Tài liệu Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam: BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC BẢO HIỂM
“ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM ”
---o0o---
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM VIỆT NAM
1.1. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM.
1.1.1. Những khó khăn của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Theo các chuyên gia tài chính, do năng lực tài chính yếu kém (chưa kể sự hạn chế về chuyên môn và kinh nghiệm của một bộ phận nhân sự ở các DNBH) nên phần lớn DNBH Việt Nam còn lệ thuộc quá nhiều vào hoạt động tái BH. Điều đó thể hiện rất rõ trong nhiều khâu như đánh giá và quản lý rủi ro, tính phí BH, thiết kế sản phẩm, tổ chức kênh phân phối, giám định và bồi thường tổn thất...
Không những vậy, giữa các DNBH, hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đã và đang diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau như: giảm phí BH tới mức không được phép, mở rộng điều khoản BH không đúng quy tắc và trả hoa hồng trực tiếp cho khách hàng, dùng áp lực để lôi kéo và ép khách hàng tham gia BH.
Về phía khách hàng, hiện tượng trục lợi ...
28 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC BẢO HIỂM
“ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM ”
---o0o---
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM VIỆT NAM
1.1. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM.
1.1.1. Những khó khăn của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Theo các chuyên gia tài chính, do năng lực tài chính yếu kém (chưa kể sự hạn chế về chuyên môn và kinh nghiệm của một bộ phận nhân sự ở các DNBH) nên phần lớn DNBH Việt Nam còn lệ thuộc quá nhiều vào hoạt động tái BH. Điều đó thể hiện rất rõ trong nhiều khâu như đánh giá và quản lý rủi ro, tính phí BH, thiết kế sản phẩm, tổ chức kênh phân phối, giám định và bồi thường tổn thất...
Không những vậy, giữa các DNBH, hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đã và đang diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau như: giảm phí BH tới mức không được phép, mở rộng điều khoản BH không đúng quy tắc và trả hoa hồng trực tiếp cho khách hàng, dùng áp lực để lôi kéo và ép khách hàng tham gia BH.
Về phía khách hàng, hiện tượng trục lợi BH đang ngày càng tăng, phổ biến là các trường hợp khai báo sai sự thật, giả mạo hồ sơ, giấy tờ, thậm chí tự gây thương tích để đòi tiền BH.
Khi những nhược điểm trên chưa được khắc phục thì ngành BH lại tiếp tục lao đao do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Thực trạng giảm sút đáng kể các hoạt động xuất khẩu của nước ta (nhất là vào các thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU) đã khiến doanh thu phí BH của nghiệp vụ BH hàng hóa vận chuyển, BH thân tàu và BH trách nhiệm dân sự của chủ tàu sụt giảm mạnh.
Trong khi đó, hiệu quả huy động vốn đầu tư xã hội, vốn FDI và vốn ODA có dấu hiệu chững lại, nhiều dự án đã bị hoãn lại… đã ảnh hưởng khá nhiều đến khả năng khai thác tăng doanh thu phí của các DNBH phi nhân thọ.
Không những vậy, kinh tế suy giảm đã làm cho thu nhập của người dân giảm đi và hệ lụy tất yếu là “khan” khách hàng ở những nghiệp vụ BH du lịch, tai nạn, trợ cấp nằm viện phẫu thuật...; bên cạnh số khách hàng hủy hợp đồng cũng tăng lên. Thị trường tài chính-tiền tệ phập phù cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận đầu tư của các DNBH…
1.1.2. Đối mới để phát triển.
Để tồn tại và tiếp tục phát triển, Tổng Giám đốc BH Bảo Việt Trần Trọng Phúc cho rằng, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, thay đổi tư duy quản trị, nâng cấp trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, là những ưu tiên hàng đầu của DNBH. Các DNBH trong nước cần tăng cường sự hợp tác, liên kết để phát huy hơn nữa những điểm mạnh về thương hiệu, mạng lưới kinh doanh và sự am hiểu khách hàng…
Còn theo Tổng Thư ký Hiệp hội BH Việt Nam Phùng Đắc Lộc, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cụ thể là Luật Kinh doanh BH, cho phù hợp với cam kết WTO, tạo lập các cơ sở pháp lý mới để hỗ trợ DNBH triển khai các loại hình sản phẩm mới. Đồng thời phải có những chính sách linh hoạt, mềm dẻo trước diễn biến của cuộc khủng hoảng và sự tác động của nó đến thị trường BH.
Các chuyên gia tài chính cũng khuyến cáo các cơ quan chức năng cần theo dõi chặt chẽ diễn biến của thị trường tài chính và BH thế giới để giúp các DNBH Việt Nam có thể đưa ra những quyết sách đúng và kịp thời liên quan đến hoạt động tái BH và hoạt động đầu tư tài chính. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh BH và các hoạt động tài chính liên quan để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng bất thường cũng như kiên quyết xử lý các trường hợp chiếm dụng vốn và trục lợi BH.
Hiệp hội BH Việt Nam cũng phải chủ động nắm bắt thông tin liên quan, đưa ra những khuyến cáo kịp thời đối với các DNBH và cơ quan quản lý Nhà nước để hoạt động BH phát triển lành mạnh hơn.
Công ty Korea Life Việt Nam vừa triển khai dịch vụ “Nhắn tin liền. Bảo hiểm ngay!” và trở thành công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng tiện ích nhắn tin qua điện thoại di động.
Với dịch vụ này, ngay sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và khoản phí bảo hiểm đầu tiên từ khách hàng, đại lý bảo hiểm sẽ gửi tin nhắn về tổng đài dịch vụ của công ty. Toàn bộ chi tiết tin nhắn, thời gian gửi tin và người gửi sẽ được dùng làm căn cứ để xác định thời điểm hiệu lực của bảo hiểm tạm thời nên sẽ đảm bảo tính khách quan trong việc bồi thường.(Ng.Quang).
1.2. BẢO HIỂM VIỆT NAM CÓ NHIỀU TIỀM NĂNG CẦN KHAI THÁC.
Năm 2006, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có bước phát triển khá hơn so với năm 2005. Số lượng công ty bảo hiểm tăng lên 37 doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường đạt 1,82% GDP, tăng trưởng 14% so với năm 2005. Đây là dấu hiệu tốt, cho thấy thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Về giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam: đối với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính, Vụ Bảo hiểm, cần phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Chính sách về bảo hiểm phải rõ ràng, minh bạch, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ngoài ra, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ để cùng nhau nắm bắt thông tin. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát, cưỡng chế của cơ quan quản lý đối với hoạt động bảo hiểm. Cần phối hợp với Hiệp hội Bảo hiểm thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực.
