Tài liệu Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX: LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Các lý luận giá trị kinh tế của các nhà kinh tế tư bản cổ điển là một bộ phận trong cơ cấu ấy, đã có những lý luận bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan vì các lý luận giá trị của các nhà kinh tế cổ điển tư bản đã góp một phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều Chủ trương, Chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, các lý luận giá trị đó, còn nhiều những hạn chế trong thực tế và nhiều vấn đề bất cập trong xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thà...
20 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Các lý luận giá trị kinh tế của các nhà kinh tế tư bản cổ điển là một bộ phận trong cơ cấu ấy, đã có những lý luận bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan vì các lý luận giá trị của các nhà kinh tế cổ điển tư bản đã góp một phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều Chủ trương, Chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, các lý luận giá trị đó, còn nhiều những hạn chế trong thực tế và nhiều vấn đề bất cập trong xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH-HĐH phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có sự am hiểu về lý luận kinh tế, với sự giải phóng tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế. Vì vậy bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau đây:
Những thành tựu và hạn chế về lý luận giá trị của các nhà kinh tế tư bản cổ điển, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Tuy nhiên, do thời gian và không gian có hạn cho nên việc thu thập số liệu và tài liệu vẫn chưa đựơc cập nhật vì thế không tránh khỏi những thiếu sót, mong có những ý kiến đóng góp cho tiểu luận được hoàn chỉnh hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn cùng các bạn đã giúp đỡ tôi trong quá trình làm tiểu luận.
PHẦN II
HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN
I. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CỔ ĐIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ
1. Hoàn cảnh lịch sử
Kinh tế chính trị học cổ điển là một trường phái đặc biệt có vai trò và ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển tư tưởng kinh tế chung của nhân loại. Nó xuất hiện từ thế kỷ XVII, trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ở phương Tây, đặc biệt là nước Anh và nước Pháp. Trường phái này phát triển trong thời kỳ dài, trải qua nhiều dai đoạn, đạt tới đỉnh cao rực rỡ vào thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và sau đó dần dần xã rời những nguyên tắc truyền thống trước khi chấm dứt thực sự thống trị tuyệt đối của mình vào thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt nổi bật trong hoàn cảnh lịch sử cho sự ra đời của kinh tế học cổ điển là sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản trong lĩnh vực sản xuất, tỏ rõ ưu thế tất yếu của nó so với lĩnh vực lưu thông vốn là lĩnh vực chiếm ưu thế trong thời kỳ phát triển của tư tưởng trọng thương trước đó. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang trên đà phát triển, chưa bộc lộ rõ những mâu thuẫn của bản thân nó là một cơ sở thực tiễn để các đại biểu của trường phái cổ điển tập trung nguyên cứu các quy lụât phát triển của chủ nghĩa tư bản, cổ vũ và đề cao ưu thế của phương thức này.
2. Những đặc điểm chung
Đặc điểm nổi bật về phương pháp luận của kinh tế cổ điển là việc chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Bứơc ngoặt này đạt được chủ yếu là nhờ vào kết quả phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đưa tới nhận thức có tính chất cách mạng rằng, toàn thể giá trị của cả xã hội được sáng lập ra những lĩnh vực lưu thông như những người trọng thương trước đó quan niệm.
Về phương pháp nghiên cứu kinh tế học, có thể xem những người cổ điển là những người lần đầu tiên vận dụng phương pháp trừu tượng hoá để phân tích các mối quan hệ nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó có thể vạch rõ được nhiều quy luật vận động và phát triển của phương thức này. lần đầu tiên phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên được vận dụng đầy đủ vào việc nghiên cứu các mối quan hệ sản xuất – xã hội vốn là đối tượng của môn kinh tế học. Phương pháp này của những nhà cổ điển được C.Mác đánh giá rất cao và được nhiều nhà kinh tế sau này trong đó cóa cả nhà kinh tế mácxít sử dụng như một công cụ đặc biệt hữu hiệu để phân tích lý luận kinh tế.
