Tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung: MỞ ĐẦU
Năm 1954, Miền Bắc giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc chiến tranh chống Pháp bằng trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Ngay sau khi giành thắng lợi, Nhân dân miền Bắc đã hăng hái bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi nhân dân miền Nam vẫn đang nằm dưới sự cai trị của đế quốc Mỹ. Lúc này, miền Bắc đã trở thành hậu phương lớn của miền Nam, cung cấp sức người, sức của cho miền Nam. Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập chung đã tỏ ra khá hiệu quả trong thời gian này, huy động dược một khối lượng lớn của cải vật chất cung cấp cho miền Nam trong suốt thời gian đánh Mỹ. Nhưng khi cả nước dã giành được độc lập thì cơ chế kinh tế này hầu như không còn phát huy được hiệu quả nữa, không những vậy, nó còn gây cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Bên cạnh đó thì nhiều nước tư bản chủ nghĩa với việc sử dụng nền kinh tế thi trường đẫ thu dược những thành quả to lớn.
Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung sang cơ c...
25 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 2526 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Năm 1954, Miền Bắc giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc chiến tranh chống Pháp bằng trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Ngay sau khi giành thắng lợi, Nhân dân miền Bắc đã hăng hái bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi nhân dân miền Nam vẫn đang nằm dưới sự cai trị của đế quốc Mỹ. Lúc này, miền Bắc đã trở thành hậu phương lớn của miền Nam, cung cấp sức người, sức của cho miền Nam. Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập chung đã tỏ ra khá hiệu quả trong thời gian này, huy động dược một khối lượng lớn của cải vật chất cung cấp cho miền Nam trong suốt thời gian đánh Mỹ. Nhưng khi cả nước dã giành được độc lập thì cơ chế kinh tế này hầu như không còn phát huy được hiệu quả nữa, không những vậy, nó còn gây cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Bên cạnh đó thì nhiều nước tư bản chủ nghĩa với việc sử dụng nền kinh tế thi trường đẫ thu dược những thành quả to lớn.
Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung sang cơ chế thi trường trên cơ sở vận dụng những cái chung của một nền kinh tế thi trường vào tình hình cụ thể của nước ta. Bước đầu, chúng ta thấy sự chuyển đổi này là hoàn toàn đúng đắn, nền kinh tế của chúng ta đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng, đời sống của người dân ngày một cao hơn, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ. Mặc dù bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều những bất cập và những hạn chế do kinh tế thi trường mang lại nhưng không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng cuả nó trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với bài tiểu luận này, trên cơ sở vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa các phạm trù cái riêng, cái chung làm lý luận, em muốn nói lên một chút hiểu biết về kinh tế thi trường, những ưu điểm cũng như một số hạn chế của nó, vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế Việt Nam, từng bước đưa Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
I. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
1. Khái niệm cái chung và cái riêng.
a) Cái riêng: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật , một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ trong thế giới khách quan. Chẳng hạn như một quá trình kinh tế hay một con người...
Sự tồn tại cá biệt của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở các cấu trúc sự vật khác. Hay nói khác đi là nó có tính độc lập tương đối so với hệ thống khác.Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất không phải là một sự vật hay một hiện tượng tồn tai độc lập như cái riêng mà là một đặc chưng của cái riêng.
b) Cái chung: Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ, tồn tại không chỉ ở một sự vật mà trong nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau.
Chẳng hạn như ta xét bốn cái riêng là bốn bạn :bạn A, bạn B, bạn C, bạn D, nếu xét trong mối quan hệ riêng lẻ thì đó là bốn cái riêng tồn tại độc lập. Nếu xét về mặt tính cách, cả bốn người có đặc điểm là đều chăm chỉ, ngoan ngoãn thì đó lại là cái chung của bốn người. Như vậy cái chung là cái có tính lặp lại. Tính chất này cho phép nhìn thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật chất khác nhau.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Người theo phái duy thực cho rằng, cái chung tồn tại độc lập không phu thuộc vào cái riêng, chỉ có cái riêng là tồn tại phụ thuộc vào cái chung , do cái chung sinh ra. Trái lại, người theo phái duy danh như Đunxcốt(1265-11308), P.Apơla (1079-1142) cho rằng cái chung không tồn tại hiện thực, mà chỉ có cái riêng là tồn tại hiện thực; cái chung chỉ tồn tại trong nhận thức, trong ý thức, nó chỉ là tên gọi của cái riêng mà thôi .
Cả hai quan điểm trên đều có những hạn chế. Chỉ có chủ nghĩa duy vật biện chứng mới giải quyết một cách có khoa học mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Phép biện chứng cho rằng: cái chung và cái riêng đều tồn tại một cách khách quan và giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Không thể có cái chung nếu không có cái riêng cũng như không thể có cái riêng nếu không có cái chung. Bất cứ sự vật nào cũng là sự thống nhất của cái chung và cái riêng. Đồng thời mỗi sự vật lai như một đặc thù. Phạm trù cái đặc thù là khâu trung gian giữa cái chung và cái riêng. Điều đó nói lên bản thân cái đặc thù là tương đói, nó là cái chung nếu xét trong mối quan hệ dẫn đến cái riêng và là cái riêng nếu xét trong mối quan hệ dẫn đến cái chung. Song cũng có những hiện tượng không thể là cái đặc thù, chẳng hạn như vật chất, vận động. Đó là những cái chung nhất , phổ biến nhất. Những cái chung nhất, phổ biến nhất được phản ánh trong những khái niệm rộng nhất mà sự trừu tượng của con người hiện nay chưa thể đi xa hơn.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng được thể hiện như sau:
+) Trong hiện thực khách quan không có cái riêng nào, cái đơn nhất nào là tuyệt đối độc lập, tách rời cái chung, cái phổ biến. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ dẫn đến cái chung. Không có cái riêng cô lập tuyệt đối, bất kỳ cái riêng nào cũng vừa liên hệ với cái riêng khác, vừa liên hệ với cái chung. Sự liên hệ trên mới nhìn mang tính chất song trùng nhưng thực chất chỉ là một vì xét đến cùng cái chung chỉ là sản phẩm được rút ra từ sự khái quát hoá những phẩm chất của những cái riêng cùng loai mà thôi.
Chẳng hạn khi khảo sát hiện tượng khủng hoảng kimh tế ở một nứoc nhất định, chúng ta có thể thấy được những đường nét riêng như : những hoàn cảnh địa lý đặc thù, tình trạng kinh tế của nước đó khi mới bắt đầu khủng hoảng, các quan hệ chính tri- xã hội khác nhau...Đây là những yếu tố riêng biệt. Nhưng đằng sau tất cả những cái riêng đó là những cái chung mang tính quy luật của quá trình khủng hoảng kinh tế như tính chu kỳ, hiện tượng thất nghiệp...Hay đơn giản hơn ta xét ví dụ : khi tìm mười bạn học sinh để đi dự thi học sinh giỏi môn toán cấp tỉnh của trường A, đầu tiên ta đi tìm mười bạn học sinh-đó là mười cái riêng. Nhưng mười cái riêng đó đều phải có một đặc điểm chung đó là học giỏi môn toán.