Hiệp hội cần nhạy bén, nhanh nhạy hơn và đề ra những quy tắc cho hoạt động bảo hiểm. Đối với khối doanh nghiệp bảo hiểm, vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh. Trên thị trường bảo hiểm đã có một số doanh nghiệp vốn lớn, song cũng có những doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực tài chính thấp. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có kế hoạch tăng năng lực tài chính dưới mọi hình thức, kể cả liên doanh, liên kết. Có khá nhiều điều cần phải tăng cường hơn nữa trong thời gian tới như: kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro, giám sát tính độc lập của hội đồng quản trị, cổ đông thiểu số, công bố thông tin, công khai, minh bạch tài chính kế toán.
Để mở rộng và phát triển thị trường bảo hiểm, bản thân các doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm, xem xét phát triển thêm các kênh bán hàng khác bên cạnh kênh truyền thống là đại lý, nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới như bancassurance, bảo hiểm liên kết đầu tư. Vừa qua, nhiều doanh nghiệp đã thành lập công ty quản lý quỹ nhằm quản lý phần vốn nhàn rỗi từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ để đầu tư vào thị trường chứng khoán, coi đây là cơ hội tốt để sử dụng vốn hiệu quả.
Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn những rủi ro, nên cũng cũng cần xem xét kỹ hơn. Về vấn đề con người, các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ của cán bộ. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, vấn đề quan trọng nhất là quản lý dòng tiền, nên cần phải có các chuyên gia về tính phí và phát triển đội ngũ chuyên gia này. Còn doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, điều quan tâm nhất là vấn đề trong sạch; trong quản lý kế toán tài chính thì vấn đề chi trả bồi thường, hoa hồng cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động bảo hiểm là cực kỳ quan trọng. Hiện nay, việc đầu tư cho công nghệ thông tin của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa được đồng đều.
Mục tiêu doanh thu phí bảo hiểm đạt 4% GDP vào năm 2010 tuy khó nhưng vẫn có khả năng đạt được. Điều này cho thấy thị trường bảo hiểm có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp khai thác, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập. Về cung trên thị trường bảo hiểm, doanh nghiệp cần có thêm những sản phẩm mới. Cơ quan quản lý sẽ không can thiệp sâu vào việc quản lý các sản phẩm của doanh nghiệp, mà sẽ có cơ chế cho doanh nghiệp đăng ký sản phẩm. Còn chất lượng sản phẩm thế nào thì phụ thuộc vào chính doanh nghiệp. Về cầu thì phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của người dân, nhận thức của người dân.
Để phát triển thị trường bảo hiểm, vấn đề cốt lõi là thể chế phải rõ ràng, không chỉ ở văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kinh doanh bảo hiểm mà còn ở các văn bản liên quan, sự ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước. Chính phủ đã ban hành Nghị định 45 và 46 liên quan đến vấn đề này, sắp tới Bộ Tài chính sẽ tiếp tục ban hành các thông tư hướng dẫn.
1.3. NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT NAM.
1.3.1. Trên con đường phát triển.
Kể từ năm 1993, thời điểm Việt Nam bắt đầu mở cửa thị trường bảo hiểm cho đến hết năm 2006, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có một bước tiến rất dài.
Từ chỗ chỉ có duy nhất Bảo Việt, đến nay, trên thị trường Việt Nam đã có hơn 30 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động ở tất cả các lĩnh vực bao gồm bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Đây là một sự phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, với chính sách mở cửa khác nhau nên thị trường bảo hiểm Việt Nam được phân chia khá chênh lệch. Ở lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, do Việt Nam chưa mở cửa nên các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chiếm đến 95% thị phần, trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài chiếm đến 62,5% thị phần bảo hiểm nhân thọ.
Với hơn 800 sản phẩm các loại, nguồn thu chủ yếu của ngành là từ phí bảo hiểm. Mức tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm của ngành từ 1993 đến 2004 là 38%/năm. Đóng góp của doanh thu phí bảo hiểm vào GDP cũng có tăng trưởng đáng kể. Từ 0,37% năm 1993 tăng lên 2,13% vào cuối năm 2006. Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm cho các tổ chức kinh tế và dân cư từ năm 2000 - 2005 đạt trên 12.300 tỉ đồng.
Dù có tăng trưởng cao, nhưng tỉ lệ đóng góp phí bảo hiểm vào GDP của Việt Nam như vậy là khá nhỏ nếu so sánh với các nước trong khu vực.
Một vấn đề khác cần quan tâm là cho dù thị trường phát triển nhanh nhưng không cân xứng giữa các công ty, giữa các thành phần kinh tế. Mức độ tập trung thị trường cao nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, có hiện tượng độc quyền nhóm trong một số doanh nghiệp bảo hiểm chuyên sâu các ngành dầu khí, xăng dầu, bưu chính viễn thông. Qui mô vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hạn chế. Phương thức cạnh tranh vẫn chủ yếu là giảm phí và khai thác thị trường thông qua các mối quan hệ.
Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, vừa bảo vệ nền kinh tế trước những rủi ro thiên tai, tai nạn, sự cố bất ngờ, vừa là kênh thu hút nguồn vốn trung và dài hạn đầu tư trở lại để phát triển kinh tế.
Các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc kinh doanh bảo hiểm còn được phép đầu tư từ vốn chủ sở hữu và quỹ dự phòng nghiệp vụ vào các lĩnh vực: trái phiếu, cổ phiếu, liên doanh, bất động sản và cho vay. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang tính đặc thù, có nhạy cảm cao và thuộc loại kinh doanh có điều kiện. Việc cấp phép hoạt động cho một doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hoặc nước ngoài hoạt động tại thị trường bảo hiểm Việt Nam phải luôn coi trọng kiểm soát năng lực tài chính, mức độ an toàn về tài chính và năng lực chuyên môn. Tuy vậy, quá trình mở cửa của thị trường bảo hiểm không vì thế mà phải kiểm soát chặt chẽ khắt khe. Ngược lại, thời gian qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam được đánh giá là có tốc độ hội nhập nhanh, tăng trưởng cao.
