Tiểu luận Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế

Tài liệu Tiểu luận Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế CHƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I. ĐẤU THẦU 1. Khái niệm đấu thầu Đấu thầu là một hình thức kinh doanh dựa vào tính chất cạnh tranh công khai của thị trờng, không có cạnh tranh thì không có đấu thầu và cũng không cần đến đấu thầu. Có thể nói đấu thầu là phơng thức giao dich đặc biệt. Trong một vụ kinh doanh mua bán hay xây dựng các công trình dân sự có liên quan đến nhiều ngời, nhiều bên khác nhau thì ngời ta thờng áp dụng hoặc bắt buộc phải áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh công khai. Theo quy chế đấu thầu hiện nay của Việt nam, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Bên mời thầu là chủ DA, chủ đầu t hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của...

pdf27 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----[\ [\----- TIỂU LUẬN Đề tài: Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế CHƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I. ĐẤU THẦU 1. Khái niệm đấu thầu Đấu thầu là một hình thức kinh doanh dựa vào tính chất cạnh tranh công khai của thị trờng, không có cạnh tranh thì không có đấu thầu và cũng không cần đến đấu thầu. Có thể nói đấu thầu là phơng thức giao dich đặc biệt. Trong một vụ kinh doanh mua bán hay xây dựng các công trình dân sự có liên quan đến nhiều ngời, nhiều bên khác nhau thì ngời ta thờng áp dụng hoặc bắt buộc phải áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh công khai. Theo quy chế đấu thầu hiện nay của Việt nam, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Bên mời thầu là chủ DA, chủ đầu t hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của chủ DA, chủ đầu t đợc giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu. Nhà thầu là tổ chức kinh tế có đủ t cách pháp nhân tham gia đấu thầu. Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp, là nhà cung cấp trong đấu thầu mua sắm hàng hóa, nhà t vấn trong đấu thầu tuyển chọn t vấn, là nhà đầu t trong đấu thầu lựa chọn đối tác đầu t. 2.Vai trò của đấu thầu Hành vi đấu thầu là một hình thức cạnh tranh văn minh trong nền kinh tế thị trờng phát triển nhằm lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu kinh tế kỹ thuật của chủ đầu t. Nh vậy đấu thầu ra đời và tồn tại với mục tiêu nhằm thực hiện tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch để lựa chọn ra nhà thầu phù hợp nhất và bảo đảm hiệu quả kinh tế của một dự án đầu t. Đấu thầu có vai trò đảm bảo bốn nội dung: hiệu quả - cạnh tranh - công bằng - minh bạch. Hiệu quả có thể về mặt tài chính hoặc về thời gian hay một tiêu chí nào khác tuỳ thuộc vào mục tiêu của DA. Muốn đảm bảo hiệu quả cho DA phải tạo điều kiện cho nhà thầu cạnh tranh công khai ở phạm vi rộng nhất có thể nhằm tạo ra sự công bằng, đảm bảo lợi ích cho các bên. Với các DA có tổng đầu t lớn, có gía trị về mặt kinh tế hoặc xã hội thì công tác đấu thầu là một khâu quan trọng không thể thiếu và đấu thầu phải tuân thủ theo quy định của nhà nớc hoặc tổ chức tài chính cho vay vốn. Đấu thầu mang lại lợi ích to lớn đối với chủ đầu t, nhà thầu và nền kinh tế quốc dân nói chung. 2.1.Vai trò với chủ đầu t: -Thực hiện có hiệu quả yêu cầu về chất lợng công trình, tiết kiệm đợc vốn đầu t xây dựng cơ bản, bảo đảm tiến độ xây dựng công trình. -Thông qua đấu thầu xây lắp, tăng cờng quản lý vốn đầu t, tránh thất thoát lãng phí. -Bảo đảm quyền chủ động, tránh tình trạng phụ thuộc vào một nhà xây dựng trong xây dựng công trình. -Tạo môi trờng cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp xây dựng. -Cho phép chủ đầu t nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật của chính các chủ đầu t. 2.2.Vai trò đối với nhà thầu -Tham dự đấu thầu và hớng tới mục tiêu thắng thầu, các nhà thầu phải tự hoàn thiện mình trên tất cả phơng diện. -Nhờ nguyên tắc công khai và bình đẳng trong đấu thầu: các nhà thầu cạnh tranh bình đẳng trên thơng trờng, các nhà thầu phải phát huy tối đa tính chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội tham dự đấu thầu và kí kết hợp đồng (khi trúng thầu) tạo công ăn việc làm cho ngời lao động, phát triển sản xuất. -Nhờ đấu thầu, các nhà thầu phải đầu t có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực công nghệ và kỹ thuật của mình. Từ đó sẽ nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong tham gia đấu thầu. -Để đạt mục tiêu thắng thầu, các công ty xây lắp phải tự hoàn thiện các mặt quản lý, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý trong tham gia đấu thầu và thực hiện công trình đã thắng thầu. -Thông qua phơng thức đấu thầu, các công ty xây lắp sẽ tự nâng cao hiệu quả công tác quản trị chi phí kinh doanh, quản lý tài chính, thúc đẩy nâng cao hiệu quả kinh tế khi giá bỏ thầu thấp nhng vẫn thu đợc lợi nhuận. 2.3.Vai trò đối với nền kinh tế quốc dân -Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nớc về đầu t và xây dựng, hạn chế và loại trừ đợc tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu t. -Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. -Đấu thầu tạo ra môi trờng cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các đơn vị xây dựng. Đây là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp xây dựng nớc ta và tạo điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ xây dựng, từng bớc hội nhập với khu vực và thế giới. 3.Hình thức và phơng thức đấu thầu ỉHình thức lựa chọn nhà thầu dựa trên số lợng nhà thầu tham gia đấu thầu để phân chia. Có 7 hình thức đấu thầu: -Đấu thầu rộng rãi : Đây là hình thức đấu thầu không hạn chế số lợng nhà thầu tham gia. -Đấu thầu hạn chế : Bên mời thầu mời một số nhà thầu có đủ năng lực tham dự đấu thầu. Tuỳ theo quy định của mỗi nớc mà số nhà thầu tối thiểu đợc mời là bao nhiêu. Theo quy chế Đấu thầu của Việt nam thì số nhà thầu tối thiểu là 5. -Chỉ định thầu : Đây là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thơng thảo hợp đồng. -Chào hàng cạnh tranh. -Mua sắm trực tiếp. -Tự thực hiện : Hình thức này áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu t có đủ năng lực thực hiện. -Mua sắm đặc biệt. ỉTrong đấu thầu có 3 phơng thức đấu thầu, dựa vào cách thức nộp hồ sơ để phân chia: -Phơng thức một túi hồ sơ. -Phơng thức hai túi hồ sơ. -Phơng thức hai giai đoạn. ỉLoại hình đấu thầu Đấu thầu có 4 loại hình, phụ thuộc vào đặc điểm của đối tợng mua bán để phân chia: - Đấu thầu tuyển chọn t vấn. - Đấu thầu xây lắp. - Đấu thầu mua sắm hàng hóa và các dịch vụ khác. - Đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án. Trong phạm vi đề tà này, tôi chỉ xin đi sâu vào tìm hiểu loại hình đấu thầu xây lắp và cụ thể là đấu thầu xây lắp Quốc tế. II. ĐẤU THẦU XÂY LẮP ( ĐẤU THẦU XÂY LẮP QUỐC TẾ ) 1.Khái niệm Đấu thầu xây lắp là đấu thầu các công việc có liên quan đến xây dựng, lắp đặt công trình và các hạng mục công trình nhằm lựa chọn ra nhà thầu xây lắp có thể đáp ứng đợc yêu cầu kỹ thuật của công việc với mức chi phí hợp lý nhất. Nhà thầu xây dựng có thể là nhà thầu trong nớc hoặc nhà thầu quốc tế. Đối với đấu thầu xây lắp có sự tham gia của nhà thầu quốc tế thì đợc gọi là đấu thầu xây lắp quốc tế. Các công việc xây lắp đợc chia thành các gói thầu tuỳ theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện DA có quy mô hợp lý và bảo đảm tính đồng bộ của DA. Gói thầu có thể là toàn bộ DA hoặc một phần công việc của DA. 2.Vai trò của hoạt động xây lắp trong nền kinh tế và sự cần thiết phải có đấu thầu xây lắp Công cuộc đổi mới đã tạo nên những biến đổi sâu sắc trong lĩnh vực xây dựng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế quốc dân, vị trí của ngành xây dựng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội (KTXH) ngày càng quan trọng. Trong nền kinh tế thị trờng, xây dựng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Thực tế cho thấy trong những năm qua, mỗi năm nhà nớc đã phải chi trên dới 150 nghìn tỷ đồng vốn đầu t cho xây dựng cơ bản, chiếm khoảng 30% GDP. Điều đó chứng tỏ rằng xây dựng quan trọng đến mức nào. Xây dựng tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và những tài sản cố định mới, phục vụ đời sống con ngời và tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển. Có thể nói hoạt động xây dựng bao gồm những công việc sau: -Thăm dò khảo sát thiết kế -Xây dựng mới, xây dựng lại công trình -Cải tạo mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình -Sửa chữa lớn nhà cửa vật kiến trúc -Lắp đặt thiết bị máy móc vào công trình -Cho thuê phơng tiện máy móc thi công có ngời điều khiển đi kèm. Sản phẩm của xây dựng (sản phẩm chính của nó là sản phẩm xây lắp) là những công trình xây dựng và những bộ phận cấu thành nên chúng, cùng những giá trị công việc có tính chất xây lắp do lao động trong lĩnh vực xây dựng sáng tạo ra. ỉSản phẩm của hoạt động xây dựng có những đặc điểm sau : -Có tính chất đơn chiếc, tồn tại lâu dài, có thể tích lớn, chu kỳ sản xuất dài, sử dụng vốn lớn, vốn chu chuyển chậm. -Đợc xây dựng cố định tại một vị trí nhất định nên nơi xây dựng cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm. Do tính chất, đặc điểm của hoạt động xây dựng nh vậy nên nó ảnh hởng lớn tới những hoạt động khác. Chỉ cần một vài sai sót nhỏ trong qúa trình thực hiện xây lắp đã gây ra các tác hại khôn lờng. Ví dụ: DA xây dựng một cây cầu. Trong quá trình khảo sát địa chất do không thăm dò kỹ lỡng, cẩn thận nên không biết đợc lòng sông bị sụt cát. DA vẫn đợc tiến hành thi công. Trong quá trình xây dựng thì không thể đổ đợc bê tông chân cầu do sụt lún cát. DA lúc này bị chậm tiến