Là sản phẩm của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh học cổ điển cổ vũ nhiệt thành cho chủ nghĩa tụ do trong kinh tế, phản đối mọi sự tác động từ bên ngoài vào thị trường tự do. Tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh là lý tưởng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà những người cổ điển ca ngợi và ủng hộ. Đặc điểm này, hay đúng hơn – sự cổ vũ cho tự do kinh tế - đã từng là cơ sở lý luận cho một thời kỳ dài của chính sách đứng ngoài, không can thiệp vào kinh tế của các nước tư sản. Thái độ của các nhà kinh tế học cổ điển phủ nhận mọi sự can thiệp của nhà nước vào đời sống kinh tế là kết quả đương nhiên của phương pháp luận nghiên cứu xem xét sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất chỉ đơn thuần do các quy luật tự nhiên điều tiết, tuyệt đối hoá quy luật ấy mà không tính tới đặc điểm lịch sử, cụ thể trong sự phát triển và tác động của chúng.
Đặc điểm bao trùm của kinh tế học cổ điển là tính chất hai mặt trong phương pháp nghiên cứu cúng như mọi quan điểm lý luận của nó. Là người chứng minh một các khoa học cho sự phát triển khách quan không thể phủ nhận được của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời là người bảo vệ cho trường phái này, với tư cách là phương thức sản xuất vĩnh viễn, cuối cùng của xã hội loài người.
Kinh tế học cổ điển ra đời và phát triển mạnh mẽ nhất ở nước Anh và nước Pháp với nhiều tên tuổi nổi tiếng. ở Anh phải kể trước hết tới W.Petty, ông vẫn được coi là người sáng lập trường phái kinh tế học cổ điển nói chung, sau đó là A.Smith, linh hồn thực sự của kinh tế học cổ điển, người thực hiện đầu tiên trong bước ngoặt đầu tiên trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại và đặc biệt là D.Ricácdo, người phát triển các tư tưởng kinh tế học cổ điển tới đỉnh cao rược rõ nhất trước khi trường phái này bước vào thời kỳ khủng hoảng. Với nước pháp, kinh tế học cổ điển xuất hiện và gắn liền với tên tuổi của các nhà trọng nông nổi tiếng như P.Boisguilebert, A.Turgot và nhất là F.Quesney. Đại biểu cuối cùng của kinh tế học cổ điển ở Pháp là Sismondi, người được C.Mác đánh giá là “kết thúc trường phái cổ điển ở Pháp” và là đại biểu nổi tiếng của trường phái kinh tế học tiểu tư sản sau này.
II. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ TƯ BẢN CỔ ĐIỂN
1. Lý luận giá trị của WILLIAM PETTY
* Lý luận giá trị lao động:
- W.Petty phân biệt giá trị lao động dưới ba hình thức. Giá trị của tự nhiên hay tỷ lệ trao đổi của một hàng hoá với khối lượng bạc nhất định, khối lượng này thay đổi tuỳ theo điều kiện khai thác bạc trong tự nhiên và quyết định sự thay đổi giá trị tự nhiên của các hàng hoá khác. Theo quan niện này, giá cả tự nhiên chính là giá trị của hàng hoá do lao động sản xuất tạo ra và được đo đường qua lao động của lĩnh vực khai thác bạc. giá cả nhân tạo hay giá cả thị trường của hàng hoá phụ thuộc và giá cả tự nhiên và quan hệ cung - cầu của hàng hoá. Giá cả chính trị thể hiện tác động của các nhân tố chính trị đối với lượng chi phí lao động để sản xuất ra hàng hoá, thường làm các chi phí này vượt lên cao hơn số lao động tự nhiên.
Việc phân biệt ba loại giá cả nói trên thể hiện cố gắng của W.Petty tìm hiểu bản chất và nguồn gốc thật sự của giá trị hàng hoá ở lao động sản xuất ra nó mà các hình thức thể hiện bên ngoài thường che lấp đi. Ông cũng đưa ra luận điểm nổi tiếng “Lao động là cha, còn đất là mẹ của mọi của cải” – một quan niệm thường được coi là chỉ đúng một nửa song lại rất có nghĩa khi khẳng định lao động là nguồn gốc tạo ra mọi giá trị.
Ngoài ra, W.Petty còn đặt vấn đề nghiên cứu lao động phức tạp, so sánh cách lao động với nhau nhờ vào phương pháp đánh giá năng xuất lao động trung bình trong nhiều năm.
Những hạn chế của W.Petty trong vấn đề lý luận giá trị là kết quả của phương pháp luận mang tính chất hai mặt của ông. Ông chưa phân biệt được lao động trừu tượng và lao động cụ thể, bởi vậy chưa thể chỉ rõ được nguồn gốc của giá trị. Ông vẫn lẫn lộn giữa giá trị và giá trị trao đổi, giá trị và giá trị sử dụng, do đó không nhất quán trong việc định nghĩa giá trị của hàng hoá.