Thị trường bảo hiểm có lộ trình mở cửa nhanh: 16/30 doanh nghiệp có vốn nước ngoài trong đó 9/22 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ và 7/8 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài tại Việt Nam góp phần gián tiếp phát triển FDI, cung cấp thêm nhiều sản phẩm bảo hiểm mới tăng sự lựa chọn cho khách hàng và tăng doanh thu bảo hiểm toàn thị trường. Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện có 30 doanh nghiệp bảo hiểm và tám doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động tạo ra ba phân đoạn thị trường:
Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ và môi giới bảo hiểm, vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt với nhau để phát triển.
Số lượng sản phẩm bảo hiểm ngày càng tăng, có hơn 700 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, hơn 100 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ để khách hàng lựa chọn, phát triển nhanh kênh phân phối sản phẩm (tám công ty môi giới, 100 nghìn đại lý bảo hiểm nhân thọ, 50 nghìn đại lý bảo hiểm phi nhân thọ) tuyên truyền giới thiệu doanh nghiệp bảo hiểm và sản phẩm bảo hiểm, đưa sản phẩm bảo hiểm đến tận tay người tiêu dùng.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm được nâng lên rõ rệt: 90% số doanh nghiệp bảo hiểm có vốn chủ sở hữu cao gấp nhiều lần vốn pháp định. Các quỹ dự phòng nghiệp vụ, tổng tài sản và đầu tư vào nền kinh tế tăng nhanh, luôn bảo đảm khả năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Tạo ra được một số sản phẩm bảo hiểm bắt buộc như bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải thủy nội địa, bảo hiểm bắt buộc cháy nổ, bảo hiểm bắt buộc người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, bảo hiểm bắt buộc xây dựng lắp đặt, bảo hiểm bắt buộc người sử dụng lao động trong hợp đồng xây dựng, bảo hiểm bắt buộc một số ngành nghề đặc thù... của ngành bảo hiểm.
Theo cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm của nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, họ còn được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm, tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc cho đến ngày 1-1-2008, thì bãi bỏ hạn chế này.
Theo cam kết nêu trên có thể hiểu các doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và bảo hiểm nhân thọ không bị hạn chế được đối xử quốc gia (doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được làm gì thì họ được làm cái đó. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài chỉ bị hạn chế sản phẩm bảo hiểm bắt buộc đến 1-1-2008, nhưng thực tế doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hưởng lợi không nhiều vì mới có sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sản phẩm bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy dễ nổ trên đường thủy nội địa. Các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc khác như cháy nổ, người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng - lắp đặt, người sử dụng lao động trong hợp đồng xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo và ban hành, nếu có thực hiện sẽ vào nửa cuối năm 2007.
Ðiều đáng lo ngại nhất là, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không cần thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam cũng có thể vươn cánh tay của mình vào khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết WTO.
Ðể nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập và hợp tác của doanh nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp trong nước cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. Phát triển nhiều sản phẩm mới ngoài những sản phẩm bảo hiểm truyền thống cần tập trung phát triển sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe, y tế chất lượng cao, bảo hiểm trách nhiệm (trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm, trách nhiệm pháp lý...) và các sản phẩm phục vụ phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần tăng thêm sản phẩm liên kết đầu tư, bảo hiểm hưu trí và chăm sóc y tế.
Phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua đại lý và môi giới bảo hiểm cùng với tinh giảm biên chế cán bộ bảo hiểm khai thác trực tiếp. Ðào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách hợp lý để giữ được đội ngũ cán bộ bảo hiểm chuyên nghiệp. Tạo ra nhiều dịch vụ gia tăng ngoài việc được bảo hiểm như được khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế và bác sĩ nổi tiếng theo giá ưu đãi, được sửa chữa xe (không thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm) tại cơ sở uy tín và được giảm giá...
Làm được như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam sẽ chứng minh rằng, việc mua bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được phục vụ tốt hơn, bảo đảm quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Việt Nam. Ðiều này sẽ hướng sự lựa chọn của khách hàng tới các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam.
1.3.2. Hoạt động đầu tư còn nhiều hạn chế.
Đến cuối năm 2006, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP và cũng có tốc độ tăng đáng kể nếu so với năm 2001, con số này chỉ là 1,06% GDP.
Đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Phần còn lại là góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống.
Tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, mới chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm thành lập công ty quản lý quỹ và 2 doanh nghiệp bảo hiểm được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này làm giảm khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện vẫn chưa thể cho vay vốn trực tiếp hoặc mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, cổ phiếu vì thiếu vắng các quy định cụ thể từ các cơ quan chức năng. Do vậy, hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao.
1.3.3. Mục tiêu phấn đấu – con đường còn dài.
Mục tiêu đến năm 2010, con đường còn dài, Có lẽ do chiến lược được lập khi thị trường bảo hiểm đang ở thời điểm hoàng kim, với mức tăng trưởng gần 50% một năm, mọi người đang rất lạc quan nên đã đưa ra mục tiêu “Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002”.
Tuy nhiên, ngay sau đó, ngành bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nhân thọ) bắt đầu rơi vào trạng thái bão hòa, khi mà ba năm gần đây, tốc độ tăng số thu phí bảo hiểm đã chậm lại, với mức bình quân hàng năm chỉ là 16%. Điều này dẫn đến kết quả là cuối năm 2006, doanh thu bảo hiểm chỉ bằng 2,13% GDP, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, bằng 4,07% GDP.
Như vậy, kế hoạch đến năm 2005 đã không đạt. Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, hàng năm, tốc độ tăng trưởng số thu phí của ngành bảo hiểm Việt Nam phải đạt bình quân 41% và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế phải đạt bình quân 42%. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 24% năm thì đến năm 2010, doanh thu bảo hiểm sẽ bằng 3,3% GDP.
