quan trọng nhất khu vực ASEAN này. Tuy nhiên, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản, đi đầu là Toyota và Honda, vẫn nhanh chân hơn các “ông lớn” Detroit, nhờ lợi thế “sân nhà”. Xe Nhật Bản hiện chiếm khoảng 92% doanh số tiêu thụ ô tô của Thái Lan. Trong khi đó, doanh số tiêu thụ ô tô tại Ấn Độ ước đạt 1,5 triệu USD trong năm 2008, và những bước tiến của “Big Three” cũng rất khiêm tốn. Tổng doanh số của cả ba dự kiến đạt 96.000 xe trong năm nay, tương đương 6% thị trường. Môi Trang 36 trường cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt đối với các nhà sản xuất ô tô Mỹ tại một thị trường đặc biệt nhạy cảm với giá như Ấn Độ. Tại khu vực thị trường này, các nhà sản xuất ô tô Mỹ lại phải chấp nhận nhường “sân trước” cho các hãng xe Nhật Bản. Theo thống kê, trung bình cứ 10 chiếc ô tô bán ra thị trường thì có tới 7 chiếc mang thương hiệu Nhật Bản. c. Thị trường lớn và đang phát triển : Ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chỉ có duy nhất Trung Quốc là thị trường lớn và đang phát triển. Đây cũng là nơi bộ ba nhà sản xuất ô tô Mỹ đầu tư nhiều nhất. Dự kiến Trung Quốc sẽ tiêu thụ khoảng 6 triệu chiếc ô tô trong năm 2008, và các nhà sản xuất ô tô Mỹ sẽ chiếm khoảng 12% thị phần, tương đương 720.000 xe. Xét trong bối cảnh hiện có tới 51 mác xe ô tô được sản xuất và tiêu thụ tại Trung Quốc, bên cạnh 15-20 mác xe nhập khẩu, có thể nói rằng thị phần trên của “Big Three” là khá đáng nể. Tại thị trường này doanh số của Ford ước đạt gần 190.000 chiếc, và mác xe này đang ngày càng được người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng, đặc biệt là hai mẫu Focus và Mondeo. (nguồn: my.html) Về xu hướng trong tương lai thì Khu vực châu Á Thái Bình Dương sẽ đạt doanh số tiêu thụ xe hơi dự kiến vượt châu Âu vào năm 2009 và trở thành thị trường xe hơi lớn nhất thế giới. Theo thông tin do J.D. Power and Associates dự báo, đến năm 2009 khu vực châu Á Thái Bình Dương sẽ đạt doanh số tiêu thụ xe hơi 23 triệu xe, cao hơn so với 22,7 triệu tại châu Âu. Khu vực này vốn đã là quê hương của thị trường xe hơi lớn thứ 2 và thứ 3 trên thế giới – Trung Quốc và Nhật Bản – và trong tương lai, doanh số sẽ vẫn tiếp tục tăng mạnh tại Trung Quốc đồng thời mở rộng thêm tại các thị trường Ấn Độ, Đông Nam Á và Hàn Quốc. Jeff Schuster, giám đốc điều hành phòng dự báo của J.D. Power and Associates nói: "Rõ ràng là việc lượng xe tiêu thụ trên toàn cầu tăng trưởng mạnh năm 2007 và trong tương lai xuất phát từ nhu cầu ở hai thị trường có tốc độ phát triển thuộc loại nhanh nhất châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ, trong khi doanh số ở các khu vực khác thì chỉ biến động tăng nhẹ. Thu nhập của người dân tăng lên đều đặn tại khu vực châu Á Thái Bình Dương khiến cho ngày càng nhiều người có cơ hội sở hữu xe hơi, và chúng tôi hy vọng Trung Quốc và Ấn Độ sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng trong tương lai." Thông tin về thị trường xe hơi khu vực châu Á Thái Bình Dương càng có những dấu hiện khả quan khi thời điểm đích của dự báo càng xa. Cũng theo J.D. Power and Associates, đến năm 2014 lượng xe tiêu thụ xe tại khu vực này dự kiến đạt 31,9 triệu chiếc, chiếm tới 36% (trên 1/3) nhu cầu thị trường toàn thế giới. Trung Quốc vẫn là trung tâm của tam giác phát triển đó với tốc độ khoảng 12% trong giai đoạn 2007 - 2014, và sẽ đạt 16,3 triệu chiếc một năm vào cuối kỳ dự báo, và điều đó có nghĩa là nước này sẽ vẫn là thị trường lớn thứ 2 thế giới chỉ Trang 37 sau Mỹ. Tuy nhiên, tổ chức cung cấp thông tin thị trường nổi tiếng toàn cầu này nhận định rằng với tốc độ tăng trưởng hiện tại, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ và trở thành thị trường xe hơi lớn nhất thế giới năm 2025. Nói về xu hướng sử dụng xe tại khu vực châu á Thái Bình Dương thì phải nói đến thị trường Trung Quốc bởi lẽ đây là thị trường lớn nhất và có sự hiện diện của hầu hết các hãng xe trên thế giới, tương tự như các khách hàng tại Mỹ, cuộc bão giá nhiên liệu đã làm thay đổi tư duy và sở thích của người dân châu Á, họ đang chuyển từ những chiếc xe cỡ lớn và tiêu tốn quá nhiều nhiên liệu sang những chiếc xe nhỏ tiết kiệm nhiên liệu hơn. Phần lớn các