độ vì tiến hành khảo sát đo đạc lại dòng sông, lu lợng nớc chảy v.v.. Lúc này các nguồn lực nh: lao động, máy móc nằm một chỗ, chỉ khảo sát, thiết kế mới đợc hoàn thành thì DA mới đợc tiếp tục. Nh vậy chỉ cần sai sót ở một điểm nút nào đó trong hoạt động xây lắp cũng gây ra những tác hại lớn: hao phí tiền của, sức lao động và lãng phí về mặt thời gian. Có thể nói, hoạt động xây lắp không chỉ tạo ra những sản phẩm có giá trị về mặt kinh tế mà còn mang tính văn hoá. Sản phẩm xây lắp thờng có thời gian tồn tại lâu dài, có những sản phẩm trờng tồn với thời gian. Các công trình kiến trúc nh: thánh địa Mỹ Sơn, lăng tẩm của vua chúa ở cố đô Huế, thành nhà Hồ ở Thanh Hoá đều là sản phẩm của hoạt động xây lắp. Đấy đều là những di tích có ý nghĩa về mặt lịch sử, là những công trình mà ngời xa đã xây dựng nên. Các công trình đó đã đợc thiết kế và xây dựng rất công phu. Nếu không thì chắc hẳn nó không tồn tại đến ngày nay. Các sản phẩm xây lắp này gắn chặt với yếu tố văn hoá và nó trở thành vô giá. Nh vậy hoạt động xây dựng và sản phẩm của nó giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng nh trong đời sống con ngời. Ngời ta phải huy động rất nhiều nguồn lực với khối lợng quy mô không phải là nhỏ để hoạt động xây dựng đó đợc diễn ra và tạo ra những sản phẩm hoàn thiện nhất trong khả năng có thể. Nếu sản phẩm xây lắp xảy ra những sự cố mà nguyên nhân lại chính do hoạt động xây lắp tạo ra thì những nguồn lực đã đầu t sẽ trở nên lãng phí. Chính vì vậy các công việc của hoạt động xây lắp nh thiết kế, thi công cần phải đợc thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo chất lợng với mức chi phí hợp lý nhất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng, sản xuất kinh doanh xây dựng là một lĩnh vực hoạt động mang nhiều yếu tố rủi ro do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Các DA đầu t xây dựng thờng có đặc tính là đợc lập ra trớc khi thực hiện một vài năm thậm chí 5 đến 10 năm. Khó khăn và cũng là đặc trng của DA là chịu tác động bởi tính bất định của những biến chuyển kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Đặc biệt là với các DA lớn và dài hạn, nhiều biến cố đột xuất xảy ra trong quá trình thực hiện DA và do không có sự nhìn nhận trớc nên đã gây ra những tổn hại nghiêm trọng. Có thể nói hoạt động xây lắp là hoạt động chứa nhiều yếu tố rủi ro. Đối với các rủi ro, nếu không biết phòng tránh sẽ ảnh hởng rất lớn đến tiến độ xây dựng, chất lợng công trình, hiệu quả vốn đầu t và gây ra những tổn thất không nhỏ cho các doanh nghiệp xây dựng nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Rủi ro đối với những DA xây dựng là khả năng DA không đợc thực hiện đúng nh mục tiêu dự kiến về thời gian hoàn thành, chi phí thực hiện hoặc về tiêu chuẩn kỹ thuật. Một trong những cách chuyển đổi rủi ro là đấu thầu. Đấu thầu là hình thức mà thông qua nó chủ đầu t có thể hạn chế về rủi ro đối với DA của mình. Đấu thầu giúp cho chủ đầu t chọn ra đợc nhà thầu có đủ năng lực thực hiện DA với mức chi phí hợp lý mà chủ đầu t có thể chấp nhận đợc. Với nhiều ngành, quá trình tiêu thụ sản phẩm thờng xảy ra sau giai đoạn sản xuất còn ở ngành xây dựng, đặc biệt trong lĩnh vực xây lắp, quá trình mua bán lại xảy ra trớc lúc bắt đầu giai đoạn thi công xây dựng công trình, thông qua việc thơng lợng, đấu thầu và ký kết hợp đồng xây dựng. Đấu thầu đã trở thành phơng thức phổ biến đợc áp dụng trong những năm gần đây, đặc biệt là đối với những công trình có chủ đầu t là các tổ chức và doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nớc. Các nhà thầu sẽ phải cạnh tranh nhau để thắng thầu. Đấu thầu không chỉ tốt cho chủ đầu t mà còn mang lại nhiều cơ hội cho các nhà thầu. Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt của thị trờng, việc đấu thầu để nhận đợc hợp đồng mà đặc biệt hợp đồng có giá cao để thi công có lợi nhuận là rất khó khăn. Khi tham gia đấu thầu xây dựng công trình, doanh nghiệp phải tập trung nhân lực, thiết bị và chất xám để lập hồ sơ thầu. Khi tham gia tranh thầu, doanh nghiệp sẽ đứng trớc hai tình thế: - Tham gia tranh thầu sẽ phải chi phí một khoản tiền cho mua hồ sơ dự thầu, chi phí lập hồ sơ dự thầu (lập phơng án dự thầu), tiếp thị và ngoại giao. Nếu thắng thầu sẽ giải quyết đợc việc làm và có thể thu đợc một khoản lợi nhuận. Ngợc lại sẽ mất toàn bộ chi phí đã bỏ ra trong giai đoạn làm hồ sơ dự thầu. -Không tham gia tranh thầu. Có thể biểu diễn trên sơ đồ hình cây nh sau: Nếu tham gia dự thầu thì các nhà thầu sẽ có cơ hội nhận đợc L đồng lợi nhuận với xác suất A%, đồng thời có thể mất B đồng chi phí với xác suất là (1-A)%. Ngợc lại, không tham gia tranh thầu thì nhà thầu không đợc gì. Nh vậy, đấu thầu đã tạo ra cơ hội có lợi nhuận, giải quyết việc làm cho các nhà thầu. Đồng thời nhà thầu cũng đã tích lũy đợc nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh, tiếp thu đợc nhiều kiến thức khoa học công nghệ tiến tiến trong việc xây dựng dự án lớn, có điều kiện để khẳng định mình ở hiện tại và trong tơng lai, có cơ hội cạnh tranh với nhau trên thị trờng trong nớc và quốc tế Trong những năm qua, công tác đấu thầu đã trở nên phổ biến ở nớc ta. Các cơ quan quản lý nhà nớc có đủ thông tin thực tế và cơ sở để đánh giá đúng năng lực thực sự (tài chính, khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất) của các nhà thầu. Nhờ đấu thầu đã nâng cao hiệu quả dự án, tiết kiệm cho nhà nớc hàng trăm tỷ đồng, trung bình từ 8-15% so với dự toán ban đầu. Tóm lại, hoạt động xây dựng có vị trí hết sức quan trọng, thờng đợc đặt vào hàng đầu trong chính sách về tài chính và xã hội của đất nớc. Chính vì vậy mà nó cần đợc cạnh tranh một cách công khai thông qua đấu thầu. Đấu thầu xây lắp với 4 nguyên tắc: hiệu quả - cạnh tranh - công bằng - minh bạch sẽ tiết kiệm đợc chi phí cho chủ đầu t và mở ra nhiều cơ hội cho nhà thầu. 3. Điều kiện đấu thầu quốc tế Theo điều 10, quy chế Đấu thầu (ban hành kèm theo NĐ 88/1999/NĐCP ngày 1/9/1999 của Chính phủ) quy định: " Chỉ đợc tổ chức đấu thầu quốc tế trong các trờng hợp sau: - Đối với gói thầu mà không có nhà thầu nào trong nớc có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu. - Đối với các DA sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nớc ngoài có qui định trong điều ớc là phải tổ chức đấu thầu quốc tế.” Nh vậy đối với các DA sử dụng nguồn vốn ngoài nớc thông thờng phải tổ chức đấu thầu quốc tế. Chủ thể tài trợ, cho vay vốn đối với DA luôn muốn nguồn vốn đợc sử dụng có hiệu quả, có sinh lời do đó họ thờng quy định phải tổ chức đấu thầu quốc tế, nếu không thực hiện theo yêu cầu của họ thì vốn không đợc cung cấp cho chủ đầu t. Trong trờng hợp với những DA không có nguồn vốn ngoài nớc nhng do nhà thầu trong nớc không đủ năng lực nhận thầu thì buộc phải tổ chức đấu thầu quốc tế nhằm có thể chọn đợc nhà thầu nớc ngoài có khả năng đảm nhận đợc DA. Thông qua qui định trên ta thấy Qui chế đấu thầu đã có sự u đãi cho nhà thầu trong nớc. Chỉ khi mà nhà thầu trong nớc không thể thực hiện đợc thì mới có sự xuất hiện của nhà thầu nớc ngoài. Hơn nữa trong điều 10 cũng qui định: “nhà thầu nớc ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt nam hoặc phải liên doanh với nhà thầu Việt nam hoặc phải cam kết sử dụng thầu phụ Việt nam nhng phải nêu rõ sự phân chia giữa các bên phạm vi công việc, khối lợng và đơn giá tơng ứng.” Nhà thầu nớc ngoài tham gia thị trờng xây dựng của Việt nam buộc phải liên doanh hoặc phải sử dụng thầu phụ Việt nam. Nhà thầu Việt nam luôn có mặt trong các DA ngay cả khi không trúng thầu. Tuy nhiên sự có mặt của nhà thầu Việt nam chỉ là “phụ”, thầu chính vẫn là nhà thầu nớc ngoài. Có thể nói chính sách của nhà nớc ta u đãi nhà thầu trong nớc rất nhiều, tạo cơ hội cho nhà thầu trong nớc vơn lên làm chủ thị trờng xây dựng Việt nam. Tuy nhiên, thực tế cho thấy do năng lực còn hạn chế nên đến nay số lợng nhà thầu Việt nam (các nhà thầu là các doanh nghiệp nhà nớc) trúng thầu là không lớn, nếu có chỉ là các gói thầu có giá trị không lớn. Có thể nói, về phía DA có 2 điều kiện để tổ chức đấu thầu quốc tế, DA chỉ đợc tổ chức khi một trong hai điều kiện đó xảy ra. Trong điều kiện thị trờng xây dựng Việt nam hiện nay, nhà thầu trong nớc năng lực hạn chế, nguồn vốn sử dụng cho DA thờng đợc tài trợ hoặc vay từ nớc ngoài do đó các DA xây dựng thờng tổ chức đấu thầu quốc tế là một điều tất nhiên. 