1.4. BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP.
1.4.1. Những bất cập mà doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đang gặp.
Ngành bảo hiểm là ngành kinh doanh đặc thù có chu trình tính chi phí ngược, tức thu trước chi phí sau. Bộ Tài chính cũng đã ban hành chế độ hạch toán kế toán riêng cho DN này và đã có nhiều sự thay đổi, nhưng với bối cảnh hội nhập hiện nay thì những thay đổi đó chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt, là những vấn đề liên quan tới doanh nghiệp nước ngoài như: báo cáo kế toán, thưởng thu phí, thưởng không khiếu nại hay giảm phí cho những đối tượng nhiều năm tham gia bảo hiểm…
Ở nước ngoài khi bảo hiểm vài năm mà không có tổn thất thì người ta thường nghĩ tới thưởng cho những doanh nghiệp này, vì họ tạo ra lợi ích, nên họ được phép thưởng. Còn ở Việt Nam hiện nay, theo Thông tư số 155
Thách thức lớn nhất hiện nay chính là công nghệ thông tin. Bởi để phát triển mạnh lĩnh vực bảo hiểm, chúng ta cần phải có một hệ thống công nghệ thông tin hoàn chỉnh phục vụ cho quá trình khai thác và quản lý nội địa.
Nếu có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và hoàn chỉnh, nó sẽ hỗ trợ được rất nhiều cho các DN về mặt thời gian, độ chính xác trong việc tra cứu khách hàng, đối tượng bảo hiểm hay công tác hạch toán kế toán, đặc biệt là khâu bồi thường: các DN không phải đối chiếu, tìm giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy thông báo tai nạn, giấy đăng kiểm... gì cả, mà chỉ cần bật máy ra là có hết. Còn nếu làm thủ công thì mất hàng giờ để soi từng chữ, trong khi máy tính chỉ mất 2-3 phút. Do đó, công nghệ thông tin vẫn là thách thức lớn nhất đối với hoạt động dịch vụ bảo hiểm hiện nay.
1.4.2. Môi trường kinh doanh Bảo hiểm Việt Nam hiện nay.
Có thể nói, môi trường kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam có tiềm năng rất lớn và rất nhiều khoản chưa khai thác được, như: toàn bộ thị trường nông nghiệp, nông thôn, thị trường tư nhân… nhà ở và tài sản cá nhân cũng chưa được khai thác hết. Đặc biệt là, toàn bộ công trình của các tổ chức, cơ quan chính quyền địa phương hoạt động bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước đều chưa được khai thác vì chưa có ngân sách cấp để tham gia bảo hiểm, nên khi xảy ra tổn thất vẫn phải sử dụng ngân sách để giải quyết những thiệt hại. Ngoài ra, hàng năm chúng ta thu hút một lượng vốn lớn từ ODA, FDI và vốn đầu tư toàn xã hội… Như vậy, đầu tư càng phát triển thì nhu cầu bảo hiểm càng cao.
Tuy tiềm năng lớn nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Trên thực tế, không phải đơn thuần 27 DN đang kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ cạnh tranh với nhau mà là 350 chi nhánh của các DN bảo hiểm (hoạt động như những công ty con) cạnh tranh với nhau. Chẳng hạn: Các chi nhánh bảo hiểm ở Hà Tây cũ hay Bắc Ninh vươn vào Hà Nội khai thác và ngược lại. Vì nó họat động theo hệ thống công ty mẹ, công ty con, tức là tổng công ty ở Hà Nội thì tôi quan hệ cả với các chi nhánh ở các tỉnh... nên phạm vi hoạt động khá rộng.
1.4.3. Giải pháp.
Mục tiêu trước mắt đối với ngành bảo hiểm Việt Nam là rất nặng nề. Việc duy trì được tốc độ tăng trưởng lên đến 40% một năm là điều khó khăn, tuy nhiên để nâng cao hơn nữa so với tốc độ tăng trưởng trong ba năm qua là điều có thể thực hiện được.
Để làm được việc này, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên tập trung vào các giải pháp phù hợp nhằm tăng doanh thu và nâng cao hiệu quả đầu tư như sau:
Tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp và mở rộng mạng lưới. Hiện nay các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh nước ngoài một phần nhờ sự bảo hộ của Chính phủ, một phần dựa vào mạng lưới khách hàng đã được xây dựng từ trước. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh, khai thác thị trường và các mối quan hệ nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng truyền thống. Đây là một yếu tố quan trọng hỗ trợ các công ty bảo hiểm có thêm nguồn lực để thực hiện các kế hoạch và chiến lược kinh doanh dài hạn để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài có tiềm lực.
Thành lập các tổ chức đầu tư độc lập với hoạt động khai thác để có thể thực hiện đầu tư chuyên nghiệp và hiệu quả từ phí bảo hiểm.
Liên doanh, liên kết với các tổ chức tài chính để có thể có khả năng mạnh hơn với áp lực cạnh tranh khi các công ty bảo hiểm nước ngoài gia nhập thị trường theo lộ trình cam kết của Việt Nam với WTO
Giảm sự bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm bằng cách đưa các doanh nghiệp bảo hiểm lên sàn để vừa gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, vừa dễ huy động vốn, gia tăng khả năng tài chính trong hoạt động
Mười năm năm qua, ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn, giảm áp lực đối với ngân sách nhà nước thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội.
Tuy vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc đóng góp một cách chủ động vào phát triển tài chính, nhưng những hạn chế này sẽ nhanh chóng được gỡ bỏ. Với mục tiêu chiến lược phát triển phù hợp và trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định vai trò trong nền kinh tế.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM
2.1. DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM PHÁT TRIỂN THEO CHIỀU SÂU.
2.1.1. Những yếu tố tác động đến thị trường bảo hiểm.
Năm 2009, cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng tới nền kinh tế - xã hội Việt Nam. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh bị giảm sút về đầu ra tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và xuất khẩu nước ngoài bị thu hẹp. Không ít doanh nghiệp đã phải cắt giảm sản xuất kinh doanh, cắt giảm lao động hoặc cố gắng duy trì lực lượng lao động nhưng không đủ ngày công hàng tháng. Tình hình này ảnh hưởng nhiều tới khả năng tài chính đóng phí bảo hiểm để tham gia bảo hiểm cho tài sản, trách nhiệm, gián đoạn kinh doanh và bảo hiểm cho người lao động.