hãng ô tô trên thế giới thành công tại thị trường Trung Quốc đều tập trung vào những dòng xe từ bình dân cho tới hạng sang, tức là những mẫu xe có giá từ 20.000 USD trở lên. Người dân Trung Quốc hài lòng với mức giá này vì họ xem đây là thước đo địa vị trong xã hội và các hãng ô tô cũng kiếm được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên giá nhiên nhiên liệu tăng lên tới 114USD một thùng và sự xuất hiện một tầng lớp khách mua hàng kiểu mới, đã ảnh hưởng tới xu hướng tiêu dùng nơi đây. Những chiếc xe nhỏ, tiết kiệm nhiên liệu và giá mềm đang trở thành những mẫu xe hot và được nhiều người chọn mua. Đây là thông tin vui với những người hoạt động môi trường tại quốc gia này. Một điển hình nữa về xu hướng sử dụng xe giá rẻ đó là thị trường Ấn Độ khi mà gần đây vào tháng 3/2009 hãng xe Tata của Ấn Độ đã tung ra thị trường chiếc xe Nano với giá chỉ 2000 USD/ chiếc và ngay lập tức đã nhận được hơn 200.000 đơn đặt hàng cả trong và ngoài nước. Nano có chiều dài 3,1 mét, động cơ 623 cc, chỉ có một gạt nước, thùng xe nhỏ gọn; không có túi khí và hệ thống tự động chống bó phanh (Ấn Độ không bắt buộc xe hơi phải có hai yếu tố này). Nếu khách hàng muốn lắp thêm máy lạnh, radio hoặc hệ thống trợ lực tay lái thì phải trả thêm tiền. Trang 38 Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận rằng trong thời gian gần đây thị trường châu Á nổi lên với rất nhiều tỉ phú cũng như triệu phú dollar xuất hiện tại các quốc gia. Mà đa số người dân châu Á lại mang tâm lý là rất chuộng “hàng hiệu”. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng đột biến của thị trường xe sang châu Á. Những tỉ phú “mới phất” này muốn thể hiện đẳng cấp, địa vị và tài sản của mình bằng hình thức hào nhoáng bên ngoài .Chính điều này lại dẫn đến 1 kết quả là ngày càng nhiều các hãng xe sang như dòng xe thể thao như Ferrari hay mang phong cách sang trọng như Roll-Royces, Bently,Maybach… xuất hiện tại các quốc gia châu Á. Trong khi đó nói đến thị trường Australia là một quốc gia rất tiên tiến thì theo xu hướng của toàn cầu hiện nay là “bảo vệ môi trường” và giảm báo phì. Trong những năm gần đây người Australia lại tìm về với xe đạp. Mong muốn có được một cơ thể khỏe mạnh, nhiều bậc cha mẹ ởAustralia đã nêu gương cho con cái khi sắm xe đạp và dùng chúng mỗi ngày. Ngoài ra, người Australia cũng rất có ý thức bảo vệ môi trường, việc thay thế ô tô bằng xe máy đang ngày càng được nhiều người ủng hộ. Năm 2007, nước Úc đã tiêu thụ hơn 1,4 triệu chiếc xe đạp, trong khi doanh số ô tô chỉ đạt hơn 1 triệu chiếc, theo số liệu do hải quan nước này tổng hợp. Con số hơn 1 triệu xe cũng là một kỷ lục tiêu thụ ô tô của Úc. đây chính là những thách thức cho Ford trong quá trình giữ vững phân khúc xe hơi hạng trung của mình. Theo thống kê thì trên thưc tế Ford đã để mất thị phần tại hầu hết các nước châu Á ngoại trừ Nhật Bản nơi doanh số của hãng vẫn khá ổn định. Hiện tại, Ford chỉ nắm giữ 2,1% thị phần ở châu Á, Thái Bình Dương và châu Phi; giảm 8,7% so với cùng kỳ năm ngoái, và thấp hơn khoảng 10% so với dự kiến thị phần của Ford trong năm nay tại các thị trường này, (theo Detroit News) 3.1.5 Thị trường châu Phi và Trung Đông : Châu Phi được biết đến như một thị trường tiềm năng của Ford. Với khí hậu và địa hình nơi đây, nhưng chiếc xe thuộc dòng bán tải của Ford có vẻ luôn là sự lựa chọn hàng đầu cho những khách hàng muốn tậu cho mình một chiếc xe đẹp, bền và hiệu quả. Cũng chính vì nắm được tâm lý ấy, hãng Ford đã quyết định “chi mạnh” cho thị trường này với tổng số vốn đầu tư lên tới 209 triệu USD. Dự kiến dự án đầu tư khổng lồ này của Ford sẽ mang lại nhiều dịp để Ford nâng cấp tay nghề cho những công nhân hiện tại và tạo thêm khoảng hơn 500 cơ hội việc làm thu nhập cao, và hàng nghìn việc làm khác cho người dân của “lục địa đen”. Thị trường châu Phi với đặc điểm là đa phần là các quốc gia kém phát triển (ngoài trừ 1 số nước như Nam Phi hay Maroc…). các quốc gia ở đây không có những quy định về môi trường và độ an toàn ngặt ngèo như ở Châu Âu hay các quốc gia khác. Sự phát triển gần đây của thị trường Châu Phi mang lại nhiều hệ quả đáng chú ý. Lục địa này đã từng là nơi tiêu thụ rất lớn xe cũ từ Châu