4. Nhà thầu xây lắp Nhà thầu xây lắp là tổ chức kinh tế có đủ t cách pháp nhân tham gia đấu thầu. Nhà thầu xây lắp trong nớc là nhà thầu có t cách pháp nhân Việt nam và hoạt động hợp pháp tại Việt nam. Nhà thầu nớc ngoài là các công ty xây dựng nớc ngoài, không phải là nhà thầu Việt nam. Do tầm quan trọng của hoạt động xây lắp nên để tham gia dự thầu các DA xây lắp thì nhà thầu phải đảm bảo các điều kiện cơ bản sau: - Có đủ giấy đăng kí kinh doanh. - Có đủ năng lực tài chính, kỹ thuật đáp ứng đợc yêu cầu của gói thầu. Các nhà thầu phải xét về điều kiện pháp lý và khả năng của mình để tham gia dự thầu. Năng lực tài chính và kỹ thuật là hai yếu tố rất quan trọng, cốt lõi của một nhà thầu. Đó sẽ là một trong những tiêu chí để lựa chọn nhà thầu. Vì thế muốn tham dự thầu thì phải có hai điều kiện cơ bản trên. Ngoài ra, khi dự thầu nhà thầu chỉ đợc tham gia một đơn dự thầu trong một gói thầu, dù là đơn phơng hay là liên doanh dự thầu. Trờng hợp tổng công ty đứng tên dự thầu thì các đơn vị trực thuộc không đợc phép tham dự với t cách là một nhà thầu độc lập trong cùng một gói thầu. Các nhà thầu tham gia đấu thầu ở Việt nam phải cam kết mua sắm và sử dụng các vật t thiết bị phù hợp về chất lợng, giá cả đang sản xuất, gia công hoặc hiện có tại Việt nam. Nhà thầu xây lắp tham dự thầu bằng cách gửi hồ sơ dự thầu cho bên mời thầu. Bên mời thầu căn cứ trên hồ sơ dự thầu để xét thầu, đánh giá năng lực nhà thầu. Hồ sơ dự thầu rất quan trọng với nhà thầu xây lắp. Nếu hồ sơ dự thầu đợc chuẩn bị chu đáo, kỹ lỡng thì khả năng trúng thầu cao hơn. Bên mời thầu trớc tiên dựa trên hồ sơ dự thầu để chọn ra nhà thầu. Sau đó bên mời thầu và nhà thầu mới thơng lợng để đi đến bớc cuối cùng là kí hợp đồng. Nh vậy ngoài năng lực tài chính, kỹ thuật cũng nh nhân sự thì các nhà thầu phải có một bộ phận lập hồ sơ dự thầu tốt. Nếu muốn thì nhà thầu vẫn có thể thuê t vấn lập hồ sơ dự thầu cho mình dựa trên những nguồn lực mà mình có. Nhà thầu xây lắp mang trên mình trách nhiệm với toàn bộ đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Mục tiêu của nhà thầu là phải luôn có DA để thực hiện, tạo công ăn việc làm cho đội ngũ lao động đồng thời duy trì và phát triển doanh nghiệp. Vì vậy nhiều nhà thầu xây lắp đã bằng mọi cách có đợc DA mà không xét đến khả năng của mình. Ngời ta gọi đấy là “uống thuốc độc để giải khát và chết từ từ” (lời của ông Phạm Sĩ Liên, tổng th kí Hội Xây dựng Việt nam). Xung quanh nhà thầu còn tồn tại nhiều tiêu cực mà báo chí luôn phản ánh trong thời gian qua. Thị trờng xây dựng Việt nam tơng đối nhộn nhịp do Việt nam là một nớc đang phát triển, nhu cầu xây dựng là rất lớn, các nhà thầu xây dựng Việt nam (doanh nghiệp nhà nớc) cũng khá đông dới hình thức các tổng công ty bao gồm nhiều thành viên. Ví dụ: Tổng công ty lắp máy Việt nam LILAMA, tổng công ty VINACONEX, tổng công ty Sông Đà . Nhà thầu xây dựng nớc ngoài vào thị trờng Việt nam cũng khá đông tạo nên sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà thầu. Nhà thầu xây lắp chính là ngời thực hiện DA, DA có đúng tiến độ, chất lợng đảm bảo hay không phụ thuộc rất nhiều vào phía nhà thầu. Một nhà thầu xây lắp có thể tham gia vào nhiều DA dựa vào tài sản cố định, vốn lu động và nguồn lực lao động hiện có của doanh nghiệp. Nhà thầu là một nhân tố góp phần thành công của DA ở giai đoạn thực hiện đầu t. 5. Quy trình dự thầu xây lắp Đối với mỗi công ty xây lắp thì có một qui trình dự thầu khác nhau. Song với bất kì một qui trình nào cũng gồm có những giai đoạn sau: - Giai đoạn tìm kiếm thông tin. - Giai đoạn chuẩn bị hồ sơ dự thầu. - Giai đoạn nộp hồ sơ dự thầu. - Giai đoạn thơng thảo để kí kết hợp đồng giao nhận thầu. - Giai đoạn thực hiện hợp đồng. ỉ Giai đoạn tìm kiếm thông tin: Thông tin đợc đánh giá là rất quan trọng trong điều kiện hiện nay, có thông tin và cập nhật thông tin là vấn đề sống còn của bất cứ một doanh ngiệp nào. Trong công ty xây lắp và trong đấu thầu, thông tin đợc thể hiện ở tin tức về các công trình xây lắp đợc đấu thầu, những tin tức về đối thủ cạnh tranh và những tin tức về giá cả, tình hình biến động trên thị trờng về mọi mặt Nguồn thông tin của các công ty xây lắp tham gia đấu thầu thờng bao gồm: - Nguồn thông tin từ các phơng tiện thông tin đại chúng nh: đài, báo tạp chí, thông tin trên mạng... - Nguồn thông tin từ mối quan hệ của công ty với bạn hàng với chủ đầu t. - Nguồn thông tin từ nội bộ: Tổng công ty, các công ty trong tổng công ty, cán bộ công nhân viên trong công ty. Sau khi có thông tin từ các nguồn thông tin trên, thông tin đợc chuyển đến bộ phận phân tích, xử lý thông tin của công ty. Bộ phận này phân tích, đánh giá và đa ra những kết quả của thông tin, từ đó công ty đa ra những biện pháp cần thiết và quyết định xem có tham dự thầu hay không. ỉGiai đoạn chuẩn bị hồ sơ dự thầu: Sau khi công ty quyết định tham dự thầu và có hồ sơ mời thầu của chủ đầu t, công ty đi vào việc chuẩn bị hồ sơ dự thầu. Khoảng thời gian này đợc bắt đầu từ khi nhận đợc hồ sơ mời thầu đến khi nộp hồ sơ dự thầu. Việc chuẩn bị hồ sơ dự thầu là việc chuẩn bị các tài liệu yêu cầu của chủ đầu t về công ty và công trình tham gia đấu thầu. ỉ Giai đoạn nộp hồ sơ dự thầu: Giai đoạn nộp hồ sơ dự thầu đợc tính là khoảng thời gian từ khi nộp hồ sơ dự thầu đến khi mở thầu. Công ty phải nộp hồ sơ dự thầu theo đúng ngày giờ quy định trong hồ sơ mời thầu. ỉGiai đoạn thơng thảo hợp đồng để kí kết hợp đồng giao nhận thầu: Giai đoạn này bắt đầu từ khi nhận đợc thông báo trúng thầu của chủ đầu t cho đến khi kí hợp đồng giao nhận thầu. Trong giai đoạn này chủ đầu t và nhà thầu thơng thảo để hoàn chỉnh nội dung chi tiết của hợp đồng. ỉGiai đoạn thực hiện hợp đồng: Sau khi kí hợp đồng với bên mời thầu, nhà thầu tiến hành thực hiện hợp đồng đã kí kết. Trình tự công việc và phơng thức thực hiện công trình phải tuân thủ theo hợp đồng kí kết. Bên mời thầu sẽ có bộ phận và ngời giám sát quá trình thực hiện này. Nếu nhà thầu không thực hiện đúng theo hợp đồng thì phải chịu xử lý theo những điều đã kí trong hợp đồng. Trong qúa trình dự thầu thì bớc quan trọng nhất là bớc lập hồ sơ dự thầu. Hồ sơ dự thầu phải có căn cứ khoa học và có sức thuyết phục đối với chủ đầu t. Nhà thầu phải tập trung chuyên gia giỏi của mình để lập hồ sơ dự thầu, cần thiết thì có thể thuê t vấn trong những công việc nhất định. Sự chuẩn bị càng chu đáo, các thông tin càng chính xác thì xác suất trúng thầu càng cao. 6. Hình thức và phơng thức cạnh tranh trong đấu thầu 6.1. Cạnh tranh theo chiều rộng (cạnh tranh có giới hạn) - Đa dạng hoá các sản phẩm (công trình xây dựng) mà công ty sản xuất nh: hiện tại công ty đang hoạt động trong lĩnh vực xây dựng nhà thì công ty có thể đa dạng hóa sản phẩm bằng cách xây dựng các công trình công nghiệp, xây dựng các công trình thuỷ lợi, công trình giao thông. - Hoàn thiện công tác lập hồ sơ dự thầu, đặc biệt là phần giới thiệu năng lực của các công ty. - Cải tiến phơng thức thanh toán và các điều kiện khác trong hoạt động nhận thầu thi công xây lắp sau khi trúng thầu. - Tăng cờng tìm kiếm thị trờng về các công trình sẽ đợc đầu t xây dựng nhất là tăng cờng quan hệ vơí các chủ đầu t. - Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, truyền thông và phân đoạn thị trờng Với hình thức cạnh tranh này ta có thể mở rộng đợc thị trờng, thu hút thêm khách hàng và nâng cao danh tiếng của doanh nghiệp. Nhng biện pháp này có hạn chế là: khi công ty đa dạng hóa sản phẩm thì có nghĩa là dàn trải các nguồn lực và nếu nh công trình không đảm bảo đúng nh cam kết của công ty thì lập tức mang lại hiệu quả tiêu cực mà không thể cứu vãn nổi. Vì thế cạnh tranh theo chiều rộng là cạnh tranh có giới hạn. 6.2. Cạnh tranh theo chiều sâu Đây là hình thức cạnh tranh bằng hàm lợng chất xám có trong sản phẩm, bao gồm: - Đầu t đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ công tác quản lý, khảo sát thiết kế đến khi thi công công trình. - Đào tạo bồi dỡng nâng cao trình độ của ngời lao động bao gồm cả cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân sản xuất - Tăng cờng hoạt động nghiên cứu nâng cao chất lợng công trình, đổi mới và hoàn thiện các tiêu chuẩn về kỹ thuật để nâng cao tính an toàn và thẩm mỹ của công trình - Hoàn thiện công tác lập tiến độ thi công, tổ chức thi công công trình và việc xây dựng biện pháp kỹ thuật tối u đối với mỗi một công trình. Đây là hình thức cạnh tranh không có điểm dừng mà các công ty cần phải quan tâm và theo đuổi để đáp ứng đợc yêu cầu ngày càng cao về chất lợng công trình của chủ đầu t, nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của công ty. 6.3. Phơng thức cạnh tranh trong đấu thầu Những chỉ tiêu chính mà chủ đầu t dùng để đánh giá và giao thầu cho một đơn vị xây lắp là: - Chỉ tiêu chất lợng công trình và uy tín của công ty - Chỉ tiêu giá dự thầu - Chỉ tiêu biện pháp thi công và tiến đột thi công Ngoài ra còn bằng các chỉ tiêu khác nh: thời gian bảo hành công trình, phơng thức thanh toán. Vì vậy khi tham gia đấu thầu, các công ty xây lắp thờng sử dụng các phơng thức cạnh tranh sau: ỉ Cạnh tranh bằng chất lợng công trình và uy tín của công ty: Chất lợng công trình là những yêu cầu tổng hợp đối với đặc tính an toàn bền vững, mĩ quan, kinh tế của công trình phù hợp với quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật; phù hợp với hợp đồng kinh tế và pháp luật hiện hành của nhà nớc. Phơng thức cạnh tranh bằng chất lợng công trình trong đâú thầu xây lắp của các công ty đợc tiếp cận dới hai góc độ: - Cạnh tranh bằng chất lợng công trình đang đợc tổ chức đấu thầu xây lắp. Đây chính là nỗ lực phát huy mọi nguồn lực vốn có của công ty nhằm đảm bảo thực hiện đúng thiết kế kỹ thuật và đa ra đợc các đề xuất, giảI pháp kỹ thuật hợp lý nhất. Điều đó đợc công ty trình bàỷ phần tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lợng trong hồ sơ dự thầu. - Để đánh giá tiêu chuẩn chất lợng công trình mà công ty đang tham gia đấu thầu, chủ đầu t không chỉ căn cứ vào sự phù hợp của các tiêu chuẩn trong hồ sơ dự thầu của công ty mà còn xem xét đến chất lợng các công trình công ty đã thi công trớc đó (các công trình có tính chất kỹ thuật tơng tự, nằm trên khu vực địa lý và điều kiện tự nhiên tơng tự). Điều đó cũng chính là uy tín của công ty trên thị trờng. Vì vậy trong hồ sơ dự thầu có phần trình bày kinh nghiệm của công ty trong việc thi công những công trình tơng tự, những công trình tiêu biểu có chất lợng cao kèm theo các chứng nhận có tính pháp lý về chất lợng công trình. Vậy không ngừng nâng cao chất lợng công trình nâng cao uy tín của công ty là điều kiện để nâng cao khả năng thắng thầu của công ty, là điều kiện tồn tại và phát triển của công ty trong giai đoạn hiện nay. ỉCạnh tranh bằng giá dự thầu: Khác với các sản phẩm, giá sản phẩm xây dựng đợc xác định trớc khi sản xuất và đa vào tiêu dùng, thông thờng nó đợc xác định thông