Tài liệu Tiểu luận Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ: TIỂU LUẬN
CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ MỤC LỤC:
- LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
A. CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
I- CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ.
1. Khái niệm. 6
2. Mục tiêu………………………. ...6
3. Các công cụ của chính sách tài khoá. ...6
a. Chi tiêu công ……………………………………………………………..6
b. Hệ thống thuế …………………………………………………………….7
4. Phân biệt chính sách tài khoá nới lỏng và thắt chặt ………………………....8
II- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1. Khái niệm ……………………………………………………………… .....8
2. Mục tiêu……………………………………………………………………....9
a. Ổn định giá trị đồng tiền…………………………………………………...9
b.Tăng công ăn việc làm… …….………………………………………...…..9
c. Tăng trưởng kinh tế………………………………………………………..9
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ.…………………………………………..9
a. Nghiệp vụ thị trường mở………………………………………………….10
b. Dự trữ bắt buộc.…………………………………………………………...10
c. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM………………………………...10
d. Quản lý lãi...
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 2876 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN
CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ MỤC LỤC:
- LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
A. CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
I- CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ.
1. Khái niệm. 6
2. Mục tiêu………………………. ...6
3. Các công cụ của chính sách tài khoá. ...6
a. Chi tiêu công ……………………………………………………………..6
b. Hệ thống thuế …………………………………………………………….7
4. Phân biệt chính sách tài khoá nới lỏng và thắt chặt ………………………....8
II- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1. Khái niệm ……………………………………………………………… .....8
2. Mục tiêu……………………………………………………………………....9
a. Ổn định giá trị đồng tiền…………………………………………………...9
b.Tăng công ăn việc làm… …….………………………………………...…..9
c. Tăng trưởng kinh tế………………………………………………………..9
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ.…………………………………………..9
a. Nghiệp vụ thị trường mở………………………………………………….10
b. Dự trữ bắt buộc.…………………………………………………………...10
c. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM………………………………...10
d. Quản lý lãi suất của các NHTM…………………………………………...11
4. Phân biệt chính sách tiền tệ nới lỏng và thắt chặt............................................11
B. MỐI QUAN HỆ VÀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ
VÀ CHÍNH TIỀN TỆ
I- MỐI QUAN HỆ...................................................................................................13
II- PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ TIỀN TỆ..................................14
C. TÁC ĐỘNG CỦA TỪNG CHÍNH SÁCH TỚI ĐƯỜNG IS - LM
I- Mô hình IS–LM....................................................................................................15
1. Đường IS..........................................................................................................15
a. Khái niệm..............................................................................................................15
b. Cách dựng đường IS.....................................................................................15
c. Độ dốc đường IS...........................................................................................16
d.Các yếu tố làm dịch chuyển đường IS..........................................................17
2. Đường LM........................................................................................................18
a. Khái niệm....................................................................................................18
b. Cách dựng đường LM.................................................................................19
c. Độ dốc đường LM.......................................................................................20
d. Các yếu tố làm dịch chuyển đường LM......................................................20
3. Cân bằng đồng thời hai thị trường hàng hoá và tiền tệ...................................21
II- TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TỚI MÔ HÌNH IS-LM..........................................22
1. Tác động của chính sách tài khoá...................................................................22
2. Tác động của chính sách tiền tệ......................................................................23
PHẦN II: THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
A. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2012................24
B. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ
VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC THỰC HIỆN....................................24
CÁC MỤC TIÊU CỦA KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM
I- GIAI ĐOẠN NHẰM ỔN ĐỊNH MỤC TIÊU VĨ MÔ...........................................26
SAU KHỦNG HOẢNG
II- GIAI ĐOẠN KÍCH CẦU NĂM 2009....................................................................27
III- GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VĨ MÔ
THẬN TRỌNG NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ DUY TRÌ.............................................27
MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG NĂM 2010.
IV- GIAI ĐOẠN ƯU TIÊN VĨ MÔ, KIỀM CHẾ.....................................................28
LẠM PHÁT NĂM 2011 – 2012.
C. NHỮNG VẤN ĐỀ NẢY SINH CHỦ YẾU TRONG THỰC TẾ KHI
PHỐI HỢP 2 CHÍNH SÁCH
I- CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH CHƯA LÀNH MẠNH...................................................32
II- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ
CHƯA CÓ SỰ PHỐI HỢP TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH.........................32
VÀ VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH Ở
TẦM NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN.
III- THIẾU NỀN TẢNG KỸ THUẬT LÀM CĂN CỨ
CHO SỰ PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH..................................................................33
IV- VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN VÀ TRÁCH NHIỆM
GIẢI TRÌNH CỦA CÁC CƠ QUAN CHÍNH SÁCH.......................................33
CHƯA ĐƯỢC THIẾT LẬP MỘT CÁCH CHÍNH THỨC.
PHẦN III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ...................................................................................34
- LỜI KẾT.
- TÀI LIỆU THAM KHẢO.
LỜI MỞ ĐẦU
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh giá theo 3 dấu hiệu cấp bách như lạm phát, tăng trưởng và công bằng xã hội.
Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách như lạm phát suy thoái, thất nghiệp trong thưòi kỳ ngắn hạn. Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn, có liên quan đến tăng trưởng kinh tế. Còn công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề
Như vậy, để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng, các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các sản lượng, việc làm, ổn định giá cả, kinh tế đối ngoại và phân phối công bằng. Vậy để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Hai trong những chính sách chủ yếu đang được Chính phủ ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nói chung và Việt nam nói riêng sử dụng là CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đều hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Song mỗi chính sách lại có những công cụ riêng biệt và có cách tiếp cận mục tiêu riêng. Nghiên cứu chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ giúp chúng ta phân biệt được mục tiêu, công cụ của từng chính sách; thấy được sự tác động của mỗi chính sách tới đường IS-LM. Qua đó, biết được cách mà Việt Nam áp dụng các chính sách vào nền kinh tế như thế nào.