Âu, bởi thế bán xe mới giá rẻ ở đây sẽ đem lại tính cạnh tranh cao. Trang 39 Nói về 1 số thị trường lớn tại châu Phi thì không thể không nhắc đến Nam Phi, Angieri và Maroc. Trên thực tế, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động đến hầu hết các quốc gia khu vực Địa Trung Hải, ngoại trừ Angiêri, ít nhất cho đến thời điểm hiện nay. Trung bình, hàng năm Angiêri nhập khẩu khoảng 200 nghìn ô tô các loại, chiếm 10% kim ngạch nhập khẩu của nước này (gần 3 tỷ USD/năm). Cùng với việc nhập khẩu các loại linh kiện xe ô tô, Angiêri đã trở thành khách hàng lớn thứ hai của châu Âu ở châu Phi, sau Nam Phi. Bên cạnh đó, nhu cầu về phương tiện giao thông cá nhân ở Angiêri cũng ngày càng tăng mạnh. Trong tháng Giêng 2009, lượng tiêu thụ ô tô ở Angiêri đã tăng gần 50% bất chấp việc chính phủ nước này áp dụng thêm mức thuế tiêu thụ xe ô tô mới. Theo hiệp hội những nhà kinh doanh xe ôtô Angiêri (AC2A), các nhà sản xuất xe ôtô châu Âu đang phải cạnh tranh gay gắt với các nhà sản xuất ôtô châu Á, nhất là Toyota, đồng thời đặt nhiều hy vọng vào sức tiêu thụ xe ôtô mới ở thị trường nước này. Hiện Renault và Peugeot của Pháp vẫn dẫn đầu trong danh sách các hãng ôtô đang kinh doanh tại Angiêri. Cũng trong tháng Giêng 2009, lượng tiêu thụ xe Renault ở Angiêri tăng 30% so với cùng kỳ 2008. Theo số liệu của AC2A, năm 2008, Angiêri đã nhập khẩu trên 350 nghìn ôtô các loại, tương đương trên 4 tỷ USD (tăng gần 50%). Trong khi đó tại thị trường Maroc và vùng lân cận Xahara, tình hình tiêu thụ xe vẫn hết sức lạc quan. Mức tăng trưởng 20%/năm được duy trì từ nhiều năm nay với số xe bán ra khoảng 100.000/năm. Nhiều hãng ôtô có tên tuổi vẫn tiếp tục đầu tư mở thêm những "showroom" mới để quảng cáo và thu hút khách hàng . Tại thị trường Nam Phi, quốc gia được xem là phát triển nhất lục địa đen thì thị trường tiêu thụ xe hơi cũng hết sức phát triển. Thậm chí trong thời buổi khó khăn hiện nay, khi mà Ford đang dần đánh mất thị trường tại các khu vực khác thì Nam Phi được xem như là miền đất hứa của Ford. Quốc gia nằm phía nam của lục địa đen này không chỉ được biết đến là nơi có trữ lượng vàng và kim cương lớn nhất, mà nó còn được biết đến như một thị trường tiềm năng của Ford. Với khí hậu và địa hình nơi đây, nhưng chiếc xe thuộc dòng bán tải của Ford có vẻ luôn là sự lựa chọn hàng đầu cho những khách hàng muốn tậu cho mình một chiếc xe đẹp, bền và hiệu quả. Cũng chính vì nắm được tâm lý ấy, hãng Ford đã quyết định chi mạnh cho thị trường này với tổng số vốn đầu tư lên tới 209 triệu USD. Dự kiến dự án đầu tư khổng lồ này của Ford sẽ mang lại nhiều dịp để Ford nâng cấp tay nghề cho những công nhân hiện tại và tạo thêm khoảng hơn 500 cơ hội việc làm thu nhập cao, và hàng nghìn việc làm khác cho người dân của lục địa đen. Sự đầu tư này của Ford được giới chuyên môn đánh giá là một hướng đi rất đúng đắn trong hoàn cảnh của Ford hiện tại, thị trường Nam Phi đang nóng lên từng ngày và sẽ rất tốt nếu Ford có thể bắt đầu hồi sinh với những chiếc Ranger huyền thoại của mình tại đây. Trang 40 Từ những nhận định về kinh tế và thị trường nói chung của châu Phi, có thể nói người dân châu Phi chuộng những mẫu xe có giá “mềm” hoặc là xe cũ nhập khẩu từ các nước phát triển vì nó phù hơp với túi tiền của đại bộ phận dân cư có nhu cầu sử dụng xe hơi tại đây, bất chấp là hãng xe đó xuất xứ từ nơi nào. Lại nói về thị trường Trung Đông. Đây có thể xem như là vùng đất kém ổn định về an ninh thứ hai sau châu Phi. Thị trường Trung Đông có gần 100% người theo đạo Hồi. Dân số ở đây đang phát triển, thu nhập đầu người thuộc vào loại cao nhất nhì trên thế giới. Tuy thường xuyên xẩy ra các vụ xung đột, song kinh tế, thương mại khu vực Trung Đông vẫn phát triển do các nước có chính sách phát triển kinh tế phù hợp, chủ yếu phụ thuộc giá dầu mỏ. Chính vì có thu nhập cao từ dầu mỏ như vậy cùng với việc tình hình giá xăng dầu leo thang khiến cho các mẫu xe thể thao, SUV hạng sang tốn xăng “thất sủng” tại Mỹ và Châu Âu nhưng lại cực kỳ “đắt hàng” tại vùng Vịnh. Việc xe sang và tốn xăng ngày càng hút khách tại khu vực này không có gì khó hiểu. Tại đây, người dân không những được chính phủ trợ giá nhiên liệu mà giá dầu tăng giúp