qua đấu thầu (bên mời thầu xác định mức giá hợp lý từ các giá bỏ thầu trong hồ sơ dự thầu của các nhà thầu, là giá có lợi nhất cho chủ đầu t. Cạnh tranh bằng giá là cuộc cạnh tranh quyết liệt trong cơ chế thị trờng. Các công ty tham gia đấu thầu đều muốn đa ra một mức giá hấp dẫn với bên mời thầu để có thể thắng thầu. Một số chính sách giá thờng đợc áp dụng trong việc xác định giá tranh thầu: - Chính sách giá cao: áp dụng khi công ty có công nghệ vợt trội so với các đối thủ cạnh tranh hoặc thi công trong điêù kiện đặc biệt hoặc nhà thầu xây dựng đang có quá nhiều việc để làm; nhng mức giá không đợc cao hơn mức giá Nhà nớc qui định. - Chính sách giá trung bình: khi các đối thủ tham dự thầu có u thế gần nh nhau. - Chính sách giá thấp: áp dụng trong điều kiện ngăn chặn đối thủ cạnh tranh tham gia vào thị trờng, muốn gây thiện cảm ban đầu để làm ăn lâu dàI và trong trờng hợp công ty thừa năng lực sản xuất, công nhân không có việc làm nhằm thắng thầu để bù đắp một phần chi phí cố định. (Giá bỏ thầu phải lớn hơn chi phí biến đổi). - Chính sách giá linh hoạt theo giá thị trờng: đa ra giá hợp lý đảm bảo phù hợp với tình hình thị trờng, phù hợp với mục tiêu của công ty và phù hợp với mục tiêu của bên mời thầu. Tuỳ từng công trình, tuỳ từng giai đoạn và từng địa điểm xây dựng mà công ty nên lựa chọn mức giá phù hợp, đảm bảo khả năng cạnh tranh của công ty khi tham gia dự thầu. ỉ Cạnh tranh bằng phơng pháp thi công và tiến độ thi công: Chỉ tiêu biện pháp thi công và tiến độ thi công trình đợc chủ đầu t đánh giá cao khi xét thầu. Trong hồ sơ dự thầu, tiêu chuẩn biện pháp thi công và tiến độ thi công do nhà thầu đa ra đợc chủ đầu t đánh giá ở hai nội dung sau: - Xem xét biện pháp thi công đảm bảo đúng tiến độ, an toàn mức độ bảo đảm tổng tiến độ thi công qui định trong hồ sơ mời thầu. Nếu nhà thầu nào mà đa ra đợc biện pháp thi công làm rút ngắn đợc thời gian xây dựng công trình thì khả năng thắng thầu sẽ cao hơn, nhất là trờng hợp công trình đợc đa vào sử dụng sớm mang lại lợi nhuận cho chủ đầu t. - Xem xét tiến độ hoàn thành các hạng mục công trình khi tiến độ thi công có liên quan tới việc sử dụng ngay các hạng mụch công trình đó của chủ đầu t. Nhà thầu nào đảm bảo đợc tiến độ thi công mà lại đa ra đợc các giải pháp thi công hợp lý chắc chắn sẽ chiếm đợc lợi thế trong đầu thầu. Trớc sự cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các công ty xây dựng phải lựa chọn công nghệ, kỹ thuật thi công và biện pháp thi công phù hợp để đảm bảo rút ngắn thời gian thi công công trình, nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp. Biện pháp thi công và tiến độ thi công trở thành một công cụ cạnh tranh cần thiết và hữu hiệu của các đơn vị xây dựng trong tranh thầu. Trên đây là một số phơng thức cạnh tranh mà các công ty xây dựng thờng sử dụng trong đấu thầu, các công ty cần phải biết vận dụng linh hoạt và phải biết kết hợp chúng để giành thắng lợi trong đấu thầu. CHƠNG II: HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU XÂY LẮP Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC NHÀ THẦU XÂY LẮP TRONG NỚC I.KHÁI QUÁT CHUNG 1.Những kết quả đã đạt đợc Nền kinh tế nớc ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng, quy luật cạnh tranh cũng từng bớc đợc hình thành. Để tạo sự cạnh tranh bình đẳng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nớc của các DA đầu t XDCB cũng nh các DA khác, Chính phủ đã ban hành quy chế đấu thầu thống nhất trong cả nớc. Kể từ khi Quy chế đấu thầu đợc ban hành, hoạt động đấu thầu đã đi vào khuôn khổ, không tự phát nh trớc đây. Những năm trớc đây, các công trình đầu t xây dựng cơ bản có giá quyết toán công trình thờng vợt quá tổng dự toán và tổng mức đầu t đợc duyệt. Đây là một thực trạng gây thất thoát nguồn lực trong nớc đồng thời phát sinh nhiều tiêu cực trong công tác quản lý và thực hiện DA. Đấu thầu ra đời đã giúp cho khối lợng công việc, giá thành đợc tính toán chính xác, tiến độ thi công đợc lên kế hoạch cụ thể nên đã tiết kiệm đợc rất nhiều chi phí, tránh thất thoát nguồn lực cho các chủ đầu t. Nhà thầu muốn trúng thầu phải tận dụng những u thế của mình để hạ giá thành của công trình nhng vẫn đảm bảo chất lợng công trình. Thông thờng giá trúng thầu thờng thấp hơn giá dự toán. Đối với gói thầu xây lắp, mức tiết kiệm vốn bình quân đạt tỷ lệ là 14%, cao hơn so với các gói thầu mua sắm hàng hoá. Nguyên nhân do các yếu tố đầu vào của sản phẩm xây dựng có thể biến động trong quá trình thi công nh: lơng công nhân, giá nguyên vật liệu, biện pháp tổ chức thi công. Đây là những nhân tố mà nhà thầu có thể phát huy tính u thế của mình so với nhà thầu khác nhằm hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh. Bên mời thầu thờng tính giá của công trình dựa trên những tiêu chuẩn trung bình mà không thể xem xét hết khả năng của các nhà thầu, do đó mà giá trúng thầu bao giờ cũng thấp hơn giá dự toán. Một số trờng hợp, giá trúng thầu có thể thấp hơn giá giá dự toán rất nhiều, gần nh không mang lại lợi nhuận cho các nhà thầu. Đây có thể coi là một chiến lợc của các nhà thầu nhằm tạo thị trờng, gây uy tín trên thị trờng xây dựng. Tuy nhiên, hiện tợng này chỉ xảy ra với những nhà thầu mới tham gia thị trờng xây dựng đó và nhà thầu này phải có tiêm lực rất mạnh. Công tác đấu thầu những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, mang lại hiệu quả cao, môi trờng cạnh tranh lành mạnh. Năm 2001, tổng số mua sắm trong đầu t (giá trúng thầu) là trên 68387 tỷ đồng, tơng đơng 4.56 tỷ USD, tiết kiệm chung là 10.37%. Các gói thầu thực hiện theo phơng thức đấu thầu cạnh tranh chỉ chiếm 47.8% tổng số gói thầu nhng lại chiếm tới 85.4% tổng giá trị mua sắm. Chứng tỏ phơng thức đấu thầu cạnh tranh đợc áp dụng nhiều vì tính cạnh tranh công bằng, minh bạch và hiệu quả của nó. Sau đây là bảng số liệu cho thấy mức tiết kiệm đợc qua đấu thầu: Bảng 1: Tiết kiệm chi phí thông qua hoạt động đấu thầu năm 2000 Đơn vị: triệu USD Nội dung Gói thầu Bộ KH-ĐT thẩm định Báo cáo của các Bộ, địa phơng thẩm định Tổng cộng Tổng số gói thầu 94 21.257 21.351 Giá trị ớc tính 950.48 2696.57 3647.05 Giá trị trúng thầu 798.92 2391.17 3190.09 Giá trị tiết kiệm 151.56 305.4 456.96 (Nguồn báo Diễn đàn doanh nghiệp tháng7/2001) 2.Một số vấn đề tồn tại trong đấu thầu xây lắp ở Việt nam ỉ Nạn bỏ thầu giá thấp Hành vi đấu thầu là một hình thức cạnh tranh văn minh trong nền kinh tế thị trờng phát triển. Nhng trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trờng ở nớc ta đã bộc lộ những mặt trái. Vận dụng cơ chế đấu thầu, nhiều chủ thể coi việc ép giá, ép tiến độ là chính, nên dẫn tới nhiều công trình giá thấp và chất lợng thì đúng nh giá trị của nó. Khi công trình đợc hoàn thành thì cái “ngọt ngào” của giá cả thấp nhanh chóng bị lãng quên mà thay vào đó là “cay đắng” của chất lợng công trình kém thì lại đọng lại rất lâu, tiềm ẩn một hiểm họa. Giá cả thấp tới mức vô lý, thời gian thúc ép trái cả quy luật vật chất thì còn đâu là các yêu cầu kỹ thuật đặt ra đợc tôn trọng. Hiện tơng bỏ thầu giá thấp, mang tính phá giá đang trở nên phổ biến, gây khó khăn cho quản lý nhà nớc và các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Trong 5 năm từ 1995 đến 2000, tổng số vốn đầu t xây dựng cơ bản đạt khoảng gần 400 nghìn tỷ đồng, gấp 1.7 lần so với năm trớc. Nếu trung bình mỗi năm, nhà nớc chi trên dới 150 nghìn tỷ đồng vốn đầu t cho xây dựng thì chỉ cần tiết kiệm đợc 1% thông qua đấu thầu chúng ta đã có thêm hàng tỷ đồng. Nhng có phải vì tiết kiệm cho nhà nớc mà thực tế hiện nay đang có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà thầu xây dựng? Thực tế cho thấy, các nhà thầu thi nhau giảm giá, thậm chí có nhà thầu bỏ giá thấp hơn giá trị thực tế của công trình, miễn sao dành đợc phần thắng. Theo qui định, giá đánh giá thấp nhất và giá đề nghị trúng thầu không đợc vợt quá giá gói thầu đợc duyệt sẽ đợc xem xét trúng thầu (điều 31, khoản 1 và điều 42, khoản 1- NĐ88/NĐ-CP). Vì thế, thực tế đã có nhiều DA có mức giá quá thấp so với gói thầu đợc duyệt trong kế hoạch đấu thầu. Hầm đờng bộ đèo Hải Vân, theo giá gói thầu 1A, giá gói thầu là 72.5 triệu USD, giá trúng thầu là 46.1 triệu USD (bằng 63.5%) hoặc gói thầu 2A, giá gói thầu là 42.1 triệu USD, giá trúng thầu là 28.1 triệu USD (bằng 66.7%). Gói thầu 9 cầu đờng sắt, giá gói thầu là 2.4 tỷ Yên nhng giá trúng thầu chỉ có 1.15 tỷ Yên (bằng 48%). Gần đây nhất là giá gói thầu đê chắn sang nhà máy lọc dầu Dung Quất, giá gói thầu xây lắp là 52 triệu USD, giá trúng thầu là 43 triệu USD (bằng 82.5%), DA cải tạo nhà máy ximăng Bỉm Sơn, giá gói thầu xây lắp là 55 tỷ đồng, giá trúng thầu là 36 tỷ đồng (bằng 65%). Mục tiêu của DA thông thờng: chất lợng, thời gian, chi phí; chủ thể xây dựng là nhà đầu t, nhà thầu, nhà t vấn. Có những DA mục tiêu là chất lợng, giá thành, thời gian, an toàn; chủ thể xây dựng là chủ đầu t, nhà thầu, t vấn, nhà nớc. Ngoài ra còn có ngũ giác mục tiêu, ngoài 4 mục tiêu của tứ giác mục tiêu còn có thêm vệ sinh môi trờng. Để đạt đợc tất cả mục tiêu là rất khó. Về phía chủ đầu t, muốn đạt đợc mục tiêu chất lợng và chi phí: chất lợng phải tơng đối và giá thành phải thấp. Nhà thầu muốn thắng thầu phải đảm bảo đợc mục tiêu đó của chủ đầu t. Nh vậy các nhà thầu thi nhau giảm giá, làm sao để có công trình thực hiện, “có cái để làm”. Chất lợng công trình lúc này chỉ trên giấy tờ (hồ sơ dự thầu), cha thể nhìn thấy đo đếm thực tế bằng các thiết bị kỹ thuật, chỉ mang tính chất dự toán. Công trình khi đợc thực hiện cha hoàn thành đã phải sửa chữa, gia cố gây lãng phí, tốn kém gấp nhiều lần so với việc giảm giá. Những nhà thầu nh vậy