Tìm hiểu vấn đề này giúp sinh viên nhìn nhận một cách khách quan về sự điều tiết kinh tế cử Nhà nước. Từ đó nhìn thấy những mặt hạn chế và đưa ra một số kiến nghị giải pháp khắc phục việc tồn tại của việc sử dụng hai chính sách này, học tập và rèn luyện để góp một phần công sức của mình vào công cuộc xây dựng đất nước vững mạnh hơn.
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
A. CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
I- CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ.
1. Khái niệm.
Chính sách tài khóa là các chính sách của chính phủ nhằm tác động lên định hướng phải triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và thuế khóa.
2. Mục tiêu.
Mục tiêu của CSTK sẽ được thiết lập dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đất nước nhằm ổn định nền kinh tế bằng những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ qua đó tác động đến các biến số sau trong nền kinh tế: tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế, kiểu phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập.
3. Các công cụ của chính sách tài khóa.
a. Chi tiêu công:
- Khái niệm: Chi tiêu công là tổng hợp các khoản chi của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước và của toàn dân khi cùng trang trải kinh phí cho các hoạt động do Chính phủ quản lý.
- Cơ chế tác động:
- Đặc điểm: Đặc điểm nổi bật của chi tiêu công là nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng dân cư ở các vùng hay phạm vi quốc gia
Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế - xã hội của nhà nước và cũng chính trong quá trình thực hiện chức năng đó nhà nước đã cung cấp một lượng hang hóa công khổng lồ cho nền kinh tế
Chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước thực hiện
Các khoản chi tiêu công do chính quyền nhà nước các cấp đảm nhận theo nội dung đã được quy định trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và các khoản chi tiêu công này nhằm đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện chức năng quản lý phát triển kinh tế - xã hội . Mặt khác,các cấp của cơ quan quyền lực nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ của các khoản chi tiêu công nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia
Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính công cộng.
Chi tiêu công tương ứng với những đơn đặt hàng của chính phủ về mua hang hóa dịch vụ nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời đó cũng là những khoản phải chi cần thiết, phát sinh tương đối ổn định như: chi lương cho viên chức bộ máy quản lý nhà nước ,chi hàng hóa,dịch vụ công đáp ứng nhu cầu tiêu dùng công cộng của các tần lớp dân cư…
Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới hình thức các khoản chi tiêu công.
b. Hệ thống thuế:
- Khái niệm: Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao dịch, tài sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Cơ chế tác động: Hệ thống thuế hiện hành bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau tác động lên tất cả các hoạt động kinh tế, các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Chính phủ hoàn toàn có thể sử dụng công cụ thuế để điều tiết hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư, phát triển các hoạt động sản xuất có lợi cho quốc kế dân sinh, thực hiện điều tiết, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo hộ và khuyến khích phát triển sản xuất trong nước và tạo điều kiện hàng hóa trong nước cạnh tranh trên thị trường Thế giới.
Bên cạnh đó cần phải thực hiện tốt công tác quản lý thuế để đảm tăng nguồn thu đáp ứng chi thường xuyên và đáp ứng cân đối NSNN
- Đặc điểm: Các khoản thu thuế được tập trung vào Ngân sách nhà nước là những khoản thu nhập của nhà nước được hình thành trong quá trình nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
+ Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
+ Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất, thu nhập, lãi suất,...).
+ Thuế được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu.
+ Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là công cụ quan trọng để phân phối lại thu nhập, góp phần tích cực giảm bội chi NSNN, giảm lạm phát góp phần ổn định trật tự xã hội.
+ Thuế là công cụ quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô: khuyến khích hoặc kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế theo từng mục tiêu chung của Đất nước; thúc đẩy tăng cường đầu tư vốn và lành mạnh hóa thị trường.
+ Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (công bằng-thuế suất).
4. Phân biệt chính sách tài khóa nới lỏng và thắt chặt.
TIÊU CHÍ
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA NỚI LỎNG
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA THẮT CHẶT
Khái niệm
Là chính sách tăng cường chi tiêu của chính phủ(G>T) thông qua chi tiêu chính phủ tăng cường hoặc giảm bớt nguồn thu từ thuế hoăc cả hai.
Là chính sách trong đó chi tiêu của chính phủ ít đi thông qua việc tăng thu từ thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai.
Công cụ
-Tăng chi tiêu của chính phủ.
+ Tăng chi chuyển nhượng (chi không cần hàng hóa dịch vụ đáp lại như chi lương hưu, chi trợ cấp, chi bảo hiểm).
- Giảm thuế.
- Vừa tăng chi tiêu của chính phủ vừa giảm thuế.
- Giảm chi tiêu của chính phủ.
+ Giảm chi chuyển nhượng.
- Tăng thuế.
- Hoặc vừa giảm chi tiêu của chính phủ vừa giảm thuế.
- Giảm chi chuyển nhượng
.
Mục tiêu
Giảm thất nghiệp và mở rộng tổng cầu.
Giảm lạm phát.
Trường hợp áp dụng
Khi sản lượng nền kinh tế ở mức độ thấp so với mức sản lượng tiềm năng (Y<Y*).
Khi sản lượng nền kinh tế vượt quá sản lượng tiềm năng (Y>Y*).
II- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1. Khái niệm.
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHNN VN (NHTW) thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
2. Mục tiêu.
a. Ổn định giá trị đồng tiền:
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
b. Tăng công ăn việc làm:
CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1%.
Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này : tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh, chống suy thoái kinh tế theo chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
c. Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu: Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các NHTW phải chờ thời gian dài ( một năm – khi kết thúc năm tài chính).
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ:
a. Nghiệp vụ thị trường mở:
- Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng tiền cung ứng.
- Cơ chế tác động: Khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R), nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông (C).
- Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua (bán) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
b. Dự trữ bắt buộc:
- Khái niệm : Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại, do NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
- Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ ( m=1 + ) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM. Mặt khác, khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
- Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
c. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
- Khái niệm: Là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định (một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng, lạm phát tiêu thụ. . .) sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định.
- Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
- Đặc điểm: Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế. Song nhược điểm của nó rất lớn: Triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên.
d.Quản lý lãi suất của các NHTM:
- Khái niệm :NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.
- Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
- Đặc điểm: Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
e. Tỉ giá hối đoái
- Khái niệm: Tỉ giá hối đoái là đại lượng biều thị mối tương quan về mặt giá trịgiữa hai đồng tiền.nói cách khác tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác.
- Cơ chế tác động: Tác động đến hoạt động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa.
- Đặc điểm: Ngân hàng Trung Ương có thể ấn định tỉ giá cố định hay tha nổi theo quan hệ cung cầu ngoai tệ trên thị trường ngoại hối bện canh đó còn có tỉ gái cố định nhưng di động khi cần thiết và tỉ giá thả nổi có quản lý.khi vận dung công cụ này không phải NHTW đẩy tỉ giá lên cao hay kéo tỉ gái xuống thấp mà ổn định tỉ gái ở một mức độ hợp lí phù hợp vói đặc điểm điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn để tác động chung cuộc của nó là tốt nhất.
4. Phân biệt chính sách tiền tệ nới lỏng và thắt chặt.
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ nới lỏng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
TIÊU CHÍ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NỚI LỎNG
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THẮT CHẶT
Khái niệm
Là chính sách tăng cung ứng tiền vào lưu thông .Khi mà nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái thì Ngân hàng Trung ương sẽ hoạch định chính sách này để khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm.
Là làm giảm lượng cung tiền và như vậy sẽ làm tăng lãi suất, từ đó hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng cũng như đầu tư giảm. Điều này có tác dụng kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn nhưng lại ảnh hưởng đến tăng trưởng trong trung hạn và dài hạn do cắt giảm đầu tư hiện nay.
Mục tiêu
- Tăng lượng cung tiền.
- Giảm lãi suất.
- Chống thất nghiệp.
- Đầu tư sản xuất tăng.
- Tăng trưởng kinh tế.
- Giảm cung tiền.
- Tăng lãi suất.
- Giảm mức lạm phát.
- Ổn định giá trị đồng tiền.
- Tăng trưởng kinh tế.
Công cụ
- Nghiệp vụ thị trường mở.
- Dự trữ bắt buộc.
- Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM.
- Quản lý lãi suất của các NHTM.
- Tỷ giá hối đoái.
- Nghiệp vụ thị trường mở.
- Dự trữ bắt buộc.
- Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM.
- Quản lý lãi suất của các NHTM.
- Tỷ giá hối đoái.
Trường hợp áp dụng
Khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái
Khi lượng cung tiền vượt quá mức cầu tiền làm gia tăng lạm phát trong nền kinh tế
B. MỐI QUAN HỆ VÀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH TIỀN TỆ
I- MỐI QUAN HỆ.
Chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) là hai công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng, mỗi chính sách có mục tiêu riêng, nhưng đều cùng theo đuổi mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế bền vững và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nội dung cơ bản của CSTK là kiểm soát thu chi ngân sách do những khoản thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, CSTK được coi là một trong những chính sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, một CSTK vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và làm cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư lớn. Trong mối quan hệ với giá cả, CSTK là một trong những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một sự nới lỏng CSTK đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy tăng tổng cầu và tài trợ thâm hụt.
CSTT là công cụ của NHTW để điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín dụng, kết quả là chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục tiêu chính sách đề ra. Một CSTT nới lỏng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất, qua đó thúc đẩy tăng tổng cầu và gây áp lực lạm phát nếu cung tiền tăng quá mức so với sản lượng tiềm năng.
CSTK tác động đến CSTT trước hết qua kênh tài trợ thâm hụt ngân sách: Nếu thâm hụt ngân sách được tài trợ từ vay nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, nếu tài trợ bằng cách vay từ NHTW thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng và mặt bằng giá cả, nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách vay từ các NHTM thì nguồn vốn cho vay các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ giảm, hạn chế năng lực đầu tư của các khu vực kinh tế này và ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, CSTK còn ảnh hưởng đến dòng vốn quốc tế và khả năng của NHTW trong việc kiểm soát luồng ngoại tệ, nếu chính sách thu chi ngân sách không hợp lý thì sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả phân bổ nguồn lực và làm tăng rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế.
CSTT tác động đến CSTK tùy theo mức độ điều chỉnh các công cụ CSTT, một CSTT thắt chặt sẽ làm giảm đầu tư, khả năng thu thuế và nguồn thu ngân sách, một sự giảm giá nội tệ sẽ làm gia tăng khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ quy đổi, nếu NHTW điều chỉnh tăng lãi suất thì giá trái phiếu Chính phủ sẽ giảm và ảnh hưởng đến khả năng cân đối ngân sách.
Các khoản thu chi của Chính phủ được phản ánh rõ qua các giao dịch trên tài khoản kho bạc mở tại NHTW hoặc các NHTM, tiền gửi kho bạc tăng cao sẽ làm giảm nguồn vốn khả dụng của các NHTM, qua đó làm tăng lãi suất liên ngân hàng. Tiền gửi của Chính phủ tại NHTW chiếm tỉ trọng lớn trong tiền cơ bản, nên cũng là yếu tố quan trọng làm thay đổi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, việc chuyển tiền hai chiều trên tài khoản của Chính phủ tại NHTW sẽ gây biến động đến tiền cơ bản. Đây là những yếu tố gây áp lực đến việc kiểm soát cung tiền và thực thi CSTT, việc kiểm soát cung tiền và lãi suất sẽ khó khăn hơn nếu một phần tiền gửi kho bạc được gửi tại các NHTM.