Các ngành nghề gặp khó khăn trong khi có giá trị tài sản lớn và đóng phí bảo hiểm nhiều bao gồm: các cơ sở đóng tàu, kinh doanh vận tải biển và thủy nội địa, hàng không, than khoáng sản, dầu khí, thép, xi măng. Những khó khăn này đã tác động đến tốc độ tăng trưởng của thị trường bảo hiểm.
Tuy nhiên có thể nhận thấy qua kết quả quý I năm 2009 là một số DNBH thị phần lớn đã củng cố để phát triển, không coi trọng tăng trưởng doanh thu bằng mọi giá mà đi vào chiều sâu, đó là hiệu quả - tăng trưởng bền vững và củng cố để phát triển khi nền kinh tế toàn cầu hồi phục.
Những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến thị trường bảo hiểm Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước trên thế giới bị chững lại, suy thoái và nhiều nước trước đây có tốc độ tăng trưởng khá thì nay đã phải điều chỉnh tốc độ tăng trưởng giảm đi, trong đó có Việt Nam. Đây là vấn đề mấu chốt nhất có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói riêng.
Những tháng cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bùng phát mạnh mẽ, buộc công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới AIG rơi vào nguy cơ mất khả năng thanh toán trầm trọng. Công ty bảo hiểm nhân thọ Ya-ma-mo-to của Nhật Bản không được cứu nguy cho nên đã phải nộp đơn xin phá sản vào ngày 10-10-2008. Ủy ban Giám sát Bảo hiểm và trợ cấp nghề nghiệp của châu Âu thì vẫn đang sát sao theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình thị trường,...
2.1.2. Tốc độ tăng trưởng của thị trường bảo hiểm chậm lại.
Đối với các DN bảo hiểm PNT, nhìn chung các nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn chiếm tỉ trọng cao có tốc độ tăng trưởng chậm lại so với cùng kì 2008. Các doanh nghiệp bảo hiểm có doanh thu cao chiếm thị phần lớn đã có tốc độ tăng trưởng âm so với cùng kì như Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO. Điều này phần nào phản ánh khó khăn của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ giai đoạn đầu năm 2009.
Ở mảng bảo hiểm nhân thọ, các DN đã nỗ lực tuyên truyền, giải thích, trợ giúp khách hàng để tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm. Đặc biệt các doanh nghiệp đưa ra nhiều sản phẩm bảo hiểm với số tiền bảo hiểm tích lũy lớn, bảo tức cao mức độ bảo vệ rủi ro cho người tham gia bảo hiểm tốt hơn nên đã tiếp tục khai thác được nhiều hợp đồng bảo hiểm, tạo ra được doanh thu 2.514 tỉ đồng tăng 7% so với năm 2008. Đây là 1 kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước và thế giới. Rõ ràng sự chuyển hướng về sản phẩm có lớp bảo vệ cao và đa dạng đang tạo ra một hướng đi tích cực đối với thị trường BHNT Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn chung của nền kinh tế đang tác động tới hoạt động chi tiêu của các hộ gia đình.
Thứ nhất, vốn đầu tư xã hội, vốn FDI và vốn ODA đang có dấu hiệu chững lại. Số dự án FDI đăng ký mới trong tháng 10-2008 là 68 dự án, với tổng số vốn là 2,02 tỉ USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu năm. Khả năng giải ngân vốn FDI và vốn ODA trong cả năm 2008 cũng chịu ảnh hưởng đáng kể của cuộc khủng hoảng. Bên cạnh đó, do tình hình lạm phát diễn biến phức tạp nên đã có hơn 1.600 dự án bị hoãn lại hoặc cắt bỏ. Nhiều dự án lớn, do khó khăn về vốn, đã không bảo đảm đúng tiến độ, thời gian hoàn thành dự án bị kéo dài. Thực trạng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng khai thác để tăng doanh thu phí bảo hiểm, đến công tác quản lý rủi ro của các doanh nghiệp bảo hiểm đối với một loạt nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu như: bảo hiểm xây dựng và xây lắp, bảo hiểm thiết bị máy móc, bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh,...
Thứ hai, cuộc khủng hoảng đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu. Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu sang Mỹ - một thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do nhu cầu tiêu dùng tại Mỹ đang trên đà suy giảm mạnh do suy thoái kinh tế, nên trong năm 2008, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang nước này chỉ đạt xấp xỉ 17%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm 2007. Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Việt Nam đã giảm từ 20,7% năm 2007 xuống còn 17,7% năm 2008. Tương tự, vào thị trường EU cũng giảm từ 18% xuống còn 16,5%. Hiện tượng này cũng ảnh hưởng đáng kể đến doanh thu phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đối với các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm tàu thủy và trách nhiệm dân sự của chủ tàu, …
Thứ ba, do hệ lụy của cuộc khủng hoảng mà mức thu nhập thực tế của người dân thế giới nói chung, và người dân Việt Nam nói riêng, đã giảm đi cả về mặt tương đối và tuyệt đối. Từ đó, đã buộc người dân phải thắt chặt chi tiêu. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch là người Việt Nam cũng có xu hướng giảm đi tương đối. Hiện tượng này đã tác động trực tiếp đến nhu cầu tham gia bảo hiểm tai nạn và sức khỏe, bảo hiểm du lịch và các loại hình bảo hiểm nhân thọ nói chung. Ngoài ra, có một lượng đáng kể khách hàng đã tham gia bảo hiểm, nhất là tham gia loại hình bảo hiểm nhân thọ, xin hủy bỏ hợp đồng, do lo ngại về tình trạng lạm phát sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh thu phí bảo hiểm con người của các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động kinh doanh trên thị trường sẽ bị giảm đi, cho dù năm 2008 mới chỉ là sự giảm đi một cách tương đối, chưa đáng kể.
Thứ tư, tuy cuộc khủng hoảng tài chính thế giới chưa ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, song một số tác động gián tiếp của nó là rất đáng kể, như ảnh hưởng đến tỷ giá và lãi suất, đến tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng. Thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu năm đến nay liên tục bị sụt giảm. Chỉ số chứng khoán VN-Index đã có lúc lập đáy mới dưới 300 điểm và đã xuất hiện một số nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Tình trạng này đã gây tâm lý hoang mang không chỉ cho các nhà đầu tư nói chung, mà còn ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp đến kết quả và hiệu quả đầu tư quỹ nhàn rỗi của các doanh nghiệp bảo hiểm. Kéo theo đó, thị trường bất động sản đã bị đóng băng, những doanh nghiệp, những tập đoàn kinh tế mà các doanh nghiệp bảo hiểm đã góp vốn liên doanh với họ làm ăn đang gặp khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận thu được của các nhà bảo hiểm.