khi thắng thầu đứng trớc nỗi lo: một là thua thiệt chịu lỗ, hai là phải mất khoản tiền bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Muốn không bị mất khoản tiền “đặt cọc”, các nhà thầu đã phải bằng cách tác động vào chất lợng của công trình, kéo dài thời gian thực hiện nhằm giảm tồn thất cho mình, và hậu quả là chất lợng của các công trình thì không ai đứng ra đảm bảo là nó có đúng tiêu chuẩn kỹ thuật hay không. Nhận xét về tình hình phá giá trong đấu thầu ở Việt nam trong những năm qua, chủ tịch Hiệp hội các nhà thầu Việt nam - ông Vũ Khoan cho rằng: biện pháp này là chiêu quan trọng để hạ nốc ao các đối thủ cạnh tranh khác. Đây là một vấn nạn đã trở nên phổ biến. Các nhà thầu sử dụng chiêu bài th giảm giá hòng loại đối thủ ra khỏi cuộc chơi. Th giảm giá có tỷ lệ giảm có thể là 5-7%, thậm chí có DA tới gần 40%. Với mức giá nh vậy thì mục tiêu: chất lợng, tiến độ thời gian liệu có đạt đợc? Một ví dụ điển hình là gói thầu 2A làm đèo Hải Vân, sau 18 tháng thi công (thời gian hoàn thành 24 tháng), cả tuyến đờng 36.3 km vẫn cha có một mét đờng nào đợc xây dựng hoàn chỉnh, tiến độ chậm đến 2 năm. Lý do chậm tiến độ thi công là giá bỏ thầu công trình là quá thấp, không đủ bù đắp nguyên vật liệu nên càng làm thì càng lỗ. Đó là cha nói đến chất lợng của công trình. Nhà thầu lúc này sẽ phát sinh ra các hành vi nh: một là, đánh tráo vật liệu. Nhìn bề ngoài thì nh nhau nhng giá cả và chất lợng thì khác xa nhau. Hai là, bớt xén, ăn bớt vật liệu ở những công trình ngầm, công trình khuất: móng, đờng ống, cốt thép nằm trong bêtông. Lúc làm xong rồi thì không có cách gì, không có phơng tiện máy móc nào kiểm tra đợc. Ba là, giải quyết khâu nghiệm thu với giám sát bên A bằng giải pháp “lót tay” cho bên A phong bì, quà cáp biếu xén. Có thể thấy hiện tợng bỏ giá thấp đã làm chất lợng công trình giảm, làm mất tính cạnh tranh lành mạnh trong công tác đấu thầu hiện nay ở Việt nam. Song những con số, những cái giá quá khác thờng đó lẽ ra không thể qua mắt đợc những chuyên gia có đủ trình độ trong công tác xét thầu, nhất là với những DA có giá trị lớn. Nh vậy, bên cạnh nạn bỏ thầu giá thấp còn tồn tại một vấn đề ảnh hởng đến chất lợng công trình cũng nh hoạt động, cần đợc quan tâm. Đó là công tác kiểm định. Những năm qua, ngành xây dựng đã có nhiều cố gắng để từng bớc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý chất lợng. Tuy nhiên hệ thống tiêu chuẩn xây dựng hiện hành đang tồn tại một số vấn đề bất cập. Khoảng 45% số lợng tiêu chuẩn hiện hành là những tiêu chuẩn ban hành những năm 70-80 cũ và không phù hợp, cần sớm đợc rà soát, xem xét bổ sung, sửa đổi hoặc xây dựng tiêu chuẩn mới để thay thế. Nhiều lĩnh vực thi công xây lắp và sản xuất vật liệu xây dựng đang cần có loại văn bản hớng dẫn này. Các tiêu chuẩn về phơng pháp thử các qui trình kiểm định chất lợng công trình xây dựng và sản phẩm vật liệu xây dựng tuy đã có nhng còn thiếu và cha đồng bộ. Việc xây dựng đồng bộ hóa hệ thống tiêu chuẩn đang là một yêu cầu cấp bách. Chúng ta cần phảI có một qui trình kiểm tra, nghiệm thu rất nghiêm ngặt những hạng mục công trình, nhất là với những hạng mục công trình trớc khi nó bị làm khuất nh: móng, đờng ống. ỉNhà thầu chọn cái chết từ từ Nhiều doanh nghiệp đầu t mua sắm thiết bị quá lớn, máy móc thì vẫn phải khấu hao nhng không có dự án để thực hiện, công nhân thì phải “nằm” chờ việc. Trong khi đó các khoản vay ngân hàng sắp đến kì đáo hạn, nếu không trả thì không đợc vay tiếp, không đợc bảo đảm tiền vay khi có DA mới. Những lý do trên gây áp lực cho nhà thầu khiến nhà thầu phải bằng mọi cách phải thắng thầu, vẫn biết lỗ nhng vẫn bỏ giá thấp, thà “chết từ từ còn hơn chết hẳn”, các nhà chuyên môn gọi là hiện tợng “uống thuốc độc để giải khát và chết từ từ”. Muốn trở thành nhà thầu phụ, giải pháp phổ biến là các nhà thầu phụ Việt nam tranh nhau hạ giá thành. Kết quả là nhà thầu chính nớc ngoài chỉ mất khoảng 50% chi phí đã dự toán cho phần công việc mà nhà thầu phụ Việt nam đã đảm nhận và họ thu về những khoản siêu lợi nhuận từ khoản tiết kiệm này. Khi triển khai thực hiện các công trình loại này, các nhà thầu chính nớc ngoài không chịu chấp nhận cách làm cắt xén và do vậy nhà thầu chính Việt nam đành phảI làm đúng theo tiêu chuẩn và cam kết chất lợng sản phẩm mà nếu tính đúng, tính đủ thì phía Việt nam lỗ to. Vì vậy có doanh nghiệp đã lỗ tới 2.7 tỷ đồng do đặt giá thầu phụ xây dựng khách sạn Opera Hilton tại Hà nội quá thấp. Theo kinh tế học vi mô thì điều này không hoàn toàn sai, doanh nghiệp có thể sản xuất dới mức hoà vốn, mặc dù thua lỗ nhng vẫn phải sản xuất để có thể bù đắp một phần chi phí máy móc, nhân công. Tuy nhiên, với những nhà thầu làm ăn theo phơng thức này thì lỗ là điều chắc chắn. Song một điều đáng ngạc nhiên là, các doanh nghiệp này vẫn tồn tại và nhà nớc vẫn phải bỏ chi phí cao hơn mức bỏ thầu ban đầu do những phát sinh hậu đấu thầu. Hậu quả là nền kinh tế vẫn tồn tại những doanh nghiệp làm ăn yếu kém, tạo nên một cung cách làm ăn không lành mạnh gây ảnh hởng đến các doanh nghiệp khác, gây tổn thất cho nền kinh tế và thâm hụt ngân sách nhà nớc. ỉHành vi bán lại gói thầu của các nhà thầu: Hiện nay, một số nhà thầu khi tham gia đấu thầu và thắng thầu đã có hành vi chuyển nhợng, bán lại các gói thầu cho các tổ chức, cá nhân khác đang diễn ra khá phổ biến. Điều này khiến cho chất lợng các công trình, tiến độ thi công không đúng kế hoạch đấu thầu, không đảm bảo yêu cầu của chủ đầu t. Hơn nữa, chủ đầu t không thể kiểm soát đợc tình hình thực hiện gói thầu của mình. ỉHành vi móc ngoặc giữa chủ đầu t và nhà thầu: Đây là vấn đề có thật trong đấu thầu, tuy nhiên nó có ở mức độ không giống nhau. Đấu thầu giả, hay đấu thầu chỉ là hình thức khi mà các nhà thầu thoả thuận ngầm để một nhà thầu thắng. Đây là hình thức đấu thầu “quân xanh, quân đỏ”. Bên mời thầu sẽ mời một số nhà thầu tham dự đấu thầu, một nhà thầu sẽ đứng tên tất cả những nhà thầu còn lại. ở đây có sự thông đồng giữa các nhà thầu tham dự với nhau. Một nhà thầu (quân đỏ) sẽ lập một bộ hồ sơ dự thầu với giá thấp nhất, chất lợng cao nhất. Bốn bộ hồ sơ còn lại mang xác nhận của các nhà thầu khác (quân xanh) có mức giá cao hơn và chất lợng cũng thấp hơn. Thực ra có sự nội ứng từ bên mời thầu, vì bên mời thầu là ngời trực tiếp chấm điểm các hồ sơ dự thầu, họ sẽ phát hiện ra ngay những bộ hồ sơ giống nhau. Tuy nhiên thì bên mời thầu đã cho nhà thầu quân đỏ biết trớc giá của gói thầu và một số tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá gói thầu. Các nhà thầu quân xanh lúc này là quân xanh nhng lúc khác họ lại là quân đỏ, và nhà thầu quân đỏ sẽ phải “trả”bằng cách trở thành quân xanh cho những nhà thầu kia. Hành vi này làm mất hết ý nghĩa cạnh tranh, minh bạch của đấu thầu. Thông thờng những DA sử dụng nguồn vốn Nhà nớc thì hay xảy ra tình trạng này. Tiền không thuộc cụ thể về một ai nên chủ đầu t, nhà thầu thông đồng nhau để rút tiền từ túi Nhà nớc mà không hề có một sự đắn đo nào là điều dễ hiểu. Một hiện tợng khác cũng tơng tự, bên mời thầu đa ra những tiêu chuẩn xét thầu lồng những ý đồ chủ quan hớng tới một nhà thầu nào mà chủ đầu t đã có ý định lựa chọn. Những nhà thầu khác cầm chắc thất bại trong một cuộc chơi không công bằng mà sự không công bằng này bên ngoài khó nhận ra. Sự móc ngoặc với bên mời thầu còn có thể là: chiến thuật đa ra giá thầu thấp để nắm chắc khả năng thắng thầu, sau đó khi thực hiện hợp đồng chủ đầu t và nhà thầu cùng thống nhất bổ sung khối lợng phát sinh hoặc thay đổi một phần thiết kế. Có những gói thầu giá trị phát sinh lên đến hàng chục tỷ đồng. Những việc thông đồng, móc ngoặc nêu trên đang làm cho đấu thầu trở thành phơng tiện giảng hoà việc giao thầu giữa chủ đầu t và bên mời thầu. Bây giờ ngời ta không còn sự hồi hộp và niềm vui của ngời thắng thầu. Muốn thắng thầu, các nhà thầu phải “đi đêm, lách luật”. Các nhà quản lý vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm. Nạn nhân của cơ chế quản lý vốn hành chính, thiếu tính chuyên nghiệp và là thủ phạm gây ra những tiêu cực trong bộ máy này. II. HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ THẦU NỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nớc, những năm qua khối lợng đầu t nói chung và đầu t nớc ngoài nói riêng, đặc biệt là các DA đợc đầu t bằng nguồn vốn vay ODA đã tăng rõ rệt. Cùng với quá trình phát triển đầu t, thị trờng xây dựng của nớc ta cũng đã bắt đầu mở cửa cho các nhà thầu nớc ngoài. ban đầu nhà thầu nớc ngoài vào Việt nam chủ yếu để nhận thầu các công trình đầu t trực tiếp của nớc ngoài hoặc công trình viện trợ không hoàn lại. Về sau, nhà thầu nớc ngoài vào dự thầu và thắng thầu hàng loạt các gói thầu đấu thầu quốc tế thuộc nguồn vốn ODA, WB, ADB thậm chí cả các DA vốn trong nớc nh Nhà hát Lớn TP Hà Nội, sân vận động quốc gia Hà Nội. Đến nay đã có nhiều nhà thầu nớc ngoài vào thực hiện một khối lợng tơng đối lớn về t vấn xây dựng và xây lắp công trình tại Việt nam, chiếm thị phần rất lớn trong ngành xây dựng, trong đó phần lớn các DA 100% vốn nớc ngoài và DA viện trợ không hoàn lại đều do các nhà thầu nớc ngoài đảm nhận làm thầu chính hoặc tổng thầu. Từ năm 1994 đến năm 2000 đã có 314 nhà thầu nớc ngoài đến từ 29 quốc gia và vùng lãnh thổ vào thực hiện 673 công trình và hạng mục công trình tại Việt nam; trong đó số nhà thầu Nhật Bản là nhiều nhất với 69 nhà thầu. Các nhà thầu nớc ngoài có lợi thế về qui chế của tổ chức tín dụng, giải pháp công nghệ, tiềm lực tài chính, kinh nghiệm lâu năm, uy tín trên thơng trờng quốc tế. Khi tham gia dự thầu các nhà thầu nớc ngoài đã tinh khôn tìm cách liên doanh với một