Để hạn chế những tác động bất lợi giữa CSTK và CSTT, cả hai chính sách này phải nhất quán về mặt mục tiêu, phải tạo ra sự đồng bộ và bổ sung cho nhau trong quá trình thực thi. Khi bù đắp thâm hụt ngân sách, Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu Chính phủ và NHTW mua vào, tạo thêm công cụ để điều tiết thị trường tiền tệ. Trong quá trình thực thi CSTK, việc tài trợ thâm hụt và các khoản thu chi lớn của Chính phủ phải có kế hoạch và được thông báo trước cho NHTW, giúp NHTW dự báo được diễn biến cung tiền để kịp thời điều chỉnh theo mục tiêu đề ra và đảm bảo hiệu quả của CSTT.
Mối quan hệ giữa CSTT và CSTK cũng được chứng minh qua mô hình IS-LM. Theo mô hình này, tăng chi tiêu của Chính phủ có tác động làm tăng cung tiền, làm giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, tăng thu thuế có tác động làm tăng lãi suất vì khi đó cung tiền giảm. Mô hình IS-LM giúp các nhà hoạch định chính sách điều chỉnh CSTT và CSTK, để có tác động thích hợp lên tổng cầu và lãi suất trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, mô hình Timbergen của nhà kinh tế học cùng tên người Hà Lan có thể giúp các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô tìm kiếm được sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT và CSTK.
II- PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ TIỀN TỆ.
Chính sách tài khoá với thuế và chi tiêu củ Chính phủ tác động trực tiếp đén yếu tố G hoặc gián tiếp đến tiêu dùng ( C ), đầu tư ( I ), xét cho cùng là tác động tới tổng cầu. Chính sách tiền tệ về mức cung tiền tác động trực tiếp đến thị trường tiền, qua đó tác động trở lại đến tổng cầu ( C, I, X ). Cả hai chính sánh đều tác động tới quy mô của tổng cầu nhưng mỗi chính sách lại gây ra sự thay đổi khác nhau về các thành phần của tổng cầu. Có thể nói việc vận dụng tốt cả hai chính sách có khả năng quản lý ( kiểm soát ) được tổng cầu để ổn định được thu nhập (sản lượng) ở mức dự kiến ( sát với sản lượng tiềm năng ). Như vậy, trên giác độ kinh tế vĩ mô cần có một mục tiêu chung cho cả hai chính sách, có những cơ quan có khả năng phối hợp điều hành. Sự thiếu phối hợp có thể triệt tiêu tác động của các chính sách và dẫn đến mất cân đối vĩ mô trầm trọng.
Về mặt lý thuyết, có thể xây dựng thành các cặp chính sách có cùng mục tiêu.
Khi cho rằng tổng cầu ở mức quá thấp có thể mở rộng chính sách tài chính và nới lỏng tiền tệ, đường IS và LM sẽ dịch chuyển xa sang bên phải, tổng cầu và sản lượng sẽ tăng mạnh.
Nếu tổng cầu ở mức quá cao, có thể dùng chính sách tài chính thắt chặt và tiền tệ thắt chặt để giảm mạnh tổng cầu.
Khi tổng cầu ở mức vừa phải, sản lượng tương đối ở mức ổn định so với dự kiến, có thể sử dụng hỗn hợp tài chính chặt chẽ - tiền tệ nới lỏng hoặc tài chính mở rộng - tiền tệ chặt chẽ để làm biến đổi thành phàn tổng cầu. Với hỗn hợp tài chính chặt chẽ và tiền tệ nới lỏng vừa đủ để tổng cầu không thay đổi, nhưng tiêu dùng và đầu tư tăng lên, chi tiêu Chính phủ giảm xuống. Hỗn hợp này có thể ổn định sản lượng hiện tại nhưng có lợi cho sự tăng trưởng tương lai nhờ mở rộng quỹ vốn, sẽ có thêm việc làm với năng suất cao hơn. Tuy nhiên, nếu cắt giảm chi tiêu của Chính phủ tập trung vào khoản đầu tư công cộng mang lại lợi ích chung thì cần được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng.
Với hỗn hợp tái chính mở rộng và tiền tệ chặt chẽ có thể giữ nguyên tổng cầu, mở rộng khả năng đầu tư công cộng và hạn chế sự bành trướng về tiêu dùng và đầu tư.
Trong thực tiễn đời sống kinh tế có quá nhiều các nhân tố kinh tế, xã hội, tâm lý. . .tồn tại trong thời gian dài, ngắn khác nhau, tác động cùng chiều hoặc ngược chiều đến nhiều vấn đề nền kinh tế. Môp hình trên đây chỉ là mô hình đơn giản, nên thật khó dự đoán kết quả thật sự khi thực hiện các hỗn hợp chính sách nói trên. Cũng vì lẽ đó, chính sách tài khoá thường được coi trọng hơn bởi nó tác động trực tiếp vào tổng cầu, còn chính sách tiền tệ phải qua một cơ chế lan truyền tác động vào thị trường tiền tệ và qua hiệu ứng của thị trường này tác động đến hành vi ứng xử của các tác nhân kinh tế, để có được một tổng cầu theo dự kiến. Khó có thể đánh giá chính xác tác động của chính sách tiền tệ.
Khi thực hiện chính sách tiền tệ để quản lý ( kiểm soát ) tổng cầu thường gặp phải trở ngại là lạm phát. Trong những điều kiện nào đó về cung, chính sách tiền tệ nới lỏng có thể không đẩy được đường LM sang phải, toàn bộ phần gia tăng của mức cung tiền không có ảnh hưởng đến tổng cầu mà chuyển toàn bộ vào giá làm cho lạm phát trở nên trầm trọng.