cho mức thu nhập của người dân tăng theo. Vì vậy, việc giá dầu phá kỷ lục chỉ khiến lượng xe cao cấp như Rolls-Royce, Bentley cùng các loại xe ngốn xăng như Hummer xuất hiện hơn trong khu vực này. Đây cũng có thể xem như 1 xu hướng tiêu dùng tại khu vực này. 3.2 Chiến lược Marketing toàn cầu tổng quát của FORD : Với chiến lược kinh doanh trên toàn cầu là chiến lược xuyên quốc gia mà nhóm nghiên cứu đã phân tích trên, thì chiến lược marketing quốc tế là một phần chức năng giúp thúc đẩy chiến lược xuyên quốc gia của công ty và phương thức cạnh tranh chung là khác biệt tập trung phải có sự liên hệ và mối gắn bó với nhau tốt nhít và phù hợp nhất. Khi nói đến bất kỳ một chiếc lược nào mang tầm vóc quốc tế thì tất cả phải đề cập đó là sự thích nghi hay không thích nghi với yếu tố địa phương và sức ép cạnh tranh. Ford Motor với vị trí chịu sức ép cạnh tranh và sự thích nghi địa phương cao. Xu hướng tiêu dùng của người Mỹ về mặt hàng xe cộ là một yếu tố thông dụng, họ thay đổi xe như thay áo. Họ thích những gì to, đồ sộ, kềnh càng. Còn xu hướng tiêu dùng của Châu Âu thì lại khác. Họ là những người yêu chuộng nét đẹp của sự nhỏ nhắn xinh xắn, nét đẹp của sự sang trọng lịch lãm, hay sự cá tính thông qua những chiếc xe thể thao, sự cá tính thông qua đẳng cấp mà họ có được khi sử dụng sản phẩm ấy. Còn đối với người Châu Á, họ cũng giống như người Châu Âu ở điểm yêu thích sự nhỏ nhắn, xinh xắn. tuy vậy ở họ, quan niệm ăn chắc mặc bền, chất lượng là yếu tố hàng đầu là điều đã ghi sâu trong tâm trí. Điều này càng thể hiện rõ ở các quốc gia như Nhật Bản hay các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Lào…. Trang 41 Mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi nên văn hoá sẽ có sự khác nhau riêng vốn có do vị trí địa lý tự nhiên, do tốc độ phát triển nền kinh tế, do nhận thức, quan niệm sống khác nhau. Tuy vậy, tổng quan toàn thể sẽ có những nét chung và tương đồng. Cụ thể như thời gian lúc này đây khi mà môi trường là yếu tố hàng đầu được quan tâm và nhất là sau giai đoạn của đại suy thoái vừa qua, toàn thế giới đã có nét tương đồng chung dễ dàng nhận thấy. đó là mối quan tâm lớn về sức khoẻ của mẹ tự nhiên, đó là xu hướng tiêu dùng ngày càng tiết kiệm dần sao cho có lợi nhất. Người Mỹ ngay lúc này đây đã có sự thay đổi trong tiêu dùng, họ đã chuyển sang những sản phẩm mang tính tiết kiệm hơn, tuy đã được hỗ trợ rất nhiều từ chính phủ Mỹ nhưng họ chi tiêu vẫn rất dè dặt. Dựa trên nét tương đồng và nét khác biệt và chiến lựơc cạnh tranh xuyên quốc gia của Ford. Tập đoàn Ford Motor đã chọn cho mình chiến lược marketing quốc tế vừa có nét chung và vừa có nét riêng tuỳ theo mỗi quốc gia, mỗi khu vực, sản phẩm mà Ford đặt chân, mang đến. Chiến lược này của Ford một phần thể hiện qua những câu slogan mà hãng đã đưa ra. Tuỳ vào khu vực, tuỳ vào nhãn hiệu sản phẩm thế nào mà những câu slogan này có sự thay đổi. • Nhãn hiệu xe Ford o Tại trang web chính nhãn hiệu Ford hay tại Mỹ, Canada các nước khu vực Châu Mỹ câu slogan là “drive one” o Tại trang web của Ford Anh nói riêng, một số nước khu vực Châu Âu (Pháp, Đan Mạch, Đức, Ba Lan, Bồ Đào Nha … ) nói chung và một số nước tiên tiến khác thuộc Châu Á như Singapore, Hongkong câu slogan này đã được biến đổi thành “feel the difference”, o Tại Ý: “feel+” o Tại Thái Lan, Việt Nam, Philipines, khu vực Châu Á Thái Bình Dương: “make every day exciting”, “cho mỗi ngày thêm sôi động” o Tại Brasil: “viva o novo” (sống lâu với điều mới) o Tại Chile “tienes que vivirlo” (phải sống) … • Nhãn hiệu Volvo, câu slogan duy nhất được sử dụng là: “Volvo. For life” • Nhãn hiệu Lincoln “reach higher” • Nhãn hiệu Mercury “mở ra những cánh cửa mới” Nhìn chung thì cái mà Ford muốn truyền tài đến khách hàng của mình đó là một sự khác biệt, một sự mới mẻ, một cảm giác thích thú chỉ có ở Ford. Nhưng cái cảm giác thích thú khác biệt ấy sẽ thay đổi tuỳ theo từng vùng, từng miền, khu vực và từng loại nhãn hiệu, loại sản phẩm mà khách hàng lựa chọn tại Ford Motor. Trang 42 3.3 Các chiến lược Marketing Mix 4P : 3.3.1 Chiến lược sản phẩm : Một câu hỏi đặt ra ở đây là sản phẩm của Ford sản xuất và bán ra trên toàn thế giới giống nhau về loại sản phẩm, về