công ty, tổng công ty có tầm cỡ, tiếng tăm của Việt nam, chủ yếu là để tạo một hình ảnh đáng tin cậy cho họ và để mu cầu một đặc ân, một u ái trong quá trình xét thầu, đánh giá thầu để đợc thắng thầu. Khi đã đợc chấm thầu, xét chọn và ký hợp đồng, nhà thầu nớc ngoài sẽ chỉ sử dụng bên liên doanh Việt nam cung cấp lao động, thiết bị giá rẻ để thi công xây dựng và lắp đặt các hạng mục công trình, nếu không họ phải thuê hoặc mua từ nớc ngoài sẽ rất là tốn kém, và qua đó họ không có siêu lợi nhuận. Nh vậy nhà thầu nớc ngoài luôn tìm kiếm đợc lợi nhuận cao trong khi nhà thầu Việt Nam, ngay trên mảnh đất của mình thì chỉ “an phận” nhận làm thầu phụ những công trình, hạng mục công trình mang lại lợi nhuận nhỏ bé so với những công trình mà nhà thầu nớc ngoài đảm nhận. III.HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ THẦU XÂY LẮP TRONG NỚC. 1. Những khó khăn tồn tại của nhà thầu trong nớc ỉYếu tố khách quan: Mặc dù nớc ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trờng đợc 15 năm song ngành xây dựng luôn đi sau các ngành khác. Hình thức đấu thầu dù sao vẫn còn tơng đối mới trong thị trờng xây dựng Việt nam. Các công ty xây lắp Việt nam đang trong quá trình vừa thực hiện vừa học hỏi. Vì vậy việc cạnh tranh trong những công trình lớn với nhà thầu và chủ đầu t nớc ngoài là rất khó khăn. Thị trờng xây dựng đang là thị trờng phát triển với tốc độ cao, vốn đầu t vào xây dựng ngày càng nhiều và đây là một thị trờng tiềm năng nên các công ty cạnh tranh nhau rất quyết liệt. Các nhà thầu trong nớc đa số mới hoạt động nên cha có kinh nghiệm trớc những nhà thầu đã “lão luyện” của phía nớc ngoài. Mặt khác văn bản pháp quy về đầu t xây dựng cơ bản cha đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, qui định cha chi tiết, đặc biệt là trong qui chế đấu thầu việc qui định chế độ u đãi đối với nhà thầu trong nớc tham gia đấu thầu quốc tế còn mang tính chung chung, cha cụ thể nên trên thực tế nhà thầu Việt nam cha đợc hởng những u đãi này. Nhìn chung thì các DA có vốn đầu t nớc ngoàI thì các nhà thầu Việt nam hầu nh ít có cơ hội làm tổng thầu, tỷ lệ thầu chính thấp, đa số làm thầu phụ. Những gói thầu chính trúng thầu phần lớn là những gói thầu san nền, làm móng hoặc xây dựng phần thô. Những gói thầu làm tổng thầu có thiết kế, công nghệ cao nhà thầu Việt nam cha đủ khả năng dự thầu. Hình thức thầu phụ cũng rất đa dạng, có công trình thầu phụ dới dạng hợp tác với nhà thầu chính nớc ngoài, có công trình thông qua bản ghi nhớ, cung cấp giá cho nhà thầu nớc ngoài đứng ra đấu thầu, cũng có công trình nhận thầu phần nhân công. Nhng giá cả làm thầu phụ thờng bị các nhà thầu chính nớc ngoài bắt chẹt, dới các hình thức gọi phiếu chào giá từng công việc tới nhà thầu Việt nam, rồi sau đó chọn giá thấp nhất để hợp đồng giao việc. Có nhà thầu Việt Nam tham gia đấu thầu bằng bản ghi nhớ, nhng khi thắng thầu chỉ đợc làm một phần còn lại nhà thầu nớc ngoài giao cho nhà thầu phụ Việt nam khác có giá thấp hơn. Có trờng hợp nhà thầu nớc ngoài đơn phơng cắt hợp đồng đối với nhà thầu Việt nam hoặc nhà thầu thắng thầu bán lại cho các nhà thầu khác. Về phơng pháp xét thầu, đôi khi chỉ dựa vào hồ sơ dự thầu của các nhà thầu, thiếu thông tin thực tế, do đó khi đánh giá năng lực nhà thầu cha đảm bảo độ chính xác. Các nhà thầu Việt nam nhiều khi cũng bị xem thờng trong khi đấu thầu ngay cả những công trình có vốn trong nớc. Tình trạng này diễn ra ở một số ngành, địa phơng, khi một nhân vật quan trọng nào đó muốn cho một hãng dự thầu A thắng cuộc, thì dù hãng thầu B có năng lực kỹ thuật tốt và đề xuất giá thầu khá hợp lý, cũng không đợc chấp nhận. Năng lực của nhà thầu phải dựa trên các yếu tố về vốn, năng lực nhân sự và kinh nghiệm nghề nghiệp.Việc đánh giá cho điểm các hồ sơ dự thầu hiện nay cũng không công bằng, tuy có điểm chuẩn nhng chỉ tiêu đặt ra cha định lợng đợc, việc cho điểm mang tính chủ quan, thiên vị. Nhà thầu nớc ngoài không phải nhà thầu nào cũng mạnh, có những nhà thầu nớc ngoài năng lực còn yếu kém hơn nhà thầu trong nớc. Mặt khác nhà thầu nớc ngoài, với các quy chế quản lý nhà thầu nớc ngoài lỏng lẻo nh hiện nay thì chủ đầu t cũng khó mà đánh giá nhà thầu một cách chính xác đợc. Một khó khăn nữa cho nhà thầu Việt nam là qui chế của các tổ chức cho vay vốn đầu t. Các DA ODA xây dựng công trình kết cấu hạ tầng khi giao cho các bộ chuyên ngành làm chủ đầu t thì các công ty, tổng công ty trực thuộc bộ đó không đợc tham gia đấu thầu theo thông lệ quốc tế. Mặc dầu các đơn vị này cũng rất mạnh và có nhiều kinh nghiệm, truyền thống về xây dựng, lắp đặt những công trình nói trên. Chẳng hạn các DA xây dựng điện, xây dựng nhà máy ximăng... đối với những tổng công ty, công ty thuộc bộ Xây dựng. Hoặc DA cầu đờng cảng với những đơn vị thuộc bộ GTVT. Hay dự án nạo vét, xây dựng thuỷ nông đối với những đơn vị thuộc bộ NN&PTNT v.v... Quy định này Ngân hàng Thế giới (WB) và các tổ chức tài trợ quốc tế khác đang kiên trì theo đuổi. ỉYếu tố chủ quan: - Tổ chức quản lý và nhân sự: Năng lực tổ chức quản lý đợc thể hiện ở việc tổ chức quá trình xây dựng, tổ chức lao động đảm bảo đúng tiến độ và đúng chất lợng trong tài liệu giải trình các biện pháp thực hiện. Thực tế cho thấy các nhà thầu Việt nam còn thua kém các nhà thầu nớc ngoài rất nhiều ở điểm này. Trình độ quản lý của đội ngũ quản lý ở các doanh nghiệp xây lắp là cha cao, cơ cấu không linh hoạt nên không ứng phó kịp thời với những thay đổi của môi trờng, xử lý các sự cố còn chậm, cha chính xác.Các phòng ban chức năng của các doanh nghiệp xây lắp cũng cha hợp lý. Đội ngũ cán bộ quản lý, trình độ năng lực, kinh nghiệm còn yếu kém, trách nhiệm cá nhân với công việc còn cha cao. Vì đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp: tính ổn định không cao, thay đổi theo công trình vì vậy sự linh hoạt của cơ cấu tổ chức có vai trò quan trọng tuy nhiên với các doanh nghiệp xây lắp hiện nay thì lại không có sự đoàn kết gắn bó giữa cán bộ quản lývà ngời lao động, sự phối hợp giữa các bộ phận trong lập hồ sơ dự thầu và thực hiện hợp đồng không ăn ý. Bầu không khí làm việc trong các công ty xây lắp cha tích cực hăng say và có nền nếp. Đội ngũ công nhân viên trong các công ty xây lắp thờng trẻ, do đó còn hạn chế về mặt kinh nghiệm. Lao động của các doanh nghiệp thờng là hợp đồng trung và dài hạn tuy nhiên số lao động thuê ngoài và làm hợp đồng ngắn hạn cũng chiếm một khối lợng đáng kể, gây khó khăn tới chất lợng công trình cũng nh tiến độ thi công vì số lao động này không ổn định, mất thời gian tìm kiếm và đào tạo. Số liệu thực tế của một doanh nghiệp xây lắp sau đây là một minh chứng: Bảng2 : Thống kê lao động chính thức thuộc biên chế Công ty Xây lắp và phát triển nhà số 1 Đơn vị: ngời STT Các chỉ tiêu 1998 1999 2000 1 Tổng số CBCNV 25 34 51 2 Trình độ đại học 18 21 33 3 Tuổi bình quân 34.5 31.25 28.01 4 Lao động thuê ngoài 177 213 286 Hơn nữa cơ cấu tổ chức cồng kềnh, nhiều phòng ban, năng lực trình độ chuyên môn lại không cao.Vì vậy, với đội ngũ lao động đó thì doanh nghiệp xây lắp trong nớc khó có khả năng thắng thầu các dự án có quy mô lớn. Đội ngũ lao động lành nghề, nhiều kinh nghiệm là một điểm mạnh của một doanh nghiệp xây lắp. Điều này ai cũng biết nhng để đạt đợc thì không phải là dễ, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức quản lý của doanh nghiệp, khả năng lãnh đạo doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý. Cả đội ngũ quản lý và lao động của doanh nghiệp đều cha đáp ứng đợc yêu cầu ngày càng cao của các gói thầu do đó để nâng cao khả năng thắng thầu thì đây là một yếu tố mà doanh nghiệp xây lắp cần quan tâm sâu sát. - Máy móc thiết bị: Do sự phát triển của khoa học công nghệ, ngày nay máy móc không thể thiếu đợc trong bất cứ một loại hình sản xuất nào. Tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng là nhiều hay ít. Trong xây dựng cũng vậy, máy móc giúp con ngời trong những công việc sử dụng nhiều về lực. Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì máy móc thờng đợc sử dụng trong đào móng đóng cọc, nhào trộn bêtông, máy phát điện, máy bơm, các loại xe phục vụ cho công tác san lấp cũng nh vân chuyển nguyên vật liệu. Đặc trng của các thiết bị này thờng là công suất khá lớn, cồng kềnh và giá của thiết bị thờng cao. Thực tế, các doanh nghiệp xây lắp của Việt nam có trang thiết bị thờng lạc hậu, cũ kỹ, nhập từ các nớc Đông Âu, hoặc của các nớc trong khu vực. Máy móc thiết bị thờng có công suất nhỏ, không đáp ứng đợc trong việc thi công các công trình lớn, chủ yếu chỉ đáp ứng đợc các công trình nhỏ, thi công các công trình xây dựng dân dụng là chính. Khi thi công những công trình lớn, những công trình có kết cấu hạ tầng phức tạp thì các doanh nghiệp xây lắp thờng phải đi thuê. Mặt khác số lợng máy móc thiết bị của doanh nghiệp xây lắp cũng không nhiều. Máy móc thiết bị lại không đồng bộ, mang tính chắp vá. Mặt khác sự cung cấp nguyên nhiên vật liệu cha đợc kịp thời, ảnh hởng tới tiến độ thi công công trình. Nguyên nhân chính ở đây cũng là do thiếu vốn đầu t. Với những máy móc thiết bị nh vậy thì các doanh nghiệp xây lắp trong nớc khó có khả năng thắng thầu các công trình xây dựng phải tổ chức đấu thầu quốc tế. Chỉ tiêu kỹ thuật và chất lợng công trình là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá nhà thầu. Vì vậy nhà thầu trong nớc muốn nâng cao khả năng thắng thầu phải mạnh dạn đầu t cho máy móc thiết bị. - Năng lực tài chính : Khả năng tài chính của các doanh nghiệp xây lắp trong nớc còn quá hạn chế so với các doanh nghiệp nớc ngoài, trừ một số công ty, Tổng công ty thuộc bộ chủ quản là có khả năng tài chính