C. TÁC ĐỘNG CỦA TỪNG CHÍNH SÁCH TỚI ĐƯỜNG IS-LM
I. MÔ HÌNH IS – LM
1. Đường IS
a. Khái niệm:
Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hóa sẽ được một đường gọi là đường IS.
b. Cách dựng đường IS.
Ở mức lãi suất r1 tổng chi tiêu là AE1 sản lượng cân bằng là Y1, điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa là E1. Từ đó ta xác định được điểm E’1 có toạ độ (r1 , Y1).
Lãi suất là r1 ta xác định được điểm E’1 có toạ độ (r1 , Y1); lãi suất giảm xuống r2 ta xác định được điểm E2 . Đường đi qua hai điểm E1’ và E2’ là đường IS.
Giả sử lãi suất giảm xuống mức r2 khi đó đầu tư tăng thêm một lượng là ΔI, tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y1 đến Y2. Từ đó ta xác định được E2’ có toạ độ (r2 , Y2). Đường đi qua hai điểm E1’ và E2’ chính là đường IS.
Cũng có thể xây dựng đường IS bằng công thức:
i = - . Y
Trong đó: = + +
b = d + n
Trong đó: - d và n là các hệ số đo lường quy mô đầu tư và xuất khẩu giảm xuống khi lãi suất tăng 1%.
- m’: Là số nhân chi tiêu của nền kinh tế đóng.
Hình thành mô hình
* Nhận xét:
- Lãi suất r tăng, khiến cho đầu tư I giảm đi.
- Tiết kiệm S luôn bằng đầu tư I, nên khi đầu tư giảm thì thu nhập Y phải giảm để cho tiết kiệm giảm xuống.
- Biểu diễn quan hệ nghịch đảo giữa lãi suất r và thu nhập Y để đảm bảo cần bằng thị trường hàng hóa vĩ mô này trên đồ thị hai chiều với trục hoành là các mức thu nhập Y, còn trục tung là các mức lãi suất r, ta sẽ có một đường IS là tập hợp của các mức tiết kiệm và thu nhập bằng nhau làm cân bằng thị trường hàng hóa vĩ mô. Đường này dốc xuống phía phải.
*Phương trình đường IS:
Y = C . ( Y - T ) + I ( r ) + G
c. Độ dốc của đường IS
Đường IS có độ dốc âm: bởi vì r (lãi suất), I (đầu tư) có quan hệ ngược chiều với nhau. Độ dốc của IS phụ thuộc vào độ nhạy cảm của I (đầu tư) phản ánh qua lãi suất, giá trị của số nhân chi tiêu.
- Sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất:
+ Đầu tư rất nhạy cảm:một sự thay đổi nhỏ của lãi suất cũng làm cho đầu tư và chi tiêu thay đổi một lượng lớn => thu nhập thay đổi nhiều, đường IS sẽ thoải.
+ Đầu tư ít nhạy cảm : Ngược lại.
- Giá trị của số nhân chi tiêu (m):
+ Nếu số nhân chi tiêu lớn thì thu nhập cân bằng tăng nhiều. Do vậy đường IS sẽ thoải.
+ Nếu số nhân chi tiêu nhỏ thì ngược lại.
=> Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào.
Như vậy, đường IS là quỹ tích của các kết hợp giữa mức sản lượng Y và mức lãi suất r, và bất kỳ điểm nào trên đó cũng làm cho thị trường hàng hóa cân bằng, nhưng nó không chỉ ra điểm nào trong những kết hợp trên tạo ra trạng thái cân bằng chung của nền kinh tế. Để tìm được mức sản lượng và lãi suất cho trạng thái cân bằng chung, chúng ta còn phải xem xét thị trường tiền tệ. Khác với mô hình cổ điển thuần túy, ở đây không có sự phân đôi giữa thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ. Trong mô hình IS-LM của Keynes, giá trị của các biến số thực tế, ví dụ thu nhập, phụ thuộc vào cung ứng tiền tệ.
d.Các yếu tố làm dịch chuyển đường IS
Đường IS là quỹ tích của tất cả các kết hợp giá trị thu nhập và lãi suất mà tại đó, tiết kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến.
Chúng ta xuất phát từ trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh tế, thị trường các khoản vay cân bằng (đầu tư bằng tiết kiệm), xác định mức lãi suất cân bằng là r1 và mức thu nhập của nền kinh tế là Y1. Nếu tiết kiệm dự kiến giảm xuống cùng với thu nhập, chắc chắn lãi suất sẽ tăng lên và làm mức đầu tư dự kiến nhỏ hơn, nhằm duy trì trạng thái cân bằng, tại đó tiết kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Mức lãi suất cân bằng mới là r2 và mức thu nhập cân bằng mới là Y2, xảy ra hiện tượng di chuyển từ điểm E1 đến điểm E2 trên đường IS. Ngược lại, nếu lãi suất là r2 và mức thu nhập là Y2, thì khi đó đầu tư dự kiến sẽ bằng tiết kiệm dự kiến; lãi suất giảm xuống r1 thì mức thu nhập sẽ tăng lên Y1, xảy ra hiện tượng di chuyển các điểm trên đường IS (hay còn gọi là trượt dọc theo đường IS) từ E2 xuống E1.