chất lượng, về tất cả theo một chương trình chuẩn hoá toàn cầu hay là thích nghi tuỳ theo khu vực, khách hàng? Nếu nói rằng sản phẩm của Ford thống nhất hết về chủng loại hay về chất lượng, về kiểu dáng, về tất cả các yếu tố thì hoàn toàn là sai. Một chiếc xe Ford của Mỹ sẽ hoàn toàn khác một chiếc xe Ford tại Anh về vị trí tay lái. Xe Ford sản xuất bán tại các nước khí hậu ôn đới sẽ khác biệt hoàn toàn xe ford sản xuất bán tại các nước nhiệt đới, xứ nóng, khí hậu khắc nghiệt về chức năng của xe, về độ bền, sự chống chịu với tự nhiên. Khi rà soát trên các trang web chi nhánh của Ford về các loại nhãn hiệu từ cao cấp như Lincoln đến trung bình khá như Ford và Mercury thì đều thấy sự khác biệt trong danh mục sản phẩm mà tập đoàn Ford Motor quyết định bán sản phẩm giữa các quốc gia. Nếu như tại Mỹ hay khu vực Trung Đông, hãng Ford kinh doanh đủ các 4 nhãn hiệu chính là Ford, Volvo, Mercury, Lincoln với đủ các loại xe từ xe bán tải, đến xe tải, đến xe hơi…. Thì tại khu vực Châu Âu, Châu Á, Châu Phi, ông trùm Ford chỉ kinh doanh hai loại xe chủ yếu đó là Ford và Volvo. Tại một số quốc gia như Việt Nam chỉ có mỗi nhãn hiệu Ford. Một số khác thì chỉ có ba trong 4 nhãn hiệu. Đi sâu hơn vào các nhãn hiệu mà Ford kinh doanh. Mỗi nước sẽ lại có danh mục sản phẩm thuộc loại nhãn hiệu đó khác nhau và một số cái giống nhau. Cụ thể như là Anh và Thái Lan, Ford quyết định đi vào hai quốc gia này bằng hai nhãn hiệu chính đó là Volvo và Ford. Danh mục sản phẩm của hai quốc gia này đều có sự khác biệt và giống nhau. Danh mục sản phẩm nhãn hiệu Volvo Anh Thái Lan S40 S60 S80 S80 V50 Trang 43 V70 V70 XC60 XC70 XC90 XC90 C30 C30 C70 C70 Danh mục sản phẩm nhãn hiệu Ford Anh Thái Lan New Ka New Ford Focus New Fiesta Escape Fusion New Everest Focus New Ford Ranger Focus Coupé - Cabriolet New Focus RS C - Max Kuga Mondeo S – Max Galaxy Ranger Tiến sâu hơn vào một loại nhãn hiệu là Ford và một kiểu xe Ranger tại hai quốc gia Anh và Thái Lan, kết quả cho thấy rằng Trang 44 Chuỗi sản phẩm thuộc loại xe Ranger Anh Thái Lan Ranger Ranger Standard Cab Ranger XLT Ranger Open Cab 2WD Ranger Thunder Ranger Open Cab Hi Rider Ranger Wildtrak Ranger Open Cab 4WD Ranger Double Cab 2WD Ranger Double Cab Hi Rider Ranger Double Cab 4WD Ranger Wildtrak Chọn cùng sản phẩm đó là Ranger Wildtrak và xét các tính năng đặc điểm ta có bảng so sánh sau: Anh Thái Lan Key features: High-powered 3.0 TDCi engine (156 PS with 380 Nm of torque) Anti-lock brakes (ABS) with electronic brake-force distribution (EBD) Driver and front passenger airbags Driver and front passenger side airbags Immobiliser and perimeter alarm Remote central locking Sports front grille and aluminium Key Features 2.5L or 3.0L Turbo Diesel common- rail direct injection engine Independent Double Wishbone Torsion bar with Stabilizer / Leaf spring with Stabilizer 5-speed manual or 5-speed automatic transmission Min. Turning Radius 6.3 m. LSD(Limited Slip Differential) Side impact beams Ladder Frame Trang 45 overrider Lower sports cladding, sports side steps and side sports vents Aerodynamic sports bar and roof rails Door mirror-mounted LED turn signals Colour-keyed scuff plates and floor mats with Wildtrak logo Air conditioning Heated front seats Rear light protectors Chrome rear protector bar with rear parking sensors Chrome door handles Optional lockable roller shutter cover Pick-up box sports rail extension Leather/perforated Alcantara® seats with orange tricot stitching Integrated front fog lights Unique 16″ 6-spoke dished alloy wheels with all-terrain tyres Electrically-operated exterior mirrors with chrome housings Electrically-operated windows Heated rear window Double-lidded centre console AM/FM 6-disc in-dash CD autochanger Leather-trimmed steering wheel and gearshift knob Off-road information centre (inclinometer, temperature gauge, compass) Double B Pillar (RAS Model) ABS with EBD and G-sensor Dual front airbags (Hi-Rider Model) Dual front and Side airbags (Double Cab 4X4 3.0 XLT AT) Pretensioner and load limiter seat belts 16" alloy wheels Fog lights Front grill Rear bumper Tilt adjustable steering column Power windows Central Lock