ổn định. Nhìn chung thì tỉ lệ nợ thờng cao, vốn chủ sở hữu thấp, khả năng thanh toán thấp. Các doanh nghiệp xây lắp trong nớc có khả năng thu hồi vốn thấp, cơ cấu vốn cha hợp lý, vốn cố định khá lớn tuy nhiên chủ yếu là nhà xởng, máy móc thiết bị còn thiếu. Vốn của doanh nghiệp chủ yếu là vồn vay ngắn hạn. Trong quá trình dự thầu thì việc tính giá gói thầu cũng cha chính xác. Điều này cho thấy tiềm lực tài chính của các doanh ngiệp xây lắp trong nớc còn yếu, hoạt động sản xuất kinh doanh cha hiệu quả. Với tiềm lực tài chính nh vậy thì doanh nghiệp xây lắp khó mà thắng thầu. Các doanh nghiệp cần có biện pháp khắc phục để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. ỉNguyên nhân: Những khó khăn mang tính khách quan nh trên đã phân tích đồng thời cũng chính là nguyên nhân khách quan gây ra những khó khăn cho những nhà thầu trong nớc. Sau đây là một số nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà thầu trong nớc: - Số lợng máy móc thiết bị, vốn và tình hình tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh cũng nh số lợng công nhân còn hạn chế nên năng suất sản xuất của công ty không cao, khó có khả năng thắng thầu những công trình lớn. - Đa số cán bộ trong doanh nghiệp xây lắp thờng trẻ nên thiếu kinh nghiệm trong quản lý cũng nh thi công. - Sự không đồng đều về ngành nghề đào tạo nên khó khăn trong việc bố trí công tác cho phù hợp với công việc. - Thiếu bộ phận chuyên làm Marketing nên thiếu thông tin, phân tích xử lý thông tin không kịp thời và đầy đủ. - Thiếu bộ phận chuyên làm công tác đấu thầu. - Trong các doanh nghiệp xây lắp cha vận dụng toàn bộ sức mạnh tổng hợp của tập thể CBCNV trong DN. DN cha có chế độ thởng hợp lý. - Cha vận dụng khai thác các phơng pháp quản lý, cũng nh tính giá dự thầu nên thông thờng chỉ sử dụng đơn giá XDCB và các báo giá mà cha sử dụng tính giá thực tế và trong tính giá dự thầu. Với những khó khăn tồn tại và những nguyên nhân trên, các nhà thầu trong nớc cần phải có những giải pháp cải tiến nâng cao năng lực và tự hoàn thiện mình một cách liên tục và trong thời gian dài. Đồng thời nhà nớc cũng phảI hỗ trợ nhà thầu trong nớc nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của họ, góp phần mang lại nhiều lợi ích cho đất nớc. 2. Kết quả đạt đợc từ hoạt động đấu thầu của nhà thầu trong nớc. ỉKết quả: Những năm qua, công tác đấu thầu xây dựng đã từng bớc đi vào nền nếp. Nhờ có đấu thầu mà các nhà thầu trong nớc đã tích luỹ đợc nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh, tiếp thu đợc kiến thức về khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại trong việc xây dựng dự án lớn, có điều kiện để khẳng định mình ở hiện tại và trong tơng lai, có cơ hội để cạnh tranh với nhau trên thơng trờng trong nớc và quốc tế. Trong quá trình hội nhập, phát triển và mở rộng thị trờng đã đặt ra nhiều cơ hội thách thức, áp lực cạnh tranh không nhỏ đối với các nhà thầu trong nớc. Các doanh nghiệp xây lắp sẽ chính là những ngời bị tác động trực tiếp, sẽ là ngời phải nắm lấy cơ hội để phát triển và đối đầu với thách thức và vơn lên. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp xây dựng Việt nam từ chỗ chủ yếu làm nhà thầu phụ cho các nhà thầu chính nớc ngoài đã dần tiến tới làm nhà thầu chính của một số công trình lớn và trong các liên doanh thì phía Việt nam cũng dần nâng cao vị thế của mình, khẳng định trên thơng trờng. Những nhà thầu lớn của Việt nam phải kể đến: Tổng công tylắp máy Việt nam (LILAMA), Tổng công ty xây dựng Việt nam (VINACONEX), Tổng công ty Sông Đà... Thị trờng xây dựng Việt nam những năm gần đây rất sôi động. Các nhà đầu t, các tập đoàn công nghiệp lớn cùng với những sản phẩm, thiết bị hiện đại tiên tiến từ nhiều nớc trên thế giới đã ồ ạt tràn vào Việt nam để liên doanh hoặc đầu t xây dựng các công trình. Đứng giữa vòng xoáy của thị trờng cạnh tranh sôi động và gay gắt, bằng sự táo bạo đầy bản lĩnh của mình, LILAMA đã bỏ vốn đầu t mua sắm trang thiết bị, máy móc hiện đại, tự chế tạo lấy thiết bị cung cấp tại chỗ cho các công trình nhận thầu, điều mà từ trớc tới nay thợ lắp máy cũng nh các doanh nghiệp ở nớc ta cha từng làm. Những gói thầu chế tạo lớn chiếm từ 1/2 đến 2/3 tổng số thiết bị lắp đặt cho các nhà máy Ximăng đang sản xuất đạt công suất, chất lợng tốt nh: Chin Fon, đặc biệt ở Ximăng Nghi Sơn (Thanh Hoá) do Nhật Bản đầu t đã đợc các chuyên gia hết lời ca ngợi và nể phục. LILAMA trong 40 năm hình thành và phát triển đã từng hình thành xây dựng ngót 2500 công trình lớn nhỏ ở trong nớc. Điều đó chứng tỏ về sự am hiểu công việc và sự vững chắc về tay nghề ngời thợ. Những công trình xây lắp mà LILAMA tham gia nh: Thuỷ điện Sông đà, thuỷ điện Yaly... đã mang lại những hiệu quả lớn lao cho sự phát triển công nông nghiệp, phục vụ thiết thực cho nhân dân. LILAMA đã xác định cho mình một quyết tâm thực hiện bằng đợc: trở thành nhà thầu chính. Đây cũng là mục tiêu của rất nhiều nhà thầu trong nớc. Hiện nay các nhà thầu trong nớc không chỉ đơn thuần xây dựng những công trình nhà dân dụng mà còn xây dựng những công trình hạ tầng kỹ thuật, đờng, hệ thồng thoát nớc. Uy tín của các công ty và tổng công ty về xây lắp càng đợc nâng cao. Chất lợng công trình cũng ngày một nâng cao, đội ngũ cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp trẻ có kiến thức chuyên môn, năng động và sáng tạo; các doanh ngiệp cũng đầu t vào mua sắm các trang thiết bị máy móc hiện đại. Các gói thầu mà nhà thầu trong nớc trúng thầu cũng ngày một mở ra những cơ hội mới cho các nhà thầu trong nớc. ỉCơ hội: Sự phát triển của nền kinh tế cùng với qúa trình đô thị hoá dẫn đến nhu cầu xây dựng ngày càng cao, các công trình công cộng nh đờng giao thông, cầu cảng, hệ thống cấp thoát nớc đô thị... ngày nột nhiều. Nhiều thành phố trong cả nớc đang tiến hành qui hoạch sắp xếp lại các khu dân c cũng nh các công trình giao thông... Đất nớc đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, do đó nhu cầu về xây dựng nhà máy, xây dựng cơ sở hạ tầng lớn. Mặt khác, chính sách của nhà nớc về bắt buộc nhà thầu nớc ngoài hoạt động tại Việt nam khi tham gia đấu thầu xây lắp đều phảI kí hợp đồng với một công ty xây dựng trong nớc làm thầu phụ và chính sách u đãi nhà thầu trong nớc tham gia đấu thầu những công trình có vốn đầu t nớc ngoài. Điều này tạo điều kiện cho công ty có thể tiếp xúc và học hỏi những kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm về quản lý để tự hoàn thiện, góp phần nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nớc tham gia đấu thầu. CHƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THẮNG THẦU CỦA CÁC NHÀ THẦU TRONG NỚC I. VỀ PHÍA NHÀ NỚC: Nhà nớc cần có những u đãi giành cho nhà thầu trong nớc. Đối với một số gói thầu khi triển khai đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật, công nghệ cao mà nhà thầu trong nớc cha đủ khả năng làm đợc, đa phần các gói thầu còn lại nhà thầu nớc ngoài giành đợc đều xuất phát từ sự vợt trội về năng lực tài chính để đảm bảo cho việc thực hiện gói thầu. Nh vậy do yếu hơn về khả năng tài chính, các nhà thầu trong nớc đã mất đi quyền chủ động ngay trên sân nhà. Vì vậy, việc u đãI cho các nhà thầu trong nớc tại các cuộc đấu thầu quốc tế là rất cần thiết. Nhà nớc đã ban hành quyết định u đãi nhà thầu trong nớc trong đấu thầu cạnh tranh quốc tế song thực tế nhà thầu trong nớc vẫn cha đợc hởng đợc gì nhiều từ những quyết định này. Theo em, nhà nớc cần có những biện pháp cụ thể nh: - Yêu cầu các bên mời thầu phải công bố các khoản u đãi với các nhà thầu trong nớc, bên mời thầu không đợc tuỳ tiện đa ra những yêu cầu tiêu chuẩn về mời thầu hay xét thầu nhằm làm hạn chế khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu trong nớc. - Tăng cờng sự quản lý của nhà nớc trong công tác đấu thầu quốc tế đối với các DA vay vốn nớc ngoài bằng các qui định rõ ràng, điều hành thực hiện qui định một cách sát sao với phơng châm hạn chế tối đa chảy vốn ra nớc ngoài. - Với những công trình xây lắp. nếu xét thấy khả năng của các nhà thầu xây lắp trong nớc có thể đảm nhận đợc thì không tổ chức đấu thầu quốc tế nhằm tạo cơ hội cho các nhà thầu trong nớc trúng thầu. - Chia gói thầu hợp lý phù hợp với năng lực cạnh tranh của các nhà thầu trong nớc. - Cần sớm ban hành những văn bản hớng dẫn việc thực hiện u tiên cho các nhà thầu trong nớc trong đấu thầu cạnh tranh quốc tế một cách cụ thể rõ ràng. - Không chấp nhận việc thành lập công ty 100% vốn nớc ngoài về xây lắp. - Cần có các chính sách cấm nhập khẩu các thiết bị thi công xây lắp đã lạc hậu, hoặc các thiết bị mà trong nớc có khả năng đáp ứng. - Trong điều kiện các tổ chức nớc ngoài cho vay vốn đặt điều kiện kèm theo là phải lựa chọn nhà thầu của phía họ thì cơ quan chủ trì đàm phán của bên Việt nam trớc khi kí kết điều ớc quốc tế, hiệp định viện trợ hoặc vay vốn nớc ngoài, phải có điều kiện ràng buộc, để các doanh nghiệp trong nớc không bị thua thiệt khi tham gia đấu thầu các DA đó. - Sớm xây dựng một tiêu chuẩn năng lực nhà thầu. Hiện nay các nớc ASEAN đang đề xuất phải tiến tới công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực dịch vụ xây dựng. Nếu không xây dựng tiêu chuẩn năng lực nhà thầu thì khi thực hiện lộ trình đã cam kết với ASEAN sẽ không có cơ hội pháp lý để yêu cầu họ, khi họ tham gia vào thị trờng xây dựng Việt nam và các nhà thầu Việt nam không biết đợc xác định theo tiêu chuẩn năng lực nào để tham gia dịch vụ vào nớc khác. - Hiệp hội nhà thầu xây dựng Việt nam cần phát huy u thế của mình trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà thầu thành viên, vơn lên làm đầy đủ chức năng của một Hiệp hội nghề