Hình 5.2. Sự di chuyển các điểm trên đường IS
Sự dịch chuyển của đường IS: Mục đích của đường IS là để minh hoạ tác động của chỉ riêng lãi suất trong việc dịch chuyển đường tổng cầu và thay đổi mức thu nhập cân bằng. Bất cứ một nhân tố nào làm đường tổng cầu dịch chuyển cũng sẽ làm dịch chuyển đường IS. Với một mức lãi suất nhất định, sự gia tăng niềm lạc quan của các hãng về những khoản lợi nhuận trong tương lai sẽ dịch chuyển đường nhu cầu đầu tư đi lên, làm tăng nhu cầu đầu tư tự định; sự gia tăng trong ước tính của các hộ gia đình về thu nhập trong tương lai sẽ dịch chuyển hàm tiêu dùng lên trên, làm tăng nhu cầu tự định; hay sự gia tăng trong chi tiêu của Chính phủ có thể trực tiếp làm tăng cấu phần của Chính phủ trong nhu cầu tự định. Bất kỳ sự gia tăng nào như thế này cũng sẽ dịch chuyển đường tổng cầu lên trên tại một mức lãi suất nhất định. Do đó khoản thu nhập cân bằng sẽ tăng thêm ở bất kỳ lãi suất nào.
Hình 5.3. Sự dịch chuyển đường IS khi G tăng
Sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất không đổi r1. Tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2.
Đồ thị 5.3 chỉ rõ sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất không đổi G1. Tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2.
- G (chi tiêu chính phủ), T (thuế): Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa làm tăng G (giảmT) sẽ làm IS dịch chuyển sang phải.
- Cú sốc ngoại sinh : Cú sốc ngoại sinh của người tiêu dùng ,nhà đầu tư làm tăng I (đầu tư),C (chi tiêu cá nhân) ngoại sinh sẽ làm dịch chuyển IS phải.
2. Đường LM
a.Khái niệm
Đường LM Biểu thị những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường tiền tệ.
b. Cách dựng đường LM:
Giả sử rằng mức cung tiền cố định tại MS =, với mức thu nhập ở Y1, đường cầu tiền là MD ( r , Y1 ) và điểm cân bằng của thị trường tiền tệ là E1 với lãi suất cân bằng là r1, từ đó có thể xác định điểm E1’của tổ hợp ( r1 , Y1 ).M
Khi thu nhập tăng đến Y2, đường cầu tiền dịch chuyển lên MD( r, Y2 ) với điểm cân bằng E2 lãi suất cân bằng r2. Từ đó có thể xác định điểm E2’của tổ hợp ( r2 , Y2 ). Đường đi qua hai điểm E1’, E2’ trên đồ thị là đường LM.
Khi thu nhập tăng đến Y2, đường cầu tiền dịch chuyển lên MD( r , Y2 ) với điểm cân bằng E2 có lãi suất cân bằng r2. Từ đó có thể xác định điểm E2’ của tổ hợp ( r2 , Y2). Đường đi qua hai điểm E1’, E2’ trên đồ thị là đường LM.
Hình 5.4. Xây dựng đường LM
Đường LM có độ dốc dương, điều đó chứng tỏ khi thu nhập Y tăng thì lãi suất r tăng và ngược lại. Đường LM phản ánh mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập và lãi suất.
Cũng có thể xây dựng LM bằng công thức:
i = . ( kY - )
Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi mộtlượng cầu tiền tăng thêm, dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi.
Hình thành mô hình:
* Nhận xét:
Vì giả thiết rằng lượng cầu tiền L luôn bằng lượng cung tiền M, nghĩa là không đổi. Nên hễ thu nhập Y tăng, thì lượng cầu tiền vì mục đích giao dịch sẽ tăng lên. Lượng cầu tiền dự trữ vì mục đích đầu cơ vì thế sẽ giảm đi; và để đảm bảo điều đó, lãi suất thực tế r cần phải tăng lên.
Tóm lại, khi xét từ góc độ thị trường tiền tệ cân bằng, khi thu nhập tăng thì lãi suất thực tế cũng sẽ tăng;và ngược lại.
Như vậy, đường LM biểu diễn một tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường tiền tệ sẽ là đuờng dốc lên phía phải trên một đồ thị hai chiều với trục hoành là các mức thu nhập Y, còn trục tung là các mức lãi suất thực r
* Phương trình đường LM :
= L ( Y, r )
Trong đó: M : cung tiền
: cung tiền thực tế
L (Y, r) : hàm cầu tiền phụ thuộc vào thu nhập và lãi suất
c.Độ dốc của đường LM:
Đường LM có độ dốc nghiêng di nhập tăng , lãi suất phải tăng theo để giảm bớt cầu tiền nhằm duy trì sự cân bằng của thị trường tiền tệ khi cung tiền không đổi .Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc.
d.Các yếu tố làm dịch chuyển đường LM:
Sự dịch chuyển đường LM: Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái.
Hình 5.5. Sự dich chuyển đường LM
khi MS thay đổi
Hình 5.5 minh họa trường hợp cung tiền giảm (do NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc), đường cung tiền dịch chuyển từ MS1 → MS2, ứng với mức thu nhập không đổi Y1. Lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng lên từ r1 đến r2, đường LM dịch chuyển sang trái từ LM1 đến LM2.
=> Tóm lại:
- Sự gia tăng cung tiền thực tế làm cho đường LM dịch chuyển xuống dưới.
- Sự giảm sút của cung tiền thực tế làm cho đường LM dịch chuyển lên trên.
3. Cân bằng đồng thời hai thị trường hàng hoá và tiền tệ.
Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hoá với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại ( r0 , Y0).
Hình 5.6. Trạng thái cân bằng đồng thời trên
cả thị trường hàng hoá và tiền tệ
Tại điểm cân bằng E0 ta xác định được mức lãi suất cân bằng r0 và thu nhập cân bằng Y0.
Nhìn vào hình 5.6, giả sử mức lãi suất tại r1, ta có mức thu nhập Y1 trên đường IS. Tổ hợp ( r1, Y1 ) đưa đến sự cân bằng của thị trường hàng hoá. Song, với mức lãi suất r1 thì cần phải có mức thu nhập Y1’ cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Với mức lãi suất r1, mức thu nhập Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Nhu cầu về tiền trở nên thấp hơn lượng cung ứng tiền sẵn có. Khi lượng cung ứng tiến quá cao, lãi suất sẽ giảm. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi suất giảm xuống tới r0. Tại mức này, tổng cầu và tổng thu nhập đã tăng lên đủ mức làm cho nhu cầu về tiền tăng đủ để dẫn tới sự cân bằng trên cả hai thị trường.