Nắm vững nguyên lý cái riêng không tách rời cái chung có ý nghĩa to lớn. Trong thực tiễn công tác nếu tuyệt đối hoá cái riêng, cường điệu hoá những đặc điểm riêng của ngành mình trong khi chấp hành chính sách chủ trương chung của Trung Ương, của cấp trên thì sẽ dẫn đến sai lầm nghiêm trọng.
+) Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng , thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập ở đâu đó. Cái chung chỉ tồn tại trong từng cái riêng. Điều đó có nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. Cái chung nhất cũng không tồn tại độc lập mà thông qua cái riêng. Ví dụ như một thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động, vận động bao giờ cũng tồn tại dưới một hình thức nhất định, thông qua những hình thức đặc thù riêng như vận động vật lý, vận động hoá học, vận động xã hội...
Nếu như không thể tách rời cái riêng khỏi cái chung, không thể tuyệt đối hoá cái riêng thì cũng không thể tách cái chung ra khỏi cái riêng, không thể tuyệt đối hoá cái chung, cái phổ biến.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện, lợi ích kinh tế phải được thể hiện qua lợi ích của các thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau, đối lập nhau. Vì vậy phải làm thế nào để vừa bảo đảm lợi ích chung của toàn dân, vừa không rơi vào tình trạng triệt tiêu mọi lợi ích chính đáng của từng công dân.
+) C ái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ.
Thật vậy cái chung chiếm giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật.Còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể hoàn chỉnh và sống động. Cái riêng tồn tai trong sự va chạm với cái riêng khác, sự va chạm này vừa làm cho sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, với tư cách là cái bộ phận- tồn tại trong cái chung; vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái đơn nhất không lặp lại trong các sự vật khác. Cái chung tồn tại trong cái riêng, chỉ là một bộ phận , một bản chất của cái riêng.
Do đó cái riêng phong phú hơn cái chung, ngựơc lại, cái chung (bản chất) sâu sắc hơn cái riêng. Cái chung sâu sắc hơn là vì nó phản ánh mối liên hệ bên trong; quy định hướng tồn tai và phát tr iển của sự vật, hiện tượng. Song cái chung lại không đầy đủ vì nó chỉ là một bộ phận, một mặt của cái riêng; nó không bao quát hết mà chỉ bao quát một cách đại khái những sự vật riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái riêng nó còn có những cái riêng biệt mà chỉ riêng nó mới có.
Ví dụ : giai cấp công nhân Việt Nam trước những năm 1930 ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới như là giai cấp không có trong tay tư liệu sản xuất, bị bóc lột sức lao động, sống tập chung nên dễ dàng hơn trong vấn đề truyền bá tư tưởng, ..., còn có những đặc điểm riêng như : lực lượng nhỏ, có mối liên hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân do phần lớn đều xuất phát từ nông dân...
Như vậy cái riêng , cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng làm phong phú và sâu sắc hơn cho cái riêng.
Không hiểu ý nghĩa đầy đủ của cái chung, sẽ dẫn đến chỗ xem nhẹ, hoặc phủ nhận vai trò của tư duy trừu tượng, của lý luận, trong thực tiễn sẽ sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh sự vụ, hoặc có thể dẫn đến chủ nghĩa xét lại.
Những người giáo điều sai lầm ở chỗ họ chỉ chú ý đến cái chung, cái phổ biiến trong một hiện tượng. Họ không hiểu rằng cái riêng phong phú hơn cái chung, cái chung tồn tại qua cái riêng. Họ nắm cái chung như những giáo điều trừu tượng , tách biệt cái riêng cụ thể sinh động. Họ không hiểu rằng khi đã nắm được cái chung thì phải dùng nó làm nền tảng để nghiên cứu, xuy xét cái riêng.
Cái chung và cái riêng không cố định mà chuyển hoá lẫn nhau. Trong những điều kiện nhất định thì cái riêng trở thành cái chung và ngược lại . Chẳng hạn một loài sinh vật nào đó đã quen vvới một kiểu trao đổi chất nhất định, nay rơi vào những điều kiện không bình thường đối với nó thì một số những biến dị sẽ xuất hiện trong một số cá thể của loái sinh vật ấy. Những biến dị nào thích ứng được với hoàn cảnh mới sẽ được bảo tồn và phát triển , tăng cường trong cấc thé hệ sau. Như vậy từ cái riêng nó đã được chuyển hoá thành cái chung cho cả một loài. Trong khi đó một số thuộc tính được coi là những thói quen cũ thì nay do không thích ứng được vơí hoàn cảnh mới , nay đã mất dần đi, từ cái chung đã chuyển hoá thành cái riêng.
Trong xã hội , cái mới được xuất hiện như những hiện tượng riêng. Nhưng theo quy luật nó sẽ phát triển thành cái chung. Trong bquá trình sản xuất của người nông dân, một người nào đó đã tìm ra được một cấch thâm canh một loài cây nào đó đem lai sự phát trieern tốt và hiệu quả cao. Kiến thức này sẽ nhanh cháng được truyền đạt lậi cho bà con, ban đầu là bà con trong xã, rồi đến huyện, tỉnh...
+) Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau. Đây là sự chuyển hoá của các mặt đối lập trong một sự vật. Sự chuyển hoá này phản ánh quá trình vận động đa dạng của vật chất.
Quá trình chuyển hoá từ cái đơn nhất thánh cái chung thể hiện quá trình phát triển biện chứng của sự vật. Ngược lại, sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất chỉ ra sự thoái bộ của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của chúng. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp của nhà nước ta hiện nay cho ta một dẫn chúng. Sự tồn tại phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước từ trước đến nay (vốn được xem là một căn bản của kinh tế xã hội chủ nghĩa ) đang dần được thay thế bởi các công ty (hình thành từ các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp). Hình thức mới này có sức hấp dẫn hơn so với doanh nghiệp. Sự tồn tại đơn nhất của nó dần dần phát triển thành phổ biến và trở thành nét chung của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
II Vận dụng cơ sở lý luận cái riêng- cái chung vào nền kinh tế thi trường.
2.1Khái niệm Kinh tế thi trường thị trường
Trong lịch sư phát triển của xã hội loài người, sản xuất hàng hoá ra đời từ lâu, từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã. Nó tồn tại và phát triển trong xã hội nông nô, trong xã hội phong kiến và đạt đỉnh cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Sản xuất hàng hoá là gì? Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra để bán : bán ở đâu - bán trên thị trường. Vậy thị trường là cái tất yếu là hợp phần bắt buộc của sản xuất hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra sự chuyển nhượng, sư trao đổi, sự mua bán hàng hoá
Điều quan trọng để hiểu được thực chất của thị trường là ở chỗ thị trường không chỉ đơn thuần là lĩnh vực trao đổi, di chuyển hàng hoá, dịch vụ từ người sản xuất sang người tiêu dùng, mà là trao đổi được tổ chức theo các quy luật của lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong đời sống kinh tế, chúng ta gặp nhiều loại thị trường khác nhau.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trưòng ( người bán cần tiền , người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường ).