Giá cả tự nhiên do hao phí lao động quy định và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó. Giá cả tự nhiên là giá trị của hàng hoá. Như vậy ông là người đầu tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động , thấy được quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động .
* Kết luận: Số lượng lao động = nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị hàng hóa, giá cả tự nhiên (giá trị), tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác vàng và bạc
Giá cả chính trị chính là giá cả thị trường của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên và khó xác định. Chi phí lao động trong giá cả chính trị thường cao hơn chi phí lao động trong giá cả tự nhiên .
Tuy nhiên lí thuyết gt lao động của ông chịu ảnh hưởng của CNTT. Ông chỉ tập chung nghiên cứu mặt lượng , nghĩa là nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hóa, một bên là tiền tệ. Ông giới hạn giả thiết đào tạo giá trị trọng lao động khai thác vàng và bạc. Các loại lao động khác chỉ so sánh với lao động tạo ra tiền tệ. Giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị tiền tệ .
Mặc dù bị ảnh hưởng của phái TT nhưng trong trường phái thị trường chỉ thoả mãn với việc đơn thuần đưa ra những biện pháp kinh tế hay chỉ mưu tả lại những hiện tượng kinh tế theo kinh nghiệm như W.Petty đã tiếp cận với các quy luật khách quan à nghiên cứu lĩnh vực sản xuất .
Trong những t/y đầu tiên W.Petty còn mang nặng tư tưởng TT nhưng trong t/y cuối cùng của ông thì không còn dấu vết của CNTT. Ông là người đầu tiên nhấn mạnh tính chất khách quan của những quy luật tác động trong XHTB.
2. Lý luận thuần tuý của F.QUESNEY
* Lý luận sản phẩm thuần tuý.
F.Quesney quan niệm sản phẩm thuần tuý là sự chênh lệch giữa tổng sản phẩm xã hội và các chi phí sản xuất, tức là sản phẩm dư thừa sau khi đã bù đắp các chi phí sản xuất. Nết độc đáo, điển hình cho quan điểm trọng nông của F.Quesney là:
Sản phẩm thuần tuý chỉ được tạo ra trong lĩnh vực nông nghiệp mà không có trong công nghiệp (lĩnh vực này chỉ làm biến đổi hình thức giá trị sản phẩm mà không làm tăng thêm khối lượng của chúng).
Sản phẩm thuần tuý được quy chỉ về lao động thặng dư trong nông nghiệp.
Sản phẩm thuần tuý vẫn chỉ là tăng vật của tư nhân và tồn tại vĩnh viễn.
Hình thái duy nhất của sản phẩm thuần tuý chỉ có thể là đia tô, còn lợi nhuận được coi là một bộ phận của chi phí sản xuất - đó là tiền công - thu nhập của các nhà tư bản.
Từ quan niệm về sản phẩm thuần tuý, F.Quesney đề ra một căn cứ để phân chia các loại lao động sản xuất và lao động không sản xuất. Theo ông, chỉ có lao động nào tạo ra sản phẩm thuần tuý mới là lao động sản xuất và rõ ràng với con mắt của người trọng nông, ông chỉ thừa nhận lao động trong lĩnh vực nông nghiệp mới là lao động sản xuất, còn tất cả các loại lao động khác, kể cả lao động trong công nghiệp, đều là lao động không sản xuất.
3. Lý luận giá trị của A.SMIITH
* Lí luận giá trị của Adam. Smith.
AdamSmith (1723- 1790) đã mở ra giai đoạn phát triển mới của sự phát triển các học thuyết kinh tế. Ông đi sâu phân tích bản chất để tìm ra các quy luật sự vận động của các hiện tượng và các quá trình kinh tế .
So với W.Petty và trường phái trọng nông, lý thuyết giả thiết lao động của A.Smith có bước tiến đáng kể .
Cũng chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động là thước đo cuối cùng của giá trị.
- Phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và khẳng định. Giá trị sử dụng không quy định giá trị trao đổi. Ông bác bỏ quan điểm ích lợi quyết định giá trị trao đổi.
- Khi phân tích giá trị hàng hoá: Giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hoá trong mối quan hệ với số lượng hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá phát triển nó được biểu hiện ở tiền.
- Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá do lao động hao phí lao động trung bình cần thiết quy định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị hàng hoá. Trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn, phức tạp xẽ tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn so với lao động có chuyên môn hay lao động giản đơn.
- Phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường: giá cả tự nhiên là biểu hiện = tiền của giá trị. Ông khảng định hàng hoá được bán theo giá cả tự nhiên, nếu giá cả đó ngang với mức cần thiết để trả cho tiền lương, địa tô, và lợi nhuận . Theo ông giá cả tự nhiên là Truy tâm, giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hoá giá cả này nhất trí với giá cả tự nhiên khi được đưa ra thị trường với số lượng đủ “thoả mãn lượng cầu thực tế’’. Giá cả tự nhiên có tính chất khách quan còn giá cả thị trường phụ thuộc vào những yếu tố như quan hệ cung cầu và các loại quan hệ đường khác .
* Mâu thuẫn và sai lầm :
- Đưa ra hai định nghĩa :+ “giá trị toàn điểm là do lao động quy định, giá trị là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quy định”.
+ Giá trị của một hàng hóa = số lượng lao động mà nhờ hàng hoá đó có thể mua được .
à Đây là điều sai lầm, luẩn quẩn của A.Smith. Ông đã đưa vào hiện tượng, một bên là chủ nghĩa lao động cho nhà tư bản, một bên là nhà tư bản trả lương cho công nhân.
- Về cấu thành lượng giá trị hàng hoá : Theo ông trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như của mọi giá trị tác động. A. Smith coi tiền lương, lợi nhuận và địa tô là nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng đắn. Song ông lại lầm ở chỗ coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị tác động. Ông đã lẫn lộn hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị, hơn nữa, ông cũng xem thường tư bản bất biến â; coi giá trị có (v+m) công lao to lớn của A.Smith trong việc nghiên cứu lý luận giá trị là ở chỗ ông dứt khoát xác định giá trị bằng lao động chi phí trong việc sản xuất hàng hoá nhất thiết phải tương ứng với lượng lao động chứa đựng trong nó.
Hơn tất cả các nhà nghiên cứu trước đó, A.Smith phân biệt một cáh rõ rành và tỉ mỉ hai thuộc tính của hàng hoá: giá trị sử dung và giá trị. ông cũng nêu nên là người ta thường nhầm lẫn khi dùng phạm trù giá trị để chỉ công dụng một loại hàng hoá nào đó. Chính ông đề nghị gọi đã là giá trị sử dụng, còn “khả năng một vật mà giá trị của nó có thể đổi lấy được những vật khác” thì được ông gọi là giá trị trao đổi. Nguồn gốc tạo ra giá trị trao đổi là lao động vật hoá của công nhân và chỉ có lao động mới tạo ra kha năng trao đổi cho một vật. Để chứng minh cho điều này, A.Smith đưa ra ví dụ nói rằng “Không có gì hữu ích bằng nước, nhưng với nó hầu như không thể mua được gì cả”. coi lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị và giá trị trao đổi - đó là một quan điểm chân chính của A.Smith.
Nhưng A.Smith không chỉ dừng lại ở điền khẳng định chung đó. Ông bác bỏ quan niệm của cả những người trọng thương lẫn những trọng nông quy sự sáng tạo giá trị về một loại lao động cụ thể, riêng biệt, trái lại, A.Smith khẳng định rằng mọi thứ lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị. Như thế là ông đã đi xa hơn những nhà tiền bối trong vấn đề xác định giá trị lao động, tiến trên con đường trừu tượng hoá vấn đề khoa học khi phân tích giá trị. Sự tiến bộ này được C.Mác đánh giá rất cao trong quá trình đi tới phát minh vĩ đại về thuộc tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Khi nghiên cứu vấn đề lượng của giá trị, A.Smith đã đạt thêm một thành tựu quan trọng khác. Ông xác định lượng giá trị là lao động xã hội trung bình chứ không phải lượng lao động chi phí thực tế để sản xuất hàng hoá. Như vậy là bằng cách trừu tượng hoá tất tất cả các dạng lao động cụ thể. A.Smith cùng trừu tượng luôn cả những chi phí lao động cá biệt, cụ thể để xem xét giá trị lao động tạo ra như là một đại lượng xác định mang tính chất xã hội. Với quan điểm này, A.Smith cũng xoá bỏ được bao điều khó hiểu và mâu thuẫn mà những người khác thường không giải thích được.