Door Mirror with Indicator Light CD-MP3 Player with 2 speakers (Open Cab) CD-MP3 Player with 4 speakers (Double Cab) Rear defroster Side steps Badge Wildtrak unique sports bar with bedliner Wildtrak Roof rails and box rails Wildtrak Sticker Trang 46 Anh và Thái Lan là hai đất nước thuộc hai khu vực khác nhau trên bản đồ thế giới. Đặc điểm tự nhiên về vị trí địa lý, địa hình, khí hậu; đặc điểm về kinh tế, sản xuất, các ngành sản xuất, các lọai sản phẩm trên thị trường; đặc điểm về chính trị, xã hội và nhu cầu rất là khác nhau. Tuy vậy, hai đất nước này vẫn có một số đặc điểm giống nhau, tương tự nhau điển hình như vị trí điều khiển bánh lái là đều nằm bên tay phải…. Do đó, cùng một nhãn hiệu xe Ford nhưng danh mục sản phẩm lại khác nhau do sở thích tiêu dùng khác nhau. Người Anh yêu chuộng sự lịch lãm, nhỏ gọn nhưng người Thái theo nghiên cứu cho hay thì lại yêu những gì to lớn đồ sộ như người Mỹ : “Surapong Paisitpatnapong, a spokesman for the Federation of Thai Industries' Automotive Industry Club said: "… Thai people are not in favour of small cars…"”… Từ đó dẫn đến những sự khác nhau như vậy. Và trong cùng loại xe Ranger Wildtrak, về cơ bản, cấu trúc máy, kết cấu xe đều theo một tiêu chuẩn chung do Ford thiết kế là động cơ 3.0L Turbo Diesel, đều có các tiêu chuẩn về an toàn: túi khí, kính chiếu hậu, kính cửa xe, đèn chiếu trong sương mù, sticker nhãn hiệu, hệ thống kiểu loại dây cab… tuy vậy vẫn có một số đặc điểm khác như ở xe Ranger tại Anh vừa có máy điều hoà vừa có lò sưởi trong xe nhưng với Ranger tại Thái chỉ có máy điều hoà; hệ thống âm nhạc của hai xe cũng khác nhau, chất liệu làm bánh lái, tay lái xe khác nhau… Từ các bảng so sánh trên và thực tế hai nước Anh và Thái nói riêng và các nước trên thế giới nói chung đã chứng tỏ tập đoàn Ford Motor không sử dụng một chiến lược chung nhất cho tất cả loại sản phẩm của mình ở mọi nơi trên thế giới. Họ xây dựng những tiêu chí cơ bản, tiêu chuẩn hoá quá trình công nghệ sản xuất dây chuyền cơ bản của mình để xây dựng giá trị cốt lõi cơ bản chung nhất của Ford được công nhận trên toàn cầu rồi từ đó tuỳ mỗi vùng và điạ phương Ford Motor sẽ bổ sung, thích nghi, đổi mới, tạo mới những sản phẩm phù hợp nhất cho từng vùng, theo những gu sở thích, nhu cầu của người tiêu dùng ở đấy. Mỗi quốc gia, khu vực, Ford Motor sẽ có những chiến lược sản phẩm cho riêng từng nơi, xây dựng trên nền tảng tiêu chuẩn chung về công nghệ, mức độ an toàn, thước đo sự hài lòng, tính nhân sinh được kiểm tra, công nhận hàng năm trên toàn thế giới. 3.3.2 Chiến lược giá : Định giá, chọn chiến lược về giá nhất là khi cạnh tranh trên thương trường quốc tế không phải là một chuyện dễ. Khi cạnh tranh trên trường quốc tế, mỗi quốc gia mỗi nước có sự khác biệt riêng vốn có trong hệ thống giá, chính sách pháp luật, giá trị đồng tiền, tỷ lệ lạm phát… khiến cho việc định giá rất là khó khăn. Nếu định giá không cân nhắc và lựa chọn sẽ nhìu lúc có thể bị kiện là bán phá Trang 47 giá, trốn thuế, bị đối thủ cạnh tranh đánh bại ngay bằng chính giá của mình đưa ra. Vậy Ford Motor đã đưa ra giá cạnh tranh cho các lọai sản phẩm, chiến lược giá trên toàn cầu và chuyển biến ở mỗi địa phương như thế nào? a. Khung giá cho các loại sản phầm của Ford: Tại trang web công ty mẹ ở phía bắc Mỹ, công ty Ford Motor đã thể hiện các loại sản phẩm thuộc nhãn hiệu Ford trong khung giá bao quát là từ $15.520 - $45.000. Cụ thể giá cả từng sản phẩm như hình trang sau. Qua thực tế tìm hiểu, nhóm nghiên cứu nhận thấy giá khởi điểm các loại xe mang nhãn hiệu Ford được để trong mức giá cạnh tranh tương đối với các đối thủ trong ngành như Toyota (12.205 – 64.755), Honda (15.305 – 34.995), GM, và các nhãn xe Trung Quốc nhằm đánh vào nhóm phân khúc khách hàng có thu nhập vừa phải. Đối với nhãn hàng xe Volvo được Frod mua về nhằm phục vụ cho phân khúc khách hàng từ thu nhập khá trở lên tập trung chủ yếu tại khu vực Châu Âu với bảng giá khởi điểm như sau: (Đơn vị:$) Ford – Volvo S40 28.550 S60 32.800 S80 39.600 V50 29.800 V70 32.900 XC60 37.200 XC70 37.250 XC90 37.000 C30 23.800 C70 39.800 Trang 48 Trang 49 Đối với nhãn hiệu Lincoln và Mercury, các sản phẩm làm ra được định giá nhằm đánh vào