Thứ năm, kinh tế toàn cầu đang bị suy giảm đã làm gia tăng phí bảo hiểm ở hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm, như: phí bảo hiểm trách nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp (D&O), phí bảo hiểm lỗi và bỏ sót (E&O), phí bảo hiểm kỹ thuật,... Theo ông Đa-vít Bờ-rét-phót (David Bradford), Phó Chủ tịch tập đoàn Advisen, đã đến lúc có đủ các điều kiện để thị trường bảo hiểm chuyển sang giai đoạn tăng phí. Công ty tái bảo hiểm Munich Re của Đức vừa công bố rằng, họ sẽ áp dụng mức tăng phí bảo hiểm lên hai con số vào năm 2009. Tình hình này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu xếp tái bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Bởi muốn tái bảo hiểm đi, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam buộc phải tăng phí bảo hiểm gốc, mà điều này thì vô cùng khó khăn khi khủng hoảng tài chính đang có xu hướng diễn biến phức tạp.
Ngoài ra, theo một quy luật chung trong lĩnh vực bảo hiểm, khi nền kinh tế bị suy thoái, bị khủng hoảng, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn ngày càng khó khăn, thì hiện tượng khiếu nại đòi bồi thường và hiện tượng trục lợi bảo hiểm lại diễn ra phổ biến và rất phức tạp. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng không phải là những trường hợp ngoại lệ.
2.1.3. Doanh nghiệp bảo hiểm trong bối cảnh hiện nay.
Có thể nói việc khai thác bảo hiểm năm 2009 - 2010 khó khăn nhất từ trước đến nay. Do đó một mặt, các DNBH phải chung tay cùng tháo gỡ khó khăn với các cơ sở sản xuất kinh doanh, làm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hiểu rõ việc tham gia bảo hiểm gắn liền với sự sống còn của họ vì rủi ro sẵn sàng ập đến bất cứ lúc nào. Nếu rủi ro xảy ra, các cơ sở sản xuất kinh doanh đã khó khăn rồi sẽ càng trở nên khó khăn thêm, thậm chí có thể đi đến bờ vực phá sản. Vậy làm sao để các cơ sở sản xuất có thể tham gia bảo hiểm cho những rủi ro thiên tai, tai nạn, thảm họa đang rình rập? Trước mắt, các DNBH phải nghiên cứu đưa ra những sản phẩm bảo hiểm cho những rủi ro tất yếu hay xảy ra hoặc đã xảy ra gây tổn thất lớn cho cơ sở sản xuất kinh doanh làm sao để mức phí phù hợp với khả năng tài chính hiện có của cơ sở. Hoặc thay vì thời hạn bảo hiểm là 1 năm thì có thể chia ra làm nhiều kỳ nộp phí hay nhiều hợp đồng bảo hiểm ngắn hạn liên tục có thời gian dưới 1 năm.
Thứ hai là các DNBH cần rà soát, cắt giảm các chi phí không cần thiết, xây dựng các định mức chi phí hợp lý cho từng sản phẩm bảo hiểm, cho từng chi nhánh đơn vị thành viên; xem xét những chi phí khuyến mại, quảng cáo, hỗ trợ đại lý không mang lại hiệu quả; xây dựng cơ chế trả lương, hoa hồng đại lý gắn với hiệu quả kinh doanh của từng đơn vị.
2.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỨC CẠNH TRANH CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP.
2.2.1. Đánh giá kết quả hoạt động của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
2.2.1.1. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau 10 năm hoạt động đã đạt được một số thành tựu sau:
- Góp phần duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế - xã hội.
- Phạm vi, quy mô thị trường bảo hiểm được mở rộng.
- Thị trường bảo hiểm đã từng bước hội nhập quốc tế.
- Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm được nâng cao.
2.2.1.2. Bên cạnh đó, thị trường Bảo hiểm Việt Nam vẫn còn một số tồn tại như:
- Quy mô của thị trường bảo hiểm còn nhỏ.
- Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế - xã hội còn hạn chế.
- Hoạt động tái bảo hiểm còn dựa vào chế độ bắt buộc.
- Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm còn thấp.
- Môi trường cạnh tranh chưa lành mạnh.
- Hoạt động môi giới chưa phát triển, chất lượng đại lý bảo hiểm chưa cao.
- Văn bản pháp quy còn thiếu và chưa đồng bộ (Luật Cạnh tranh chưa được ban hành)
2.2.2. Tình hình đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ Nhà nước.
Ngành kinh doanh bảo hiểm không giống như các ngành sản xuất kinh doanh khác. Khi một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm tiến hành thu phí trước của khách hàng. Sau đó - bằng sự cam kết của mình thông qua hợp đồng bảo hiểm, các công ty sẽ thực hiện trách nhiệm đối với khách hàng. Chính vì lẽ ấy, người ta còn gọi kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Nói cách khác, cùng với hoạt động kinh doanh các công ty bảo hiểm luôn phải quản lý một nguồn vốn lớn và ổn định.
Đây là nguồn gốc hình thành nguồn vốn nhàn rỗi, hay còn gọi là các quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Pháp luật cho phép các công ty bảo hiểm được sử dụng nguồn quỹ dự phòng này để đầu tư. Việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm vừa là quyền lợi, cũng đồng thời là trách nhiệm của các công ty bảo hiểm.
Theo xu hướng, kết quả kinh doanh của công ty bảo hiểm không phải là lợi nhuận do hoạt động này mang lại, mà chủ yếu là do kết quả của hoạt động đầu tư tài chính. Trong tình hình kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt, công ty nào sử dụng đồng vốn có hiệu quả và đạt được mức sinh lời cao nhất sẽ có ảnh hướng tích cực đến kết quả hoạt động kinh doanh của toàn công ty.
Kết quả này đảm bảo cho công ty có lợi nhuận để trích đủ các quỹ dự phòng nghiệp vụ và dự trữ tài chính theo quy định của luật pháp, ổn định thu nhập của cán bộ nhân viên.