Kinh tế thị trường là cách thức tổ chức trong đó các quan hệ của các cá nhân, doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào sự tìm kiếm lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá; các yếu tố của sản xuất như đất đai, tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn bằng vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua bán, đều là hàng hoá.
Cơ chế thị trường: Có thể hiểu cơ chế thi trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai.
Các bộ phận hợp thành cơ chế thi trường:
+Giá cả thị trường: Giá cả thị trường là thứ giá cả hình thành trên thị trường do sự tác động của các lực thị trường. Trên mỗi thị trường mỗi hàng hoá, dịch vụ đều có một giá cả nhất định và toàn bộ giá đó hợp thầnh giá cả thị trường.
+Cầu hàng hoá : Cầu hàng hoà là số lượng hàng hoá mà người mua muốn mua ở một mức giá nhất định. Như vậy cầu hàng hoá phụ thuộc vào các yếu tố như mong muốn mua, có khả năng mua, và mức giá.
+Cung hàng hoá : Cung hàng hoá là lượng hoá mà mà người bán muốn bán theo một mức giá nhất định. Như cầu hàng hoá để có cung hàng hoá cần các điều kiện: mong muốn sẩn xuất, có khả năng sản xuất và mức giá.
Khi cung và cầu trên thị trường bằng nhau thì giá cả hàng hoá là giá cả bình quân. Nhưng trên thực tế thì cầu luôn luôn biến đổi nên cung bằng cầu rất ít sảy ra. Giá cả thi trường chủ yếu do tương quan giữa cung và cầu trên thị trường quyết định.
Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường có những đặc trưng sau :
- Tự do ( tự do trong mọi lĩnh vực của đời sống:tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do giao dịch thương mại,tự do hành nghề,tự do học hành...) có thể nói trong nền kinh tế thị trường mọi cá nhân được làm việc theo sở thích và có thể phát huy hết khả năng của bản thân.
- Mỗi chủ thể kinh tế theo đuổi lợi ích của chính mình trong hoạt động kinh doanh .
mỗi chủ thể khi tham gia sản xuất kinh doanh đều phải tìm hiểu về sản phẩm của mình về thị trường và tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm của mình trên thị trường để tồn tại và thu được lợi nhuận có thể.
- Khách hàng là thượng đế.
Trong nền kinh tế thị trường có thể có nhiều công ty cùng sản xuất một loại sản phẩm và bày bán trên thị trường.Khách hàng được tự do lựa chọn một thưong hiệu sản phẩm nào đó mà theo họ là tốt nhất hoặc phù hợp với túi tiền nhất. Sự mua bán hàng hoá diễn ra tự do theo sự thoả thuận của hai bên .
- Sản xuất và bán hàng hoá theo nhu cầu của thị trường.
Các nhà sản xuất luôn luôn phải thăm dò thị trường để tìm hiểu xem mặt hàng nào bán chạy ,mặt hàng nào là đang cần thiết, mặt hàng nào đang dư thừa để có chiến lược sản xuất thích hợp ,tránh tình trạng hàng hoá tồn kho
- Cạnh tranh .
Các công ty , các hãng sản xuất luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã để cạnh tranh cùng các sản phẩm của các công ty khác.
Cạnh tranh trên thị trường gốm có các loại:
+ Cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau theo các hướng hướng giá cả, chất lượng, dịach vụ trước, trong và sau khi mua bán hàng hoá.
+ Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
+Cạnh tranh giữa một bên là người bàn và một bên là người mua.
- Tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế .
2.2. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, đảm bảo có năng suất, có chất lượng và hiệu quả, dư thừa và phong phú hàng hoá, dịch vụ mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động và luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ, thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó nền kinh tế thị trường còn tồn tại rất nhiều hạn chế, khuyết tật :
+Chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
+Đặt lên hàng đầu là lợi nhuận: Cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên không giải quyết được cái gọi là hàng hoá công cộng ( đường xá, các công trình văn hoá, y tế, giáo dục....)
+Phân hoá giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều. Một bộ phận nhỏ của xã hội chiếm giữ phần lớn của cải của xã hội. Từ sự phân hoá giàu nghèo dẫn đến các bất công xã hội, xung đột xã hội và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Do tính tự phát vốn có , Kinh tế thị trường có thể dẫn đến không chỉ tiến bộ mà cả suy thoái, khủng hoảng , xung đột xã hội... Cho nên rất cần sự can thiệp của nhà nước.
Sự can thiệp của nhà nước bảo đảm cho sự vận động của thị trường ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế; bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế; sửa chữa , khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô, trong khi không vi phạm bản chất và các cơ chế tự điều chỉnh ở tầm vi mô. Bằng cách đó, nhà nước đã kìm hãm được sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng nền kinh tế thị trường, đồng thời nền kinh tế thị trường với tất cả những tiềm năng kích thích vốn có của nó đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hoá- tiền tệ được thực hiện một cách tự do.
Với ý nghĩa đó chúng ta nói rằng nền kinh tế thị trường cần có sự quản lý, điều tiết của nhà nước.
Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thi trường.
a) Đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoật động kinh tế. Về nhiều mặt chức năng này vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lang pháp luật cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thi trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp.
b) Điều tiết kinh tế để cho kinh tế thi trường phát triển ổn định .
c) Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thi trường là những tác động mà các nhà kinh tế gọi đó là những tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp có thể vì lợi ích của mình mà đã lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người... Một nguyên nhân khác dẫn đến hoạt động kém hiệu quả của hoạt động thi trường là các tổ chức độc quyền . Các tổ chức độc quyền có thể không tăng số lượng sản phẩm thậm chí còn giảm xuống mà chỉ tăng giá thành sản phẩm. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đật được hiệu quả cao, nhưnh cạnh tranh làm giảm bớt lợi nhuận độc quyền nên các nhà doanh ngiệp thường cố gắng làm giảm sự cạnh trạnh. Nhà nước có nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ cạnh tranh, chống độc quyền nâng cao hiệu quả của hoạt độgn thị trường.
c) Nhà nước có vai trò sản xuất ra hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội . Sự can thiệp của nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thàng viên khó khăn về kinh tế, nâng cao thu nhập cho nhóm dân cư có thu nhâp thấp.
Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước vừa có cơ chế tự điều chỉnh của thị trường vừa có cơ chế quản lý, điều tiết của nhà nước.