phân khúc hàng cao cấp cho khách hàng cò tiềm lực tài chính, đánh vào khúc khách hàng ở Mỹ và khu vực Trung Đông với bảng giá khởi điểm như sau: (Đơn vị:$) Ford – Lincoln Lincoln MKS 38.490 Lincoln MKX 37.845 Lincoln MKZ 34.115 Navigator 53.120 Town car 48.385 Mercury Milan 21.180 - 31.235 Mariner 22.650 – 30.090 Sable 25.120 – 29.380 Mountaineer 28.700 – 31.435 – 32.745 Grand marquis 29.270 Tuỳ theo từng dòng sản phẩm, loại nhãn hiệu sản phẩm và ước muốn của khách hàng mức giá sản phẩm của Ford có thể thay đổi. b. Chiến lược định giá cuả Ford Motor. Nhà marketing chiến lược Philip Kotler đã định ba cách lựa chọn giá cho một công ty đang hoạt động trên thị trường toàn cầu là: • Định giá thống nhất ở khắp mọi nơi • Định giá theo thị trường ở từng nước • Định giá căn cứ vào chi phí đối với từng nước. (Nguồn: sách quản trị Marketing –Philip Kotler) Chiến lược giá của Ford thể hiện rõ chiến lược Marketing chung của họ. Với một mức giá thống nhất ở khắp mọi nơi sẽ không phải là một chiến lược khôn ngoan của Ford. Ford đã lựa chọn cho mình lối đi thích nghi phù hợp với từng địa phương thì chiến lược giá của họ thể hiện rõ điều ấy. Ford Motor đã lựa chọn Trang 50 chiến lược giá căn cứ vào chi phí đối với từng nước và chi phí đối với từng nhu cầu đòi hỏi của khách hàng. Tất cả các loại xe, 4 nhãn hiệu chính của Ford đều có mức giá khởi điểm thống nhất trên website chính của từng loại nhãn hiệu. Giá cả sau cùng mà khách hàng mua sẽ được điều chỉnh tuỳ theo vùng, theo địa điểm và phần giá trị đòi hỏi thêm của khách hàng. Trong các website điển hình là trang web Mercury.com với loại xe Milan. Giá khởi điểm của loại xe này là $21.180 nhưng khi đi sâu vào trang web, tìm hiểu sâu vào việc mua sản phẩm này, thì khách hàng sẽ thấy công cụ đặt hàng sản xuất sản phẩm theo yêu cầu. Nếu một chiếc xe Milan bình thường giá khởi điểm $21.180 nhưng khi lựa chon công nghệ Hybrid thì giá khởi điểm này đã dịch chuyển lên mức $31.235. giá một chiếc Mylan ở Mỹ sẽ hiển nhiên khác với 1 chiếc Milan bán tại Mexico hay Kuwait, Trung Đông do chịu ảnh hưởng từ chi phí vận chuyển, hàng rào thuế quan, các loại thuế bảo vệ môi trường… giá một chiếc Milan hạng sang bán tại Mexico vào khoảng $317.200. Loại xe Ford S-Max 2.3 loại xe hơi gia đình phổ biến tại Singapor bán với giá từ SGD 92.777 – SGD 118.000 tức $ 64.344 – $81.836 (1 Singapore dollar = 0.693529 U.S. dollars) nhưng giá bán xe Ford S-Max 2.3 tại Mỹ thì vào khoảng $20.191 và Anh là khoảng $30.520 (GBD19.195). Ford đến với Anh và Thái Lan bằng 2 nhãn hiệu chủ yếu đó là Volvo và Ford. Giá cả các chiếc xe tại hai quốc gia này cũng rất khác nhau. • Tại thị trường Anh : Volvo được Ford mua lại nhằm đáp ứng nhu cầu đặc biệt của khách hàng trung và cao cấp trên thế giới và tại khu vực Châu Âu. Nhãn hiệu Volvo rất được yêu thích sử dụng khá phổ biến ở Châu Âu nói chung và Anh nói riêng. Tại Anh, tuy cũng chịu các mức thuế và tác động của việc bảo vệ môi trường, các đạo luật, giá cả những chiếc xe Ford cũng thay đổi tương đối. Nhưng do Anh là một quốc gia phát triển tốt, ổn định, thu nhập bình quân đầu người cao, tỷ giá đồng bảng Anh cao. Ngoài ra, tương tự như người Mỹ, xe hơi là một phương tiện di chuyển phổ biến và không thế thiếu với người Anh. Bên cạnh đó là do vị trí, khoảng cách của Anh gần công ty mẹ tập đoàn Ford ở Mỹ và Ford Motor có các chi nhánh công ty con, liên doanh hợp tác sản xuất tại Anh cho nên giá cả những chiếc xe Ford chênh lệch tương đối ít. Giá khởi điểm của những chiếc xe Volvo, Ford tại Anh tương đối rẻ hay biến động ít hơn so với Mỹ và rất chênh lệch so với tại Thái Lan. • Tại thị trường Thái Lan : Tại Thái, hầu hết các chiếc xe Volvo đa phần được nhập nhẩu vào Thái do vậy chủ nhân của các chiếc xe này phải chịu một mức khung thuế hàng xa xỉ. Vì theo luật của Thái Lan, xe hơi nhập khẩu coi là hàng xa xỉ và đánh thuế lên đến 200% giá trị của chiếc xe nhập khẩu đây là chưa bao gồm các thuế phí về cầu Trang 51 đường …. Nếu bạn qua Thái thì đừng nên đem xe của mình vào đất nước này mà hãy mua họăc thuê trên đất Thái. (Nguồn: 1 Thai baht = 0.029121 U.S. dollars 1 British pound = 1.5913 U.S. dollars (Theo công cụ chuyển đổi tiền