Khi nghiên cứu các số liệu về tình hình đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, ta thấy một số thực trạng sau:
- Về cơ cấu và xu hướng đầu tư
+ Đầu tư dưới hình thức gửi tiền còn chiếm tỷ lệ cao.
+Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư ngắn hạn trong tổng vốn đầu tư cao.
- Về quy mô đầu tư:
Quy mô đầu tư của các DNBH còn nhỏ.
- Về hiệu quả đầu tư:
Hiệu quả đầu tư còn khiêm tốn do các DNBH đầu tư chủ yếu dưới hình thức gián tiếp là gửi tiền ngân hàng.
- Về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư : Nhìn chung các doanh nghiệp bảo hiểm:
+Chưa chuyên môn hóa cao trong đầu tư
+Chưa đánh giá đúng vai trò to lớn của công tác đầu tư trong bảo hiểm .
Bốn thực trạng trên có mối quan hệ với nhau. Do quy mô đầu tư còn nhỏ, trình độ chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư chưa cao dẫn đến các doanh nghiệp tập trung đầu tư bằng hình thức gián tiếp là gửi tiền vào ngân hàng để có độ an toàn cao. Từ đó dẫn đến hiệu quả đầu tư vốn thấp.
2.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam.
Muốn đạt được mức lợi nhuận cao nhất các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả huy động và đầu tư vốn của mình trên các lĩnh vực:
- Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ bên ngoài.
- Nâng cao hiệu quả huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn.
Tất cả những giải pháp áp dụng phải tác động được vào ít nhất một trong 3 lĩnh vực trên.
Chúng ta đề cập những giải pháp ở tầm vĩ mô và giải pháp đối với doanh nghiệp.
a). Nhóm 1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô.
- Về cơ chế chính sách
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, hành lang môi trường pháp lý.
+ Cần sớm nghiên cứu và ban hành Luật cạnh tranh để hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị.
+ Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm.
+ Phát triển mạng lưới bảo hiểm chuyên nghiệp, môi giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ thông tin
+ Thực hiện ưu đãi thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm.
+ Phát hành thêm các trái phiếu chính phủ.
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
+ Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
+ Kiện toàn bộ máy tổ chức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
+ Sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hiện có.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, kể cả thị trường khu vực và quốc tế.
b). Nhóm 2: Các giải pháp đối với doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm 2 lĩnh vực :
Lĩnh vực 1: Nâng cao hiệu quả huy động vốn
- Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ bên ngoài
+ Nâng cao năng lực thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm:
Doanh nghiệp phải phát huy được mọi tiềm năng, huy động được cao nhất mọi đối tượng tham gia bảo hiểm nhằm nâng cao doanh thu-cơ sở cho nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp, Nhà nước và các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp nâng cao được năng lực kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. Giải pháp đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp là nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
+ Đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm:
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới, đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm phục vụ chương trình phát triển nông, lâm, ngư nghiệp. Phấn đấu trong tương lai gần mỗi hộ gia đình trong cả nước ít nhất phải tham gia một loại sản phẩm bảo hiểm. Tiến đến mỗi cá nhân ở các thành phố lớn ít nhất phải chọn được cho mình một loại sản phẩm bảo hiểm. Còn các tổ chức, các doanh nghiệp thì xem bảo hiểm là một công tác không thể thiếu được khi lập kế hoạch hàng năm cho mình.
+ Sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước:
Hiện tại có 3 doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước hoạt động trên thị trường. Tuy mỗi doanh nghiệp đều có thế mạnh riêng, nhưng trong kinh doanh các doanh nghiệp này còn cạnh tranh không lành mạnh lẫn nhau, làm suy yếu lẫn nhau thông qua việc hạ phí bảo hiểm, tăng chi hoa hồng và các khoản chi phí khác.
Vì vậy các doanh nghiệp đều cùng tốn chi phí cho cùng một dịch vụ. Để các doanh nghiệp nhà nước mạnh cần phải có sự sắp xếp lại, nâng cao sức mạnh và hạn chế những chi phí cạnh tranh không cần thiết.
+ Kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm:
Tăng cường tuyên truyền quảng cáo, thực hiện ở cả hai cấp độ. Về phía Nhà nước, các cơ quan quản lý bảo hiểm, Hiệp hội bảo hiểm và doanh nghiệp .
Phát triển các kênh phân phối (môi giới và đại lý chuyên nghiệp)
- Nâng cao hiệu quả huy động vốn trong doanh nghiệp
+ Biện pháp giảm số dư nhàn rỗi:
Doanh nghiệp nên khuyến khích các thành viên chuyển tiền về công ty để đầu tư như: Chấn chỉnh việc chấp hành quy chế tài chính về quản lý số dư; Kiểm tra, đôn đốc thường xuyên việc thanh quyết toán ấn chỉ của đại lý.
+ Quản lý nợ phí bảo hiểm hiệu quả hơn bằng biện pháp: Thành lập Ban quản lý công nợ của công ty
+ Phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống NH thông qua các lĩnh vực : Sử dụng dịch vụ thu tiền hộ của hệ thống ngân hang; Khuyến khích thanh toán qua ngân hang; Sử dụng dịch vụ chuyển tiền tự động của ngân hàng.
- Quản lý tốt tình hình luân chuyển vốn lưu động, bằng cách:
+ Lập kế hoạch sử dụng các ấn chỉ hợp lý.
+ Giảm thiểu các loại vật tư, hàng hoá tồn kho.
Lĩnh vực 2: Nâng cao hiệu quả công tác đầu lư
- Doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp:
Vì một chiến lược đầu tư đúng đắn sẽ có tác dụng làm tăng khả năng mang lại lợi nhuận của đồng người được bảo hiểm, nâng cao phúc lợi trong xã hội.
- Về biện pháp nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư:
+ Doanh nghiệp chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, am hiểu về thị trường tài chính và đầu tư tài chính.
+ Mỗi công ty bảo hiểm nên thành lập một công ty đầu tư để nâng cao vai trò, trách nhiệm của công tác đầu tư
- Về đa dạng hóa hình thức đầu tư.