III.Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
3.1. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu của nền kinh tế Viêt Nam
Ngay sau khi thoát khỏi chiến tranh, Đảng và nhà nước ta đã nhanh chóng lãnh đạo nhân dân bắt tay vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước. Dựa theo mô hình kinh tế của Liên Xô, chúng ta đã áp dụng mô hình kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung .
Đặc điểm của cơ chế kế hoạch hoá tập trung:
a) Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện bằng việc chi tiết hoá các nhiệm vụ của Trung Ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm.
b) Các cơ quan hành chính- kinh tế can thiệp quá sâu voà hoật động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lai không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình.
c)Bỏ qua quan hệ hàng hoá , tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm. Quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật ( chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của nhân sách, mà không ràng buộc ngân sách đói với người được cấp phát vốn.
Từ những đặc điểm ấy đã dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị trì trệ, sơ cứng, kìm hãm không phát triển, các cơ sở sản xuất thiếu năng động do không phải chịu trách nhiệm về sự hoạt động kém hiệu quả- phần này do nhà nước gánh chịu .
Trong nông nghiệp cũng rơi vào hậu quả tương tự. Việc đưa nông dân vào các hợp tác xã làm ăn tập thể đã không khuyến khích được sản xuất phát triển do người nông dân dù làm nhiều hay làm ít cũng chỉ được hưởng từng ấy sản phẩm theo sự phân chia của nhà nước, không có sản phẩm dư thừa làm của riêng...
Bên cạnh đó bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian thiếu năng động, từ đó sinh ra một bộ phận các bộ kém năng lực tham gia quản lý nhà nước, không thông thạo nghiệp vụ kinh doanh, phong cách làm việc thì quan liêu cửa quyền...
Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản đã thu được những thành quả lớn về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường quản lý xã hội đã đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người nhạy cảm hơn, tinh tế hơn với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển...
Đứng trước cả những nhân tố khách quan và chủ quan đó, tại Đại hội VI, Đảng đã xác định phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Chủ trương đó của Đảng lại được tiếp tục khẳng định tại Đại hội VII "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, vận hành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" (Văn kiện Đại hội VII. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000. NXB Sự thật , Hà Nội, 1991, trang 23 )
3.2. Nền kinh tế thi trường của Việt Nam là nền kinh tế có sự quản lý và điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
3.2.1.Nền Kinh tế có sự quản lý của nhà nước.
Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ . Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát ,thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ . Như trên đã trình bày, nhà nước có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường.Nó khắc phục những hạn chế và những ,khuyết tật của cơ chế thị trường .Nó tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế và cố gắng làm dịu những giao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình kinh tế, chính sách tài chính ,tiền tệ .Nó đảm bảo cho sự vận động củ thi trường được ổn định, hạn chế tối đa các biến động không đáng có và những lãng phí do chúng gây ra. Nó cũng đảm bảo tối đa các tác động xấu của thi trường đối với xã hội, con người, giảm bớt bất công xã hội và sự phân giàu nghèo quá đáng. Nó đảm bảo sự phát triển của kinh tế theo đúng định hướng chính tri xã hội . Ơ nước ta, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường còn cần có sự quản lý và điều tiết của thi trường còn do sở hữu công cộng đã được xác lập đối với tài nguyên và trong các ngàng then chốt.
Văn kiện Hội nghị đai biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã xác định: " Tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội, tạo môi trưòng kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa và khống chế các hoạt động tự phát, tiêu cực, khắc phục những mặt khiếm khuyết vốn có củ cơ chế thi trường, làm cho thi trường thực sự trở thành công cụ quan trọng trong việc phân bổ và vận dụng có hiệu qủa hơn các nguồn lực, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, bảo đảm quan hệ tích lũa- tiêu dùng, điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đáp ứng yêu cấu tăng trưởng nhanh hơn, ổn định vững chắc hơn, công bằng xã hội nhiều hơn"
3.2.2. Nền kinh tế thị trường của việt nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới
- Theo quan điểm của triết học , bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn đến cái chung . Không nằm ngoài quy luật ấy, Nền kinh tế của việt Nam ngoài những đặc điểm rỉêng có thì nó cũng mang những đặc điểm chung của bất kỳ một nền kinh tế thi trường nào :
- Tuân theo các quy luật cung- cầu , quy luật giá trị thặng dư, quy luật lưu thông hàng hoá, tiền tệ...Nói khác đi nó mang tất cả các đặc diểm của một nền kinh tế thi trường như đã trình bày ở phần (1)
- Các loại thị trường , các mối quan hệ được phát triển đa dạng, thể hiện trình độ cao trong phân công lao động xã hội, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của sản xuất, cạnh tranh là tất yếu…
- Các chủ thể kinh tế tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nên đã phát huy tính tự chủ , độc lập cao . Trong xã hội hình thành một lớp người năng động , nhay biến, có kiến thức , có trí tuệ, dám nghĩ, dám làm, tích cực tham gia Sản xuất, tham gia làm giầu…
- Nền kinh tế cũng phát triển theo xu hướng từ thi trường thấp đến thi trường cao ( Từ thi trường hàng hoá, dịch vụ, đến thi trường vốn, tiền tệ …) ; từ phức tạp đến ổn định…Bởi vì mặc dù kinh tế thị trường là cơ chế điều tiết kinh tế hàng hoá mang lại hiệu quả cao song không phải nó không có những hạn chế. Mỗi nước cụ thể cần có những biện pháp cụ thể để đối phó với tình hình này, và tìm ra những giải pháp mang tính chiến lược hoặc phải chấp nhận nó như một hiện thực khách quan. Thị trường thì có nhiều loại thi trường nhưng với các nước mới bắt tay vào cơ chế kinh tế này thì thị trường chủ yếu, chiếm ưu thế vẫn là thi trường hàng hoá, thị trường tiền tệ cũng được hình thành nhưng chưa phát triển .
- Nền kinh tế thị trường đều dựa trên sự đa dạng về hình thức sở hữu…dẫn đến sự đa dạng về thành phần kinh tế.
- Bên cạnh những mặt tích cực mà nền kinh tế thi trường mang lai bao giờ cũng đi kèm với nó là những khuyết tật không thể tránh khỏi. Đó là việc suy đồi của đạo đức, văn hoá, lối sống; con người sống mang tính cá nhân hơn; các tệ nạn xã hội cũng co điều kiện phát triển hơn…
- Xu thế chung của nền kinh tế thế giới đó là xu thế quốc tế hoá, Do vậy, các nước bên cạnh việc phát triển kinh tế thì phải làm sao cho nền kinh tế của nước mình hôi nhập được vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế của nước ta cũng không nằm ngoài vòng đó.