nghiệp nh các đồng nghiệp quốc tế. - Nhà nớc cần có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách hỗ trợ đầu t, hỗ trợ về tài chính trong đó có hỗ trợ bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng... - Phát triển nguồn nhân lực cho các ngành xây dựng thông qua các biện pháp đào tạo nh: Thành lập một trung tâm quốc tế đào tạo, nâng cao trình độ các kỹ s xây dựng. ở đó cập nhật và phổ biến kiến thức, kỹ năng chuyên môn, kiến thức kỹ năng về quản lý DA và các vấn đề về tài chính. Thiết lập một hệ thống chứng chỉ chuyên môn cho kỹ s xây dựng. Hỗ trợ việc thành lập hiệp hội các kỹ s xây dựng, tăng cờng các trờng dạy nghề. Hỗ trợ cho các trờng này để cải thiện chơng trình giảng dạy và phơng pháp đào tạo. - Nhà nớc tạo điều kiện cho các nhà thầu trong nớc nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của họ song các nhà thầu trong nớc phải tự thân vận động. Bản thân các nhà thầu mới là ngời quyết định chính tới khả năng tranh thầu của họ, thắng hay không thắng tuỳ thuộc rất nhiều vào mỗi bản thân của nhà thầu. II.VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP: Để nâng cao khả năng thắng thầu các DA có đấu thầu cạnh tranh quốc tế, các nhà thầu cần có những giải pháp mang tính lâu dài và những giải pháp mang tính trớc mắt. Sau đây tôi xin trình bày một số giải pháp: -Doanh nghiệp nên tăng cờng đào tạo bồi dỡng nâng cao trình độ, kiến thức hiểu biết về kinh tế, tàI chính pháp luật trong nớc và quốc tế, ngoại giao bảo hiểm và khả năng về ngoại ngữ, tin học cho các CBCNV trong doanh nghiệp. Đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ phụ trách về lập hồ sơ dự thầu, hợp đồng kinh tế, đơn giá cũng nh đội ngũ quản lý DA để nâng cao chất lợng hồ sơ dự thầu, khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Con ngời là gốc rễ của mọi sự thành công và sự thắng lợi hay thất bại trong tranh thầu của doanh nghiệp, do đó mục tiêu chất lợng đội ngũ lao động trong doanh nghiệp xây lắp phải đợc đặc biệt quan tâm chú trọng. Chính bản thân con ngời là nhân tố quyết định đến chất lợng công trình, đến khả năng hoàn thành tiến độ công trình cũng nh mĩ quan của công trình, nó ảnh hởng rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trờng xây dựng. Đầu t vào máy móc thiết bị xây dựng nhằm nâng cao năng lực sản xuất, kỹ thuật, chất lợng công trình và đẩy mạnh tiến độ thi công. Khi tham gia đấu thầu doanh nghiệp xây lắp phải trình bày năng lực máy móc thiết bị của mình để chủ đầu t đánh giá và giao thầu, do đó nếu doanh nghiệp có máy móc thiết bị đồng bộ, kỹ thuật hiện đại thì khả năng thắng thầu càng cao, có nhiều cơ hội trúng thầu. Hơn nữa, chủ đầu t ngày một đòi hỏi yêu cầu cao về chất lợng của công trình, đây là chỉ tiêu đợc quan tâm hàng đầu khi xét thầu do đó để thắng thầu không còn cách nào khác là doanh nghiệp phải đầu t, nâng cấp máy móc thiết bị. Các doanh nghiệp nên hình thành bộ phận làm Marketing và bộ phận chuẩn bị hồ sơ dự thầu để xây dựng chiến lợc tranh thầu có chất lợng. Bộ phận Marketing sẽ giúp ích rất nhiều cho việc chuẩn bị tài liệu , hồ sơ cho quá trình dự thầu, tạo mối quan hệ với chủ đầu t, xây dựng đợc hồ sơ dự thầu sát với thực tế, phù hợp với năng lực của doanh nghiệp và phù hợp với giá cả của thị trờng, có đợc những thông tin cần thiết cho quá trình đàm phán, thơng thảo để ký kết hợp đồng giao nhận thầu khi trúng thầu. Hoạt động Marketing sẽ giúp cho DN xây lắp xây dựng đợc chiến lợc phát triển phù hợp với năng lực hiện có, xây dựng đợc chiến lợc tranh thầu có chất lợng. Bộ phận Marketing sẽ giúp cho DN thu thập đợc đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin về đấu thầu giảm bớt đợc thời gian chi phí để có đợc hồ sơ mời thầu. Thông qua Marketing, DN sẽ xây dựng đợc uy tín của mình trên thị trờng, làm cho chủ đầu t hiểu mình hơn, tạo đợc niềm tin của khách hàng khi giao công trình cho mình. -DN nên xây dựng phơng pháp xác định xác suất trúng thầu đối với từng công trình, đánh giá khả năng thắng thầu nhằm loại bỏ những công trình chắc chắn không thể trúng thầu và xác định phơng án cạnh tranh của công ty. Bởi vì khi tham gia dự thầu DN đứng trớc hai khả năng, một là trúng thầu, hai là DN không trúng thầu. Nếu DN trúng thầu thì DN sẽ có thể thu đợc một khoản lợi nhuận, nếu DN trợt gói thầu thì đồng nghĩa với những chi phí cho dự thầu là mất không. Khi tham dự một gói thầu, thông thờng DN phải tập trung rất nhiều nguồn lực: nhân lực, thiết bị và chất xám. Để lập đợc hồ sơ dự thầu thì doanh nghiệp phảI bỏ ra hàng chục triệu đồng và có thể hơn thế nữa tuỳ thuộc vào từng gói thầu do đó DN có thể áp dụng các phơng pháp sau: +Lý thuyết xác suất xác định kì vọng (E) để quyết định cho dự thầu hay không (đã trình bày ở phần lý luận chung). + Phơng pháp dùng chỉ tiêu tổng hợp để ra quyết định tranh thầu: - Bớc 1: Xác định danh mục các chỉ tiêu ảnh hởng đến khả năng thắng thầu. - Bớc 2: Xây dựng thang điểm. - Bớc 3: Xác định tầm quan trọng của từng chỉ tiêu (xác định trọng số). - Bớc 4: Tính toán chỉ tiêu tổng hợp cho gói thầu cụ thể. - Bớc 5: Đánh giá khả năng thắng thầu và ra quyết định. + Lý thuyết xác suất để xác định khả năng thắng thầu đối với các đối thủ cạnh tranh. + Lý thuyết xác suất và rủi ro để tính toán phơng án dự thầu xây lắp. Đây là những phơng pháp lợng hóa giúp DN xây lắp có khả năng thắng thầu. Tuy nhiên để tránh bỏ lỡ cơ hội hoặc gây thiệt hại do đa ra quyết định sai, DN xây lắp cần phảI có bộ phận thu thập, thống kê, phân tích và đánh giá thông tin để đảm bảo độ tin cậy của thông tin, dự đoán chính xác xác suất và phân tích cẩn thận trạng thái của chỉ tiêu. - Các nhà thầu xây lắp cần hoàn thiện công tác tính giá dự thầu, linh hoạt trong lựa chọn mức giá dự thầu để tăng khả năng cạnh tranh về giá và nâng cao khả năng thắng thầu. - Tăng cờng hơn nữa công tác quản trị chất lợng để đảm bảo chất lợng công trình luôn luôn làm thoả mãn chủ đầu t, đảm bảo uy tín cho doanh nghiệp. Một trong những nguyên tắc quản trị chất lợng là nguyên tắc làm đúng ngay từ đầu để ngăn chặn sai sót, tránh sự lãng phí và đảm bảo nâng cao chất lợng của công trình. Tăng cờng công tác kiểm tra chất lợng từ khi thi công đến khi nghiệm thu và bàn giao cho chủ đầu t có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu thầu của doanh nghiệp xây lắp. - Bố trí sắp xếp và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ công nhân của DN để khai thác một cách có hiệu quả nhất năng lực, trí tuệ và sức lực của mỗi thành viên. - Tăng cờng khă năng tài chính cho doanh nghiệp. Nhà thầu xây lắp trong nớc có thể huy động vốn bằng các cách sau đây: * Mở rộng lĩnh vực hoạt động của đơn vị nhằm tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của đơn vị, từ đó khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng dần tăng lên. * Đẩy mạnh khả năng tạo vốn bằng cách thi công dứt điểm từng hạng mục công trình, công trình, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và sớm bàn giao công trình đồng thời nhanh chóng thanh lý hợp đồng. Nh vậy sẽ tăng nhanh khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp, rút ngắn chu kì sản xuất kinh doanh. * Tranh thủ sự giúp đỡ về vốn từ phía nhà nớc và cơ quan tài chính thông qua những khoản vay u đãi hoặc bảo lãnh tài chính. Mặt khác có thể tranh thủ nguồn vốn nhàn rỗi của CBCNV trong doanh nghiệp với lãi suất thấp. * Mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính, ngân hàng nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức này trong việc vay mợn vốn hoặc đứng ra bảo lãnh cho nhằm khai thác tối đa nguồn vốn tín dụng để tăng cờng tiềm lực tài chính cho DN. Trên đây là những giải pháp mang tính cơ bản nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của các nhà thầu trong nớc, tuỳ từng nhà thầu, từng gói thầu mà có những biện pháp phù hợp. Ngoài sự cố gắng nỗ lực từ phía nhà thầu thì nhà nớc cũng cần tham gia để giúp đỡ nhà thầu trong nớc, tạo điều kiện cho nhà thầu thắng thầu. Tuy nhiên dù nhà thầu trong nớc hay ngoài nớc thì hai mục tiêu quan trọng cần đợc đảm bảo là: một là đấu thầu phải công bằng, hai là chất lợng của công trình phải đảm bảo. Không thể vì một lý do nào mà quên hai tiêu chí quan trọng trên. KẾT LUẬN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu môn đấu thầu, em thấy đấu thầu là hoạt động tơng đối mới mẻ với thị trờng xây dựng Việt nam. Trớc thực trạng các nhà thầu nớc ngoài liên tục thắng thầu các gói thầu xây lắp ngay trên đất nớc mình, em không khỏi suy nghĩ. Em quyết định chọn đề án : “Nâng cao khả năng thắng thầu của các nhà thầu trong nớc (doanh nghiệp nhà nớc) trong đấu thầu xây lắp quốc tế”. Đề án mới chỉ đa ra thực trạng đấu thầu xây lắp quốc tế tại Việt nam trong thời gian qua, qua đó nhận xét về tình hình hoạt động của nhà thầu xây lắp trong nớc, từ đó đề ra những giải pháp cho các nhà thầu cũng nh từ phía nhà nớc để góp phần thúc đẩy, đa các nhà thầu trong nớc có thể làm nhà thầu chính các công trình xây lắp trong nớc và xa hơn nữa là thị trờng xây dựng ngoài nớc. Tuy đã có nhiều cố gắng song thời gian học tập, nghiên cứu về lĩnh vực này cha nhiều, kinh nghiệm thực tiễn cũng cha có nên đề án không tránh khỏi nhiều khiếm khuyết. Kính mong các thầy cô giáo cùng các bạn góp ý để đề án môn học đợc hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Thạc sĩ Trần ThịMai Hơng, giảng viên thuộc bộ môn Kinh tế Đầu t, trờng ĐH KTQD-HN đã giúp đỡ em hoàn thiện đề án này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTiểu luận- Nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu trong nước (Doanh nghiệp nhà nước) trong đấu thầu xây lắp quốc tế.pdf