+ Giải pháp trước mắt: doanh nghiệp nên ưu tiên cho hình thức đầu tư hiện có nhiều ưu điểm về độ an toàn, tính thanh khoản và hiệu suất sinh lời là gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
+ Chuẩn bị cho tương lai: Các chuyên viên thực hiện công tác đầu tư phải tích cực tìm hiểu môi trường đầu tư cũng như tích lũy những kiến thức về đầu tư kinh doanh trên các lĩnh vực, nhất là kinh doanh trên thị trường chứng khoán ngay từ bây giờ .
-Áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ công nghệ: Nhất là công nghệ thông tin trong lĩnh vực đầu tư, trên cơ sở thực hiện chiến lược đầu tư phát triển công nghệ của toàn hệ thống.
Tóm lại, mục tiêu quan trọng nhất để thành công trong việc cạnh tranh của một công ty là phải làm tăng được giá trị của công ty trên thị trường. Một công ty có nguồn vốn dồi dào, các quỹ dự trữ được trích đầy đủ và đều đặn hàng năm, doanh số và hiệu quả ngày càng phát triển đó là mục tiêu chung của tất cả các công ty. Đây cũng là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của một quốc gia, đảm bảo cho nền kinh tế của quốc gia đó có nhiều lợi thế cạnh tranh trênthị trường, nhất là trong tình hình hội nhập hiện nay và sắp tới. Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam không thể tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi một nước. Việc hội nhập là một tất yếu khách quan. Dĩ nhiên trong quá trình đó bên cạnh nhiều cơ hội mở ra, Việt Nam phải chuẩn bị tinh thần để sẵn sàng đương đầu với các khó khăn, thách thức mới. Để có đủ khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước phải đổi mới và hoàn thiện nhiều lĩnh vực. Một trong những lĩnh vực được coi là tiên quyết là củng cố và tăng cường năng lực tài chính. Do đó chúng ta phải xác định vị thế. Vai trò của các công ty bảo hiểm Việt Nam - các công ty mà sự hoạt động của nó giữ một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Để xác lập được vị thế này, chúng ta phải có một nguồn tài chính mạnh, một trình độ sử dụng vốn khoa học, hiệu quả. Có nhiều biện pháp để làm tăng giá trị của công ty, một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng chúng ta không thể bỏ qua việc nghiên cứu huy động tối đa và đầu tư có hiệu quả nhất nguồn vốn huy động được.
3.1. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM.
3.1.1. Mục tiêu.
Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế.
3.1.2. Một số chỉ tiêu chủ yếu.
- Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010.
Đến năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002.
- Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. Nộp ngân sách nhà nước giai đoạn 2003 - 2010 tăng bình quân 20%/năm.
3.1.3. Những giải pháp chủ yếu.
3.1.3.1. Về cơ chế chính sách.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động kinh doanh bảo hiểm để thị trường phát triển lành mạnh, an toàn, phù hợp với yêu cầu hội nhập; bảo đảm tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn; khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu triển khai các sản phẩm bảo hiểm nông, lâm, ngư nghiệp; chú trọng mở rộng phạm vi hoạt động đến các vùng sâu, vùng xa.
- Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác. Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào lĩnh vực môi giới bảo hiểm.
- Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý quỹ theo qui định của pháp luật. Các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng phí bảo hiểm thu được để đầu tư tại Việt Nam được áp dụng các cơ chế, chính sách về đầu tư như các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước.
- Nhà nước có cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp bảo hiểm tự bổ sung vốn điều lệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ theo các chuẩn mực quốc tế, được thuê chuyên gia trong nước và ngoài nước để quản lý một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
3.1.3.2. Về tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp.
- Sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hiện có, bảo đảm nâng cao năng lực kinh doanh, phát triển các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng thị phần, thị trường. Các thành phần kinh tế không thuộc kinh tế nhà nước có đủ các điều kiện theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, được thành lập công ty cổ phần bảo hiểm.Các doanh nghiệp nhà nước không được sử dụng vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp bảo hiểm mới và góp vốn thành lập công ty cổ phần bảo hiểm mang tính chuyên ngành.
- Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng nội dung, phạm vi hoạt động, tăng vốn điều lệ, nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Việc cấp phép thành lập cho các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị trường, lộ trình hội nhập và các cam kết quốc tế. Chú trọng đến các công ty bảo hiểm thuộc các nước có quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam, các công ty có năng lực tài chính, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm và có đóng góp vào sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.
- Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, kể cả ở thị trường bảo hiểm quốc tế và khu vực, tham gia góp vốn vào các công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm đang hoạt động thành công ở nước ngoài và thành lập các công ty con kinh doanh bảo hiểm ở nước ngoài.
3.1.3.3. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước.
- Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tiến dần tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý bảo hiểm quốc tế. Nhà nước giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật, không can thiệp hành chính vào hoạt động của các doanh nghiệp.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam để Hiệp hội thực hiện được vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp bảo hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
- Giao Bộ trưởng Bộ Tài chính chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm từ năm 2003 đến năm 2010 đã được phê duyệt.
- Các Bộ liên quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện các phương án sắp xếp lại những doanh nghiệp bảo hiểm trực thuộc theo các quy định pháp luật hiện hành và Chiến lược đã được phê duyệt.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
KẾT LUẬN
Sau hơn 2 năm gia nhập WTO, thị trường bảo hiểm ở nước ta đã có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, các sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng, chất lượng bảo hiểm cũng được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn hoàn thiện để tồn tại và phát triển.
Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp bảo hiểm cần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, thay đổi tư duy quản trị, nâng cấp trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho phù hợp với cam kết WTO, triển khai nhiều loại hình sản phẩm mới. Đồng thời phải có những chính sách linh hoạt, mềm dẻo trước diễn biến của cuộc khủng hoảng và sự tác động của nó đến thị trường bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành kinh tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí; Nhà máy xi măng Chinfon, Nhà máy điện Phú Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà xưởng, văn phòng… Hoạt động đầu tư của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn cho xã hội.
Các công ty bảo hiểm Việt Nam đang tích cực hợp tác, giúp đỡ nhau cùng có lợi. Các công ty bảo hiểm đã có được bản đồng thoả thuận về khai thác bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Đặc biệt, sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đại diện cho các doanh nghiệp cũng thể hiện những bước tiến tích cực của bảo hiểm ViệtNam.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của ngành bảo hiểm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phatthaobaohiem_4027.doc