tệ của Google) Ford – Volvo Sản phẩm Anh Thái Lan GBD USD USD THB S40 14.745 ≈ 23.444 ≈ 52.360 – 56.728 1.798.000 – 1.948.000 S60 ≈ 57.951 1.990.000 S80 21.745 ≈ 34574 ≈ 78.335 – 84.160 2.690.000 – 2.890.000 V50 16.495 ≈ 26227 V70 22.745 ≈ 36164 ≈ 83.490 2.867.000 XC60 24.995 ≈ 39742 XC70 27.995 ≈ 44512 ≈ 84.305 2.895.000 XC90 29.995 ≈ 47692 ≈ 46.302 - 66.396 – 101.894 1.590.000 – 2.280.000 – 3.499.000 C30 14.995 ≈ 23842 ≈ 55.301 - 68.143 1.899.000 -2.340.000 C70 24.995 ≈ 39742 ≈ 130.899 4.495.000 (Nguồn Trang 52 Một cách tương tự đối với nhãn hiệu xe Ford, nhãn hiệu phục vụ cho giới thu nhập trung bình, khá của tập đoàn Ford Motor. Giá của những chiếc xe này sẽ khác nhau khi được bán trên những thị trường khác nhau. Lý do chủ yếu một phần là hàng rào thuế mà chính phủ Thái xây dựng (thuế đánh cho xe sản xuất trong nước vào khoảng 17% - 30%) và một phẩn về lý do chính trị, kinh tế, xã hội của Thái gần đây. Tuy đã hết sức mở rộng nâng cấp đường xá, hàng ngày ngay tại trung tâm Bangkok hay các thành phố lớn khác ở Thái Lan luôn diễn ra nhiều cuộc kẹt xe mệt mõi nguyên nhân chính yếu là từ xe cộ quá đông, đồ sộ. Do đó chính phủ Thái đã quy định về xe rất chặt chẽ, dùng các loại thuế với mục đích hạn chế lượng xe cộ, tiếng ồn và ô nhiễm môi trường ở quốc gia này. Luật của Thái quy định tất cả các xe khi lưu thông trên đường phải có tem thuế dán trên cửa kính xe để đảm bảo xe đã được trả thuế. Mức thuế tuỳ thuộc vào loại và tuổi cũng như các yếu tố về động cơ máy móc của xe do sở giao thông vận tải (Department of Land Transport Office (DLT)) của Thái quy định và đổi mới qua các năm. Ví dụ về mức chi phí thuế quy định do sở giao thông Thái cho các xe lưu thông trên đường: -door pick-up and 7-seat cars THB 6,900 Pick up truck up to 2,500cc THB 1,000 Car up to 2,000cc THB 1,000 (Trang web tham khảo thêm ) Sự khác biệt về hai mức giá khởi điểm cho cùng loại xe Ranger đựơc chào bán tại Anh và Thái. 1 Thai baht = 0.029121 U.S. dollars 1 British pound = 1.5913 U.S. dollars (Theo công cụ chuyển đổi tiền tệ của Google) Tên sản phẩm Anh Thái Lan GBD USD USD THB Ranger 11.650 ≈ 18.539 ≈ 14.182 – 487.000 – Trang 53 26.558 912.000 3.3.3 Chiến lược phân phối : Phân phối cũng là một bộ phận quan trọng trong chiến lược Marketing Mix của Ford. Dựa vào chiến lược phân phối mà Ford đưa sản phẩm của mình đến tay khách hàng. Hiện nay hình thức phân phối chính của Ford đó là thiết lập các công ty con tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chiến lược của Ford tại các quốc gia này đó là sẽ tung ra các sản phẩm khác nhau tại các khu vực khác nhau, tùy theo nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng tại các khu vực. Để đáp ứng hơn nữa việc đưa sản phẩm của mình ra khắp thế giới, Ford cho xây dựng các nhà máy lắp ráp trên khắp thế giới như tại Canada, Mexico, Anh, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Arghentina, Nam Phi, Úc, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam…. Hiện nay, Ford đang kết hợp cùng với tập đoàn UPS Logistic Group để tiến hành việc vận chuyển sản phẩm giữa các công ty con với nhau và giữa công ty con với công ty mẹ tại Mỹ. Sở dĩ có sự kết hợp trên là vì Ford theo đuổi chiến lược tùy theo từng vùng, tùng miền mà tập trung sản xuất các dòng sản phẩm sao cho có năng suất cao nhất và đạt chi phí thấp nhất cũng như tùy theo quy mô thị trường và thị hiếu người tiêu dùng. Ví dụ như tại Brazil Ford chỉ sản xuất duy nhất mẫu xe Ford EcoSport còn tại Arghentina thì chỉ sản xuất duy nhất mẫu xe Ford Focus hay như Chi nhánh Ford Thái Lan sẽ có nhiệm vụ xuất xưởng mẫu xe bán tải Ford Ranger để phân phối tại thị trường châu Âu. Do đó Ford cần một tổ chức có đủ khả năng để vận chuyển sản phẩm của mình đến các quốc gia khác nhau. Để giải bài toán này thì năm 2000 Ford đã hợp tác với tập đoàn UPS Logistic Group. Nhờ kết hợp với UPS Logistic Group mà Ford đã tiết kiệm mỗi năm 1 tỉ USD chi phí lưu kho bãi và hơn 125 triệu usd chi phí vận chuyển so với trước đây. (theo Globalmanufactures.net) Theo tìm hiểu của nhóm t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề Tài- Nghiên Cứu Chiến Lược Marketing Quốc Tế của Tập Đoàn FORD MOTOR.pdf