Một thành tựu khác của A.Smith là sự phân chia lao động thành lao động phức tạp, lành nghề và lao động giản đơn, không nghề. Trong hai loại lao động ấy, A.Smith cho rằng lao động phức tạp, lành nghề trong cùng một thời gian tạo ra được nhiều giá trị hơn số với lao động giản đơn, không lành nghề. Đó là một đóng góp rõ rang, không thể phủ nhân của A.Smith cho lý luận giá trị.
Bên cạnh những đóng góp quan trọng đó, A.Smith cũng bộc lộ nhiều hạn chế và mâu thuẫn trong lý luận giá trị của mình. Ông không phân biệt được lao động tạo giá trị mới và lao động chuyển giá trị trong hàng hoá, tức không đi sâu được vào vào bản chất cuối cùng của giá trị - lao động. Sự nghiên cứu của ông vân tập chung vào giá trị trao đổi và lượng giá trị biểu hiện trong trao đổi là giá cả. Đó là một vật cản lớn trên con đường giải quyết triệt để vẫn đề bản chất của giá trị mà chỉ có C.Mác sau này mới vượt qua được khi ông phát minh ra thuộc tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Mặt khác, dù cho A.Smith có một quan điểm khoa học trong lý luận giá trị, ông vẫn tỏ ra không nhất quán trong việc định nghĩa hàng hoá. Sai lầm cơ bản của ông là vừa xác nhận giá trị bằng giá trị lao động chứa đựng trong hàng hoá lại vừa xác định nó bằng lượng lao động có thể mua được bằng hàng hoá này. Ở đây, A.Smith không phân biệt được sản xuất hàng hoá giản đơn với sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa khi mà người sản xuất trở thành người làm thuê cho nhà tư bản và chỉ được trả công bằng giá trị thấp hơn mà giá trị anh ta tạo ra. Cũng do vậy mà A.Smith không hiểu và giải thích đúng đắn quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng quy luật này chỉ đúng trong lền sản xuất hàng hoá giản đơn, còn trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong mối quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê, quy luật này bị vo phạm và nhà đàu tư chỉ trả cho công nhân một phần giá trị do họ tạo ra. Từ đó, ông đi đến một sự khẳng định không khoa học là trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị là kết hợp của tiền công, lợi nhuận và địa tô (trong điều kiện không có sự thuê đất thì nó chỉ bao gồn tiền công của công nhân và lợi nhuận của nhà tư bản). Ông kết luận rằng “tiền công, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc ban đầu của mọi thu nhập, và mọi giá trị trao đổi cũng bằng đúng như vậy”. Thế là từ chỗ xác định lao động là nguồn gốc của mọi giá trị, A.Smith lại đi đến phủ nhận điều đó, coi cả các gía trị đã vật hoá khác cũng bình đẳng trong việc cũng tạo ra giá trị. Đây là một mâu thuẫn chủ yếu về lý luận dẫn đến một loại sai lầm khác của ông. Ông đã dừng lại trước mâu thuẫn này, đó cũng là một hạn chế lơn của A.Smith mà chính các lý luận gia tư bản đã sử dụng để bác bỏ qquan điểm của ông về lý luận giá trị.
4. Lý Luận giá trị của ĐAVID RICARDO
Sau khi ngẫu nhiên được biết đến tác phẩm kinh tế nổi tiếng của A.Smith, D.Ricardo đã đánh giá rất cao công trình này. Trong quá trình nghiên cứu của mình, ông đã đưa vào các kết luận của A.Smith và cố gắng phát triển triệt để chúng.
Trước hết ông phân biệt rõ ràng và dứt khoát hơn hai thuộc tính của hàng hoá.
Giá trị sử dụng được ông gọi là tính có ích của hàng hoá, là điều kiện cân đối với giá trị trao đổi, song không thể là thước đo của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi của đại đa số hàng hoá (ở đây D.Ricardo loại trừ những hàng hoá không mang tính chất sản xuất như tranh cổ, hoặc rượu vang quá lâu năm) được D.Ricardo xác định bằng chi phí lao động sản xuất ra chúng.