3.2.3.Tình đặc thù của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Phát triển kinh tế hoá, kinh tế thi trường có vai trò rất quan trọng. Đối với nước ta, muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì không còn con đường nào khác là phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thi trường. Kinh tế hàng hoá khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ- kỹ thuật mới nhằm làm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, đẩy mạnh tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các đia phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động , mỗi đơn vị kinh tế…Vi vậy,phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hoá xã hội chủ nghĩa nền sản xuất.
Với định hướng trên ,mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hoá ,kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là:
-Tạo ra sự phát triển năng động ,hiệu quả cao của nền kinh tế .
- Nâng cao hiệu quả sư dụng các nguồn lực hiện có,tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích luỹ và đầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế , tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao…để đưa nước ta thoát khỏi một nước nghèo và kém phát triển .
Theo mục tiêu đó , có thể xác đặc trưng bản chất của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Một là, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn kém phát triển .Kiểu tổ chức này nhằm nhanh chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu"dân giàu,nước mạnh ,xã hội công bằng văn minh". Hai là ,nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hương xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế gồm nhiều thành phần ,trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác phải trở thành nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo . Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung theo khung khổ pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa.Ba là,nền kinh tế hàng hoá , kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên nhưng nguên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bốn là , nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mở cả về bên trong lẫn bên ngoài. Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế -xã hội, hoạt động của cơ chế thị trường không chịu sự tác động của các quy luật kinh tế hàng hoánói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức sản xuất chủ đạo. Do vậy, mô hình cơ chế thị trương có sư quản lý của nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và trong nền kinh tế định hướng xã hôi chủ nghĩacó những điểm khác nhau cơ bản:
a) Về chế độ sỡ hữu : cơ chế thi trường hoạt động trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế thi trường hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hôi chủ nghĩa lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước.Tính định hướng xã hôi chủ nghĩa đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế có khẳ năng điều tiết, hướng dẫn sự phát triển kinh tế hàng hoá nhỏ và tư bản chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở vi trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực xã hôi cần thiết…mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không có lãi hoặc lãi ít.
b) Về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước. Trong cơ chế thi trường tư bản chủ nghĩa, sự can thiệp của nhà nước luôn mang nặng tính tư sản và trong khuôn khổ cảu chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế xã hội thuận lơi cho sự thống tri của giai cấp tư sản cho sự bóc lột tư bán chủ nghĩa. Trong cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự can thiệp của nhà nước lại nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thự hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
c) Về cơ chế vận hành. Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thi trường định hướng xã hôi chủ nghĩa là sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích xã hội chủ nghĩa theo phương châm nhà nước điều tiết vĩ mô, thi trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt căn bản sau:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
- Cơ chế thi trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế, dóng vai trò "trung gian " giữa nhà nước và doanh nghiệp.
d) Mối quan hệ giữa tăng trưởng phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Trong sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thi trường dã lầm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Song chế độ đó không boa giờ được giải quyết trong xã hội tư bản. Mục đích giải quyết các vấn đề của xã hội của chính phủ tư sản chỉ giối hạn trong khuôn khổ tư bản chủ nghĩa, chỉ được xem là vấn đề để duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế định hướng xã hôi chủ nghĩa, nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hộikhông chỉ là phương tiện để phát triển nền kinh tế hàng hoá mà còn là mục tiêu của chế độ xã hôi mới. Sự thành công của kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn biểu hiện ở mức sống thực tế của mọi tầng lớp nhân dân ( y tế, giáo dục được nâng cao, khoảng cách giàu nghèo được rút ngắn ), đạo đức, truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc dược giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ…
e) Phân phối thu nhập.
Sự thành công của nền kinh tế hàng hoá, định hướng xã hôi chủ nghiadx không dừng lai ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn biểu hiện ở việc không ngừng nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hôi và công bằng, bình đẳng xã hội. Đặc trưng xã hôi trong nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thi trường đị nh hướng xã hôi chủ nghĩa được thể hiện như sau: Một mặt, xác định các mục tiêu hiệu quả cần đạt được như tốc độ tăng GDP/người, các chỉ tiêu về phát triển giáo dục , y tế, việc làm, về xoá đói giảm nghèo, vè văn hoá xã hội, đảm bảo môi trường, môi sinh…Mặt khác nâng cao chức năng xã hôi của nhà nước xã hôi chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa trong các chế độ bảo hiểm xã hội, trong chíng sach phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách đảm bảo xã hội đối với những đối tượng xã hội đặc biệt ( gia đình có công với cách mạng, thương binh, người tàn tật…).
Như vậy, với nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một số điểm nổi bật lên là :
+ Trong kinh tế thi trường định hướng xã hôi chủ nghĩa , việc phát triển kinh tế vẫn dựa trên sự đa dạng về quan hệ Sở hữu tư liệu sản xuất. Nhưng điểm đặc biệt ở đây là quan hệ sở hữu tư nhân không phải là quan hệ kinh tế giữ vai trò then chốt, vai trò then chốt thuộc về thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
+ Vấn đề lợi nhuận và vấn đề xã hội được đặt song song với nhau. Việc kết hợp này vừa đảm bảo cho các chủ thể kinh tế có lợi nhuận cao, vừa tạo ra điều kiện chính trị ổn định cho phát triển kinh tế.
+ Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc phân phối của kinh tế hàng hóa như phân phối theo lao động, phân phối theo tài năng, phân phối theo quỹ phúc lơi xã hội…trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chính.
+ Điều tiết phân phối theo thu nhập, một mặt đòi hỏi nhà nước phải có chính sách giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội, một mặt phải đảm bảo cho thu nhập chính đáng của những người giàu.
3.2.4. Những thắng lợi đầu tiên do kinh tế thi trường mang lại
+Thực tế hơn 10 năm qua đã chứng tỏ quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình đổi mới tất yếu, tiến bộ. Những chuyển biến đó đã thực sự tạo ra những chuyển biến trong nền kinh tế. Bước đầu tình trạng suy thoái dần được khắc phục. Nhờ sự cố gắng của toàn dân mà nền kinh tế của chúng ta không những đã đứng vững được sau những sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu ( giai đoạn 1988-1989 nguồn viện trợ của các nước này lên đến 2 triệu USD/ngày ) mà còn đat được những tiến bộ nổi bật, đạt được tốc độ đổi mới khá liên tục.
+ Tổng sản phẩm quốc dân năm 1994 tăng 8.5% năm, trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%.
+ Kim ngạch xuất khẩu tăng 20.8%.
+ Lạm phát được kiềm chế : Năm 1988, tỷ lệ lạm phát là 400% giảm xuống còn 15% năm 1994 vầ 122.7% năm1995.
+ Bước đầu thu hút được đầu tư của nước ngoài với số vốn đăng ký là 10 tỷ USD.
+ Nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ . Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng. Vốn đầu tư cơ bản của toàn xã hội năm 1990 là 15.8% GDP , năm 19955 là 27.4%. ( trong đó nguồn vốn trong nước chiếm 16.7% GDP ).
+ Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi : Tỷ trọng công nghiệp và xây dựngtrong GDP từ 22.7 % năm 1990 lên đến 30.3% năm 1995. Tương ứng tỷ trong dịch vụ tăng từ 38.6% lên 42.5%.
+Nước ta đã trải qua cảnh khan hiếm thực phẩm trầm trọng, từ năm 1989 đã bắt đầu trở thành nước xuất khẩu gạo. Mỗi năm xuất từ 1-1.5 triệu tấn . 80% nông dân được hưởng lợi từ sự phát triển này nên nó đã góp phần tích cực trong việc ổn định xã hội.
- Song song với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế là quá trình chuyển đồi cơ cấu kinh tế . Cuộc cải cách cơ cấu kinh tế đã mang lai một số thành tựu sau :
a)Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp khá cao so với các khu vực sản xuất khác. Từ năm 1997 đến năm 1992 trứ hai năm 1989-1990, chỉ số này đạt xấp xỉ hơn 10%. Trong giai đoạn 1991- 1995, tốc độ trung bình đạt 13.4%. trong các năm 1989-1990 tốc độ tăng trưởng thâp, thậm chí cfn âm do viên trợ từ các nước Liên Xô và các nước Đông Âu bi sụt giảm mạnh. Do vậy tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm công ngiệp chỉ dạt 6.9%/nẳmtong giai đoạn 1986-1990, thấp hơn mức 9.1% đã đạt được trong thời kỳ trước (1981-1985).
Bảng 3.5 cho thấyvào năm 1992, trong khi sản lượng của khu vực nhà nước và tư nhân tăng rất nhanh ở mức tương ứng là216% và 298% thì sản lượng của khu vực tập thể giảm 52%, còn của khu vực nhà nước đóng tai các địa phương tăng rất chậm ở mức1336%. Đồng thời bảng 3.5 cũng cho thấy vào năm 1995 tốc độ tăng trưởng của công nghiệp Trung Ương là 486.9% đạt trung bình 16.6% cho giai đoạn 1991-1995 trong khi của công nghiệp quốc doanh địa phương chỉ đạt197.4% tức là với nhịp độ11.7%
Năm
Tổng số
DNNNTƯ
DNNN tại DP
HTX
Tư nhân
1986
106,2
105,6
107,1
114,8
93,5
1987
115,8
112,7
121
181,5
112,2
1988
135,5
126,6
145,1
122,7
147,9
1990
133,2
154,6
114,3
62,7
219,6
1991
141,7
178,6
119,1
55,2
250,3
1992
168,9
216,9
136,8
52,9
297,8
1995
251,6
486,9
197,4
na
350,9
Chỉ số tổng sản lượng công nghiệp Việt Nam xếp theo cơ cấu
Ghi chú: Nguồn tổng cục thống kê 1990 trang 30-31
Tỷ trọng sản xuất của khu vực nhà nước và tư nhân tăng mạnh từ 33,8% và 15,6% năm 1986 lên mức tương ứng là 42,5% và 29,2% năm 1992, còn khu vực tập thể giảm từ 22,5% năm 1986 xuống còn 8,5% năm 1992. Như vậy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế chú ý nhiều đến các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân.
b) Trước đây ở Việt Nam có nhiều mặt hàng tiêu dùng bị khan hiếm nhưng giờ lại rất sẵn vì sau năm 1986, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm của các ngành công nghiệp đã tăng mạnh, đặc biệt là các ngành chế biến thực phẩm , điện tử, may mặc…
c) Nhờ xoá bỏ bao cấp doanh nghiệp nhà nước kể từ năm 1989 số tiền tiết kiệm được đầu tư trong nước đã tăng từ 33.3 tỷ đồng năm 1986 lên 2320 tỷ đồng năm 1993, nghĩa là đã tăng hơn 70 lần trong vòng 7 năm, góp phần tăng vốn đầu tư vào khu vực chế tạo và giảm hụt ngân sách.
d) Giảm tỷ giá hối đoái, tự do hoá mậu dịch và biểu thuế quan mới được đưa vào năm 1989 và bộ luật nhập khẩu ban hành tháng 12/1991 và được bổ xung tháng 1/1993 đã góp phần tăng trưởng xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu tăng từ 698.5 triệu USD năm 1985 lên 2475 triệu USD năm 1992 và năm 1995 đạt 5100 triệu USD.
e) Sau những do dự bước đầu, các nhà đầu tư nước ngoài đã mạnh dạn đầu tư vào nước ta. Nếu như trong những năm đầu họ chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khai thác dầu khí và du lịch thì sau năm 1991 lai tập trung vào các ngành công nghiệp.
3.2.5. Một số giải pháp phát triển kinh tế thi trường ở Viêt Nam
1. Thực trạng.
Mặc dù sau những năm thực hiện chính sách kinh tế mới chúng ta đã thu dược rất nhiều thành tựu quan trọng, song nhìn chung chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vẫn là một nước nghèo, kém phát triển, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 70% dân số và việc làm luôn luôn là vấn đề gay khắt. Đời sống của một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nông thôn và miền núi. Cho đến nay, về cơ bản, cơ cấu kinh tế vẫn theo sự phân bố tự nhiên, chưa có các giải pháp có hiệu quả để sớm hình thành các ngành, vùng kinh tế trọng điểm. Cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống giao thông chưa phát triển . Nền kinh tế quốc gia còn bi thất thoát và lãng phi lớn. Ngân sách còn mất can đối giữa thu và chi. Kinh tế quốc doanh chậm đổi mối, kinh tế tư nhân chưa tháo gỡ được các trở ngại cho sự phát triển, mặt khác thiếu hướng dẫn và quản lý. Trong xã hội có sự phân hoa giàu nghèo…
Cho đến nay thi trường nước ta vẫn là thị truờng sơ khai, còn nhiều rối loạn và nhiều yếu tố tự phát (mới chỉ có thi trường hàng hoá, còn thi trường hàng hoá, thị trường tiền tệ , thi trường sức lao động mới chỉ ở dạng manh nha ). Thi trường vốn và thi trường tiền tệ vẫn tách biệt: một bên là tín dụng lãi suất, tỷ giá do nhà nước đặt, một bên là lãi suất tự do, tự phát ngoài vòng kiểm soát của nhà nước.Thị trường sức lao động có phần chưa thoát khỏi chế độ biên chế ,hoặc tự phát .Thị trường thiếu và còn những rối loạn cùng với luật lệ nhà nước vừa thiếu vừa bất hợp lí : còn những gò bó và cả những sơ hở thủ tục hành chính phiền hà, nạn tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi cho thị trường phát triển. Trong khi đó,để đánh giá mức độ phát triển của bất cứ nền kinh tế nào, trước hết,người ta nhìn vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
Kinh tế hàng hoá còn ở trình đo kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng hàng hoá và chủng loai hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá và kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng hàng hoá thấp, khả năng cạnh tranh trên thi trường không cao (Cả trên thi trường trong nước cũng như thi trướng thế giới).
Đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít.Thu nhập của người lao động còn thấp, do đó sức mua hạn chế.
Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hoá bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất; từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế , lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng cao, từ sự kém phát triển của phân công lao động xã hội, của hệ thống kết cấu hạ tầng; từ sự kìm hãm của cơ chế kế hoạch hoá tập chung trong một thời gian kha dài…
2. Để thực hiện mô hình KTTT định hướng XHCN ,cần thưc hiện tốt những điều kiện và những giải pháp sau đây:
a)Tạo lập duy trì và phát triển tự do hoá kinh tế.
Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành ,tồn tại và phát tiển KTTT ở nước ta .Tự do hoá kinh tế là một điều tất yếu để nuôi dưỡng tự do cạnh tranh,tư do kinh doanh và tự chủ,rất cần thiết cho các chủ doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ.
Tương ứng với những điều kiện này các giải pháp cần có là:
-Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế đa dạng hoá về hình thức sở hữu và thanh phần kinh tế. Có chính sách sách và cơ chế xoá bỏ nhanh chóng sự kỳ thị và phân biệt đối sử, thực hiện chính sách đầu tư và tôn vinh vai trò của các doanh nhân trong tất cả các thành phần kinh tế.
- Trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế, tiếp tục xây dựng và phát triển đồng bộ các loạ thi trường. Cụ thể :
+Phát triển đồng bộ giữa thi trường đầu ra (thi trường hàng hoá, thi trường dịch vụ ) với thi trường các yếu tố đầu vào của sản xuất (thi trường máy móc , thiết bị, công nghệ, thi trường vật tư, nguyên nhieen liệu, thi trường sức lao động, thi trường đất dai , thi trường vốn, thi trường khoa học công nghệ…) Chú trọng sự đồng bộ về số lượngvà nhất là về chất lượng trong nội bộ của từng thi trường đầu ra và dầu vào của sản xuất, trong đó lấy thi trường đầu ra để quyết định thị trường đầu vào.
+Thực hiện đồng bộ giữa thi trường trong nước với thi trường nước ngoài, trong đó lấy thi trường trong nước làm cơ sở, thi trường ngoái nước là quan trọng: coi trọng việc phát triển thi trường nông thôn ở nướt ta, một thi trường rộng lớn với gần 80% dân cư sinh sống, nhung sức mua hiệ tại còn thấp, một cản trở lớn đối với việc phát triển công nghiệp và các ngành khác. Trong thời gian tới cần thông qua việc phát triển kinh tế thi trường thực hiệ công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nghiệp nông thôn để tăng sức mua cho thi trường này.
- Tạo dựng môi trường tương đối ổn định và thông thoáng về kinh tế , chính trị để các chủ thể trong nước và nước ngoài yên tâm , phấn khởi đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Môi môi truờng tương đối ổn định về chính tri được hiểu bao gồm :
*Đường lối chính tri đúng đắn và ổn định.
*Đất nước yên bình, không có bạo loạn, tranh giành quyền lực…
*Bộ máy chính phủ tương đối có uy tín đối với các chủ kinh doanh và dân cư. Môi trường kinh tế tương đối ổn định thể hiện trước hết ở chính sách tài chính và chính sách tền tệ. Về chính sách tài chính, ngân sách nhà nước với tư cánh là kênh tài chính lớn nhất phải lành mạnh , không bội chi vượt quá mức Quốc hội cho phép ; có một chính sách thuế thích hợp vừa thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế vừa tăng thu cho ngân sách nhà nước, giảm tình trạng thất thu kinh tế ngầm. Về chính sách tiền tệ và giá cả, phải khống chế và kiểm soát lạm phát, giữ vững tương đối sức mua của tiền tệ, ổn định tương đối giá cả của hàng hoá, dịch vụ trên thi trường làm cho đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Về môi trường xã hôi tương đối ổn định là môi trường mà ở đó moi nhười sống và làm việc theo pháp luật, sống có văn hoá, hoài bão, lành mạnh…
b) Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một nền kinh tế định hướng xã hôi chủ nghĩa được goi là định hình khi nó đạt kinh tế thi trường hỗn hợp hay hiện đại, ngang bằng với trình độ phát triển của các nước có trình độ phát triển. Một nền kinh tế như vậy chỉ có thể dựa trên cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, tương ứng với trình độ nền văn minh có sự giao thoa giữa văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Cơ sở vật chất kỹ thuật đó phải được thực hiện qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và nó chỉ có được khi quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thành công ở nước ta.
c) Tạo dựng hành lang và cơ chế bảo đảm giữ vững định hướng XHCN đối với KTTT.
Nếu trong xây dựng KTTT, định hướng XHCN không được giữ vững thì mục tiêu và sự lựa chọn mô hình không đạt được và nguy cơ đi lệch hướng XHCN là không tránh khỏi. Để giữ vững định hướng XHCN đối với KTTT cần thực hiện các giải pháp sau:
-Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong các ngành, các cấp, hệ thống các trường và các tổ chức kinh tế. Thông qua học tập, giáo dục cho các thành viên của các tổ chức kinh tế về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sự cần thiết phải giữ vững định hướng XHCN đối với KTTT.
- Củng cố và tăng cường hiệu lực của Quốc hội , ban hành các luật pháp còn thiếu, điều chỉnh và bổ sung các luật pháp đã có cho phù hợp cới tình hình thực tiễn ở Việt Nam, đồng thời cũng phải tìm đến sự phù hợp của thông lệ quốc tế, trên cơ sở quyền lực thống nhất, cần tăng cường tính độc lập tương đối và năng lực của các cơ quan tư pháp trong xử lý nghiêm minh và kịp thời đối với các tổ chức kinh tế vi phạm pháp luật.
- Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách đa dạng hoá về sở hữu và thành phần kinh tế, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế nhà nước nắm những khâu, ngành then chốt chủ yếu, tạo thực lực kinh tế để nhà nước điều chỉnh tính tự phát của KTTT, thực sự gương mẫu chấp hành pháp luật, hỗ trợ và dìu dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN.
d)Tạo dựng bộ máy nhà nước vững mạnh.
Tao dựng một đội ngũ cán bộ nhà nước có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đẩy nhanh cải cách hành chính nhà nước và nhanh chóng đưa nó vào cuộc sống.
e) Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế hàng hoá.
f) Bên cạnh việc phát triển kinh tế thi trường chú ý đến việc duy trì và phát triển các truyền thống, văn hoá dân tộc.
g) Chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội :
+Có chính sách tao ra việc làm cho người lao động.
+Các chính sách điều hoà phân phối thu nhập.