Song D.Ricardo đi xa hơn trong sự phân tích của mình. Ông coi giá trị trao đổi biểu hiện ở khối lượng hàng hoá khác (hoặc tiền), do đó trong hàng hoá tồn tại một giá trị tuyệt đối. Gía trị tuyệt đối này chính là kết tinh giá trị, chứa dựng một khối lượng nhất định.
Giá trị trao đổi là một hình thái cần thiết cần thiết và duy nhất có thể biểu hiện giá trị tuyệt đối của hàng hoá. Tư tưởng này của D.Ricardo là rất sâu sắc và sau này được C.Mác phát triển.
Tiếc thay, tư tưởng của D.Ricardo bị dứt đoạn, nó chỉ tồn tại như một nhận xét rời rạc, không kịp hoàn chỉnh trong một tác phẩm dự kiển của D.Ricardo về “giá trị tuyệt đối và tương đối”.
- David. Ricardo đã gạt bỏ tính không triệt để, không nhất quan điểm về các xác định giá trị của A. Smith (giả thiết bàng lao động mua được). D.Ricardo kiên định với quan điểm: lao động là nguồn gốc giá trị, công lao to lớn của ông đã được đứng trên quan điểm đó để xác định lí luận khoa học của mình. Đồng thời ông cũng phê phán A. smith cho rằng giá trị là do các nguồn gốc thu nhập hợp thành. Theo ông giá trị hàng hoá không phải do các nguồn thu nhập hợp thành mà ngược lại được phân thành các nguồn thu nhập.
Về cơ cấu giá trị hàng hóa, ông cũng có ý kiến khác với sai lầm giáo diễn của A.Smith bỏ c ra ngoài giả thiết hàng hoá. Ông cho rằng : giả thiết hàng hoá không chỉ do lao động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc, nhà xưởng ( tức ông chỉ biết có C1 - chỉ có đến Mã mới hoàn chỉnh được công thức tính giả thiết hàng hoá = c+vm.)
- Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận lq, ông cho rằng những tư bản có đại lượng = nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau. Nhưng cũng không chứng minh được vì ông hiểu được giá cả sản xuất. Theo ông sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là ngoại lệ, trên thực tế chỉ có giá trị chứ không có giá cả sản xuất. Mã đã chỉ ra cơ cấu lẻ háo giá trị thặng dư thành lợi nhuận bg và giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất trong điề kiện tự do cạnh tranh. Từ đó Mã đã giải quyết được nhiều vấn đề mà các nhà kthh trước không vượt qua được.
Trong vấn đề lợi nhuận bình quân, D.Ricardo đã nhận xét được khuynh hướng san bằng của tỷ xuất lợi huận giũa các ngành khác nhau, đã thấy được ảnh hưởng của tư bản sử dụng đối với việc hình thành giá cả và phần nào hiểu được cơ chế di chuyển của tư bản trong quá trình san bằng tỷ xuất lợi nhuận. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tín dụng thời kỳ này, cùng với những kiến thức thực tế của D.Ricardo trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đã giúp cho ông hiểu được rằng việc di chuyển tư bản được thực hiện không chỉ bằng con đường giản đơn, mà là chuyển các nhà tư bản từ ngành có lợi nhuận sang ngành có lợi nhuận cao, trên quy mô lớn hơn. Đó là con đường thu hẹp tư bản đi vay ở các ngành mang lại ít lợi nhuận và tăng cường chúng ở ngành có lợi cao.
Rõ ràng là các vấn đề lý luận giá trị, D.Ricardo đã đi gần đến chỗ hoàn hảo. Đánh giá cao những cố gắng của D.Ricardo, C.Mác viết rằng: “Nếu D.Ricardo đi sâu hơn trong sự phân tích của mình thì ông đã có thể tìm ra rằng chính sự khác biệt giữa giá trị với giá cả các chi phí là một điều có ý nghĩa quan trọng hơn rất nhiều so với việc ông ta đi phân tích những thay đổi trong các giá cả đó bị ảnh hưởng bởi việc nâng cao hay hạ thấp mức tiền công như thế nào”.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Thành tựu
Kinh tế chính trị cổ điển là trường phái khoa học có nhiều đóng góp to lớn cho lịch sử chung của loài người. Trong số những thành tưu nổi bật của trường phái này, phải kể tới trước hết là phương pháp nghiên cứu khoa học. Sử dụng sức mạnh của phương pháp trừu tượng hoá, những người cổ điển đã phát hiện và đi sâu nghiên cứu, vạch rõ nhiều vẫn đề có tính quy luật nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, lý luận kinh tế cổ điển được phân tích trên cơ sở được phân tích các phạm trù và khái niệm kinh tế vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Những đóng góp to lớn nhất về lý luận của trường phái cổ điển bao gồm giá trị - lao động, lý luận về tiền tệ, tiền công, lợi nhuận về địa tô. Công lao to lớn của các nhà kinh tế học cổ điển không chỉ thể hiện ở chỗ họ là những người đầu tiên đặt cơ sở khoa học cho việc phân tích các phạm trù về quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính việc phân tích sâu sắc và toàn diện các phạm trù và quy luật này của họ đã giúp cho nhiều nhà kinh tế sau này phát triển lý luận kinh tế tới những đỉnh cao rực rỡ. Những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái cổ điển cũng đồng thời là những tên tuổi lớn nhất của lịch sử kinh tế học. Đặc biệt, chủ nghĩa cổ điển có thể được coi là đã thực hiện những bước cách mạng quan trọng nhất trong việc phân tích các quy luật của lền kinh tế thị trường nói chung, và cơ chế thị trường nói riêng trong chủ nghĩa tư bản. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế học hiện đại ở tất cả các nước đang thực hiện nề kinh tế thị trường, kể cả đối với nước ta trong điều kiện xác định định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế đó.
2. Hạn chế
Tui nhiên, trường phải cổ điển trong kinh tế học cổ điển có những hạn chế nhất định. Đó là tính chất hai mặt trong phương phát luận nghiên cứu - vừa sử dụng các nghiên cứu khoa học, khách quan để phân tích bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lại vừa bị ràng buộc bởi tính chất phi lịch sử trong việc đánh giá phương thức sản xuất này. hơn nữa cổ vũ một cách mạnh mẽ cho tự do kinh tế của thị trường và tuyệt đối hóa vai trò tự điều tiết của thị trường, những người cổ điển cũng chưa có thái độ khách quan và thực tế đối với việc xem xét vai trò kinh tế của nhà nước - điều mà chính thực tế phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng khan thể phủ nhận được. Trong khi cống hiến cho lý luận kinh tế học nhiều thành tựu xuất xắc, các nhà kinh tế học cổ điển cũng để lại nhiều quan điểm tầm thường mà những người kế thừa họ biến thành trào lưu tầm thường hoá và làm giảm giá trị của học thuyết cổ điển nói chung.
PHẦN III
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến hôm nay sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đó cú những bước tiến vững vàng, tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Trong hơn 20 năm qua, GDP của chúng ta đó tăng trưởng 7,5-8% mỗi năm. Chúng ta đó chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường và chúng ta đó thành công trong việc hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Thành công nhất đối với Việt Nam là trở thành thành viên của WTO và việc Việt Nam ký kết một loạt hiệp định hợp tác thương mại song phương với hầu hết các nước và các vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong quá khứ, chúng ta đó theo đuổi mô hình kinh tế của Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau 20 năm cải cách, chúng ta đó đạt được sự tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục... Phúc lợi xã hội đó đến được với người nghèo và người nghèo được hưởng lợi từ sự phát triển. Tỷ lệ đói nghèo trong dân số đó giảm từ 60% trong năm 1993 xuống 14% và Việt Nam cũng đã đạt được hầu hết các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Thành tích nổi bật là tăng trưởng kinh tế cao nhất so với tốc độ tăng của 12 năm trước đó, đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đó giúp phần làm cho quy mô kinh tế lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người. Đây là tín hiệu khả quan để có thể sớm thực hiện được mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển có thu nhập thấp vào ngay năm tới.
Chúng ta đó đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng, kinh tế xã hội tăng trưởng nhanh, cơ sỡ vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trường kinh tế cao, năm vừa rồi là 8.5%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển trong các ngành, các vùng đó được phát huy. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện.
Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đảng đó quan tâm đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật doanh nghiệp nhà nước ra đời cho thấy sự tiến bộ rừ ràng về mặt quản lý kinh tế.
Cho đến những năm gần đây, doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta: năm 2000 doanh nghiệp Nhà nước đóng góp 39.5% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu, 39.2% tổng thu ngân sách nhà nước.