+Các chính sách bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Cụ thể hơn:
Trong thời gian này việc đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế là hết sức quan trọng. Tăng cưòng đầu tư và phát triển các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến. Bởi vì những ngành này nhanh chóng mang lại lợi nhuận, vốn đầu tư ít, mặt khác, công nghiệp chế biến cũng rất cần thiết với chúng ta vì chúng ta là nước nông nghiệp, sản phẩm nông phẩm rất nhiều nhưng do chưa có một công nghệ chế biến hiện đại nên hàng bán ra chủ yếu ở dạng sơ chế, giá thành thường thấp hơn các nước khác(cà phê, lúa gạo-thường thấp hơn rất nhiều so với giá bán của Thái Lan). Bên cạnh đó, chúng ta nên tăng cường phát triển cả những ngành sản xuất phi vật chất(dịch vụ) tạo ra một cơ cấu kinh tế có sự tương quan đồng đều giữa các ngành để tận dụng tối ưu tất cả các thế mạnh sẵn có.
Phát triển thi trường cả về bề rộng và bề sâu. Khuyến khích tự do kinh doanh, mở rộng không gian thị trường và phát triển một cách đồng bộ.
Đối với các doanh nghiệp phải, có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế là rất quan trọng, nó kích thích mạnh mẽ tính cạnh tranh năng động vầ hiệu quả. Nhưng trong quan hệ đơn phương các doanh ngiệp này thường bị chèn ép, thua thiệt. Rất nhiều các tổ chức chính phủ và phi chính phủ đặc biệt là các hiệp hội nghề nghiệp của nhiều nước đã đề ra những chương trình hỗ trợ to lớn. Điển hình là các nước Đức, Nhật, Canađa. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, cần làm cho các doanh ngiệp này thực sự độc lập, thực sự hoạch toán kinh doanh theo cơ chế thi trường. Đối với các doanh làm ăn thua lỗ trong thời gian dài thì có thể cho giải thể nếu như không cần thiết. Tiếp tục cổ phần hoá một số doanh nghiệp. chú ý vào phát rtiển các ngành then chốt.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Thực tế cho thấy khẩ năng cạnh tranh của hàng Việt Nam còn nhiều hạn chế. Do nhiều nguyên nhân, một nguyên nhân chính là chất lượng hàng hoá của chúng ta còn thấp và chưa tạo ra được những nét riêng biệt, không có một thương hiệu cho riêng mình. Để nâng cao tính cạnh tranh cho hành hoá, cần có sự nỗ lực tích cực từ nhiều bên, đặt biệt là của chính các doanh ngiệp. Cần chú ý phát rtiển các ngành mà chúng ta có thế mạnh thực sự. Như vậy vừa có tác dụng phát rtiển các ngành có liên quan, vừa có tác dụng khắc phục được điểm yếu củ chúng ta là luôn đi sau các nước về khoa học công nghệ.
Nước ta là nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống dựa vào nghề nông cho nên vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là một nhiệm vụ không thể thiếu. Vấn đề này là một vấn đề rộng, bao gồm nhiều khâu, nhiều việc. Tăng cường đưa ánh sáng văn minh về các vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, và các vùng có dân tộc ít người sinh sống. Phát triển đường sá thuận lơi cho sự giao lưu kinh tế giữa các khu vực khác nhau. Nghiên cứu các giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện từng vùng để mang lai hiệu quả cao đồng thời, phải chú ý đến khâu tiêu thụ nông phẩm cho bà con, khi cần thiết phải có chính sách trợ giá hợp lý để không làm thiệt hại cho người nông dân, không đẻ sảy ra tình trạng khi thấy giá thành nông phẩm không còn được như trước, bà con sẽ phá bỏ cây hoặc con đó đi để trồng cây khác mà đang thịnh hành. Làm như vậy rất tốn kém cho bà con và nhà nước lại không có sự ổn định về xuất khẩu.
Tăng cường bồi dưỡng nguồn nhân lực tạo ra một lớp người có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, theo kịp sự phát triển của nền kinh tế.
Trên đây là một số các giải pháp để phát rtiển kinh tế thị trường ở nước ta. Nhưng theo em nó cũng là những giải pháp chung của tất cả các nước trong việc phát triển kinh tế thi trường. Tuy nhiên các riêng ở đây là cac doanh nghiệp và nhà nước cần dựa vào đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta để làm sao vận dụng một cách có hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN
Với những thực trạng của nền kinh tế Việt Nam, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường là hoàn toàn phù hợp. Qua gần 20 năm đổi mới, chúng ta đã thấy được một phần nào những kết quả của nó. Tuy nhiên, việc chuyển đổi cơ chế kinh tế này không phải là việc đơn giản, nó cần phải có thời gian và những chính sách thật hợp lý mới có khả năng phát huy được sức mạnh của kinh tế thị trường và những điều kiện vốn có của nền kinh tế Việt Nam.
Qua bài viết này, một phần nào đó em đã thấy được tầm quan trọng của kinh tế thi trường trong việc phát triển kinh tế. Nó là một công cụ không thể thiếu để kinh tế Việt Nam có thể hội nhập với kinh tế của thế giới trong xu thế toần cầu hoá kinh tế ngày nay. Nền kinh tế thi trường của chúng ta là nền kinh tế thi trường có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm cho chúng ta không đi chệch con đường chủ nghĩa xã hội, một đường đi đúng đắn mà Đảng và Bác đã chọn nhằm hướng con người đến độc lập, tự do thực sự. Ngày nay, trong quá trình phát triển kinh tế, chúng ta thấy nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, làm giảm sự chênh lệch giàu nghèo giữa các thành phần dân cư, có các chính sách phân phối thu nhập hợp lý, vừa phát triển công nghiệp,dịch vụ, vừa phát triển nông nghiệp, tạo ra một nền kinh tế cân đối, toàn diện.
Việc vận dụng sáng tạo những cái chung của nền kinh tế thế giới vào hoàn cảnh nước ta là cần thiết. Và để nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá thì nhất thiết chúng ta phải tạo ra những nét riêng có cho sản phẩm của mình. Có như vậy thì hàng hoá Việt Nam mới có khả năng cạnh tranh cả tren thị trường nội địa và thi trường thế giới.
MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
I.Các phạm trù cái riêng, cái chung. 2
1. Khái niệm. 2
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung. 2
II. Kinh tế thi trường. 5
2.1. Khái niệm. 5
2.2. KTTT có sự quản lý và điều tiết của nhà nước. 7
III. KTTT Việt Nam. 8
3.1. Tính tất yếu của việc chuyển sang KTTT ở Việt Nam. 8
3.2.Kinh tế thi trường Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. 10
3.3.Kinh tế Việt Nam nền kinh tế thi trường có sự quản lý và điều tiết của theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 11
3.4.Những thắng lợi đầu tiên do nền KTTT mang lại. 14
3. 5. Giải pháp phát triển KT Việt Nam. 16
Kết luận 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan triet (cai chung va rieng).docx