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã đã được đổi mới theo luật, chính sách Đảng và nhà nước. Các hợp tác xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ gia đình trong sản xuất hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nhà nước. Từ năm 1988, hộ gia đình nông dân đó tự mình quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, bán cho ai và tự quyết định cả giá bán. Địa vị nói trên của hộ gia đình không chỉ là kết quả của các biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, chế độ quản lý đất đai, mà cả cỏc biện pháp cải cách vĩ mô như về giá cả, về thị trường…
Đẩy mạnh khu vực tư nhân: sau nhiều năm phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, chính phủ đó hoàn toàn thay đổi cách đối xử và giờ đây nó khuyến khích khu vực tư nhân. Những đạo luật về các công ty và doanh nghiệp tư nhân đó chính thức thừa nhận khu vực đó có một thời kỳ là khu vực không chính thức này. Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Đến nay cả nước đó có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân mà đóng góp quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội từ nông dân thành công nhân, nhân viên văn phòng… Điển hình là công ty cà phê Trung Nguyên, một công ty tư nhân rất phát triển và thương hiệu cũng xuất hiện ở nhiều nước. Hàng năm kinh tế tư nhân đã đóng góp một lượng lớn vào ngân sách quốc gia.
Mở cửa cho đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Việt Nam đã khá thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong những năm qua. Đạo luật mới về đầu tư và những lần sửa lại sau đó chứng tỏ rằng chính phủ mở cửa cho khu vực tư nhân của nước ngoài tham gia. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có những bước phát triển quan trọng. Đến nay có rất nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép và có hiệu lực. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phát triển khá nhanh, bao quát nhiều lĩnh vực, đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước như: bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu hút công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, giúp phần tiếp cận và mở rộng thị trường Quốc Tế, nâng cao năng lực xuất khẩu ở nước ta… Đã có những tập đoàn, công ty xuyên quốc gia lớn như Nhật Bản(Misubishi, Sony. . .), của Đức(MercedesBenz, Siemens. . .), của Mỹ ( Mobil, carterrpila. . .), Hàn Quốc (Huyndai, SamSung…) đầu tư vào nước ta. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà Nước đó có nhiều chủ trương, chính sách để khẳng định vị trí của khu vực này hướng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như hội nhập kinh tế quốc tế và quan trọng là góp phần tăng thu nhập quốc dân.
Nhà nước đó từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Nước ta từ chỗ chưa khai thác dầu đến nay đó khai thác có sản lượng khá cao gần 20 triệu tấn/năm; ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp xây dựng phát triển khá mạnh được thể hiện qua việc các cao ốc cũng như chung cư cao tầng liên tục xuất hiện ở các thành phố lớn; sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng như một số ngành may mặc, thực phẩm… Ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đó chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất đời sống. Ngành bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin và du lịch phát triển nhanh. Các dịch vù tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý… có bước phát triển khá.
Cơ cấu vùng kinh tế có sự chuyển biến theo hướng phát huy lợi thế của mình. Các vùng kinh tế khó khăn đang từng bước vươn lên, có chuyển biến tốt về đời sống kinh tế xã hội. Ở đây có vài thí dụ xác thực như khu công nghiệp Dung Quất ở Quảng Ngãi, điều này thể hiện sự chuyển đổi vùng kinh tế, nhà nước tạo điều kiện cho mỗi vùng đều có khả năng tự lực hoặc như thị xã Tam Kỳ thì nay là thành phố Tam Kỳ cho thấy tốc độ đô thị hoá tương đối nhanh.
Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ trong công nghiệp và dịch vụ. Điều này có ý nghĩa rất lớn quan trọng trong công cuộc đưa nước ta từ nước nông nghiệp sang nước công nghiệp phát triển.
Tóm lại, theo em từ khi đổi mới đến nay kinh tế nước ta đã đạt được hai thành công lớn do sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.
Thứ nhất là việc xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp. Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là thành tựu vô cùng to lớn mà Đảng chính trị đó đạt được trong thời kỳ đổi mới. Điều này thể hiện sự sáng suốt, trí tuệ của Đảng cầm quyền hay nói cách khác là sự tác động có hiệu quả của chính trị với kinh tế.
Thứ hai là việc Việt Nam đã là thành viên của WTO- tổ chức thương mại thế giới. Mở ra cho kinh tế nước nhà nhiều cơ hội cũng như thể hiện sự kiên định, tài tình trong hơn 10 năm thương lượng ròng rã để trở thành thành viên chính thức WTO của chính phủ nước ta.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDang (9).doc