Hình 5.7. Trạng thái cân bằng đồng thời trên
cả thị trường hàng hoá và tiền tệ.
Với mức lãi suất r1 thì cần phải có mức thu nhập Y1’ cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ.
Với mức lãi suất r1, mức thu nhập Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ.
Nhu cầu về tiền trở nên thấp hơn lượng cung ứng tiền sẵn có. Khi lượng cung ứng tiến quá cao, lãi suất sẽ giảm. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi suất giảm xuống tới r0. Ngược lại, với mức lãi suất r2 , mức thu nhập Y2’ cần thiết cho thị trường hàng hoá cân bằng là lớn hơn mức thu nhập Y2 cần thiết để thị trường tiền tệ cân bằng. Khi thu nhập quá cao đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ, nhu cầu về tiền sẽ quá cao và đẩy lãi suất lên.
Tiến trình này tiếp diễn đến khi đạt mức lãi suất r0 và mức thu nhập Y0 thì cả hai thị trường đều cân bằng.
II- TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TỚI MÔ HÌNH IS-LM
1. Tác động của chính sách tài khóa.
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc tăng chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là ΔG, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải từ IS1 đến IS2 do tổng cầu tăng thêm một lượng là . ΔG cầu tiền tăng, đẩy lãi suất tăng lên từ r1 đến r2. Lãi suất tăng là nguyên nhân làm giảm đầu tư (đây chính là hiện tượng tháo lui đầu tư).
Hình 5.8. Tác động của chính sách tài khoá mở rộng
trong mô hình IS-LM
Trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh tế là E1, bây giờ là E2. Đầu tư giảm kéo theo sản lượng của nền kinh tế chỉ tăng từ Y1 đến Y2.
Trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh tế là E1, bây giờ là E2. Đầu tư giảm kéo theo sản lượng của nền kinh tế chỉ tăng từ Y1 đến Y2. Mức sản lượng tăng ΔY = Y2 – Y1 này nhỏ hơn mức tăng của tổng cầu . ΔG
2. Tác động của chính sách tiền tệ.
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, bằng việc hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hoặc giảm lãi suất chiết khấu, hoặc mua trái phiếu trên thị trường mở, khi đó cung tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Cung tiền tăng, đường LM dịch chuyển sang phải (xuống dưới), lãi suất cân bằng giảm từ r1 xuống r2, đầu tư tăng lên làm cho thu nhập cân bằng trong nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2.
Hình 5.9. Chính sách tiền tệ mở rộng đường LM dịch chuyển sang phải
PHẦN II: THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
A. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2012.
Sau giai đoạn 2000 – 2007 đạt mức tăng trưởng cao, những bất ổn về kinh tế vĩ mô giai đoạn 2008 – 2011 cho thấy mô hình tăng trưởng theo chiều rộng của Việt Nam đã đi đến giới hạn. Để tránh khỏi vết xe đổ của nhiều nước ASEAN, Việt Nam cần một cuộc cải cách toàn diện và triệt để về thể chế cũng như chính sách, nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực, tức là phải thực hiện một cuộc đổi mới lần thứ hai.
Giai đoạn 2008 – 2011: Hồi kết của một kỷ nguyên tăng trưởng cao
Kể từ năm 2008 đến nay, Việt Nam đã phải trải qua 3 giai đoạn bất ổn về kinh tế vĩ mô: lần thứ nhất xảy ra vào giữa năm 2008; lần thứ hai xảy ra vào cuối năm 2009 và đầu năm 2010; lần thứ ba xảy ra vào cuối năm 2010 và cả năm 2011.
Mặc dù có quy mô khác nhau nhưng các giai đoạn bất ổn về kinh tế vĩ mô nói trên đều có cùng diễn biến, nguyên nhân, cũng như hệ quả: lạm phát cao cùng với quy mô thâm hụt thương mại lớn đã dẫn đến những lo ngại VND bị mất giá, từ đó thúc đẩy người dân và DN chuyển đổi tài sản từ VND sang USD, khiến thanh khoản của hệ thống ngân hàng trở nên căng thẳng. Lãi suất trên thị trường từ đó gia tăng mạnh. Những điều này lại xảy ra cùng với việc NHNN phải thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát đã khiến tình hình càng trở nên trầm trọng.
Trong giai đoạn 2008 – 2010, tính trung bình, Việt Nam đã phải chịu mức lạm phát 2 con số; lãi suất huy động và cho vay kỳ hạn 12 tháng luôn ở mức cao. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này lại ở mức dưới 7% so với mức trung bình của những năm đầu thập kỷ 2000, do nền kinh tế phải chịu nhiều cú sốc về cung.
Các đợt thắt chặt tiền tệ, mặc dù đã khiến cho tổng đầu tư giảm và kéo thâm hụt thương mại giảm theo nhưng về cơ bản, tổng đầu tư vẫn ở mức cao (khoảng gần 40% GDP) do chi tiêu của Chính phủ vẫn còn lớn (khoảng 30% GDP). Ngoài ra, do tỷ lệ tiết kiệm nội địa không tăng trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giảm nên trong giai đoạn lạm phát và thâm hụt thương mại ở mức cao cùng người dân vẫn tăng tích trữ USD, tình trạng căng thẳng về ngoại tệ vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Bên cạnh đó, hệ thống tài chính của Việt Nam còn phải chịu một số cú sốc về giá vàng tăng, thúc đẩy người dân rút tiền khỏi hệ thống ngân hàng để mua vàng và gây sức ép lên tỷ giá hối đoái.
B. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU CỦA KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM
Có sự nhất quán trong điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm mục tiêu duy trì đà tăng trưởng. Mặc dù mục tiêu ổn định giá cả được tuyên bố là mục tiêu ưu tiên trong luật NHNN nhưng lựa chọn cuối cùng luôn là vấn đề tăng trưởng. Có thể nhìn thấy điều này cả trong giai đoạn kiềm chế lạm phát năm 2008, giai đoạn kích cầu năm 2009 - 2010 và cả giai đoạn thực hiện Nghị quyết 11 tập trung ổn định vĩ mô năm 2011. Xét ở khía cạnh này, cả hai chính sách đã có sự phối hợp khá rõ nét.
Năm 1997, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, CSTT và chính sách tài khóa đã được sử dụng để khôi phục đà tăng trưởng kinh tế, hạn chế tình trạng giảm phát thông qua chính sách kích cầu kéo dài từ năm 1997 đến 2003. Kết quả là Việt Nam đạt được mức tăng trưởng ở mức cao (7,7; 8,4; 8,17; 8,5%/năm của các năm 2004, 2005, 2006 và 2007 tương ứng) kèm theo tỷ lệ lạm phát có lúc ở mức 2 con số (giai đoạn 2004 - 2007).
Giai đoạn lạm phát bùng nổ vào năm 2008 như là kết quả tất yếu của chính sách nới rộng tổng cầu trước đó đòi hỏi các chính sách kiềm chế tổng cầu quyết liệt và nhất quán song song với cải thiện các khía cạnh của cấu trúc kinh tế và hiệu quả đầu tư. Song trong thực tế, Chính phủ đã 4 lần thay đổi mục tiêu ưu tiên và bằng cách đó, các điều chỉnh chính sách luôn có thiên hướng duy trì tốc độ tăng trưởng (đặc biệt là chính sách tài khóa).
(i) Từ thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát (năm 2008) sang kích cầu đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng (năm 2009) (Công văn số 75/TTg-KTTH ngày 15/01/2008 về biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008; Công văn số 319/TTg-KTTH ngày 03/3/2008 về tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008; Nghị quyết 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về 8 giải pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát; Nghị quyết 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội).
(ii) Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng (năm 2010) (Nghị quyết số 18/ NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010).
(iii) Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát (2011) (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về các giải pháp chủ yếu nhằm tập trung kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội trong năm 2011)
(iv) Năm 2012 tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô (Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012).
Có thể nhận thấy, cho tới 2010 và nửa đầu 2011, mục tiêu tăng trưởng vẫn là mục tiêu ưu tiên, mặc dù lạm phát không còn là dấu hiệu mà đã thực sự bùng phát cộng với những ảnh hưởng bởi độ trễ của chính sách kích cầu năm 2009. Chỉ tới nửa cuối năm 2011 cho tới nay, ưu tiên kiềm chế lạm phát mới thực sự được thể hiện trong các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và trở thành hành động của hai Bộ Tài chính và NHNN. Tuy nhiên, trong thực tế, CSTT và chính sách tài khóa được sử dụng để hướng tới các mục tiêu kinh tế với các mức độ khác nhau. Trong đó, CSTT luôn được sử dụng như là công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong giai đoạn giảm tổng cầu, kiềm chế lạm phát.
I- GIAI ĐOẠN NHẰM MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH VĨ MÔ SAU KHỦNG HOẢNG.
Từ đầu năm 2008, NHNN đã sử dụng tất cả các công cụ CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế lạm phát:
(i) tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn;
(ii) Phát hành bắt buộc 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN và quy định các tín phiếu NHNN không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN;
(iii) Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12 rồi 14%. Hệ thống lãi suất điều hành gồm cặp lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng lên 15% và 13%;
(iv) Khống chế hạn mức tín dụng và yêu cầu kiểm soát chặt những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao, đặc biệt cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản...Ðến tháng 5/2008 tổng phương tiện thanh toán tăng 3,73% so với cuối năm 2007, thấp hơn so với mức tăng 17,57% của cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng tăng 18,42%, tuy cao so với tốc độ tăng 13,36% của cùng kỳ năm trước, nhưng có xu hướng giảm dần (tháng 1/2008 là 6,3%, tháng 2/2008 là 2,35%, tháng 3/2008 là 3,78%, tháng 4/2008 là 3,36% và tháng 5/2008 là 2,25%). So với năm 2007, tốc độ tăng M2 cả năm 2008 là 19,5%; dư nợ tín dụng tăng 25,4% thấp hơn nhiều so với năm 2007 với 39% và 56% tương ứng ( Hình 1).
Hình 1: Tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán 2000-2011
Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Cùng với CSTT, chính sách cắt giảm chi tiêu công cũng được đặt ra thông qua chủ trương rà soát, sắp xếp giảm chi đầu tư các dự án chưa thực sự cấp bách, các dự án có khả năng hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2008, thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên. Số các dự án, công trình đầu tư bị bị dừng lại hoặc giãn tiến độ khoảng hơn 3000 dự án với tổng số vốn là 37.000 tỷ đồng, tập trung phân bổ cho các dự án cấp thiết có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2008 (nhưng trên thực tế, việc cắt giảm không được bao nhiêu). Chính phủ cũng đã giảm 25% kế hoạch vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ, riêng trái phiếu giáo dục điều chỉnh giảm 5,6% so với mức Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, các biện pháp đề ra chưa thực sự quyết liệt. Kết quả là: tổng chi tiêu Chính phủ thực hiện trong năm 2008 vẫn vượt 19% so với dự toán, tăng hơn 22% so với thực hiện năm 2007 và chiếm 31,75% GDP. Chi đầu tư phát triển đã được cắt giảm đáng kể nhưng vẫn chiếm đến 7,9% GDP, vượt dự toán 18% và tăng 5% so với năm 2007. Kết quả thâm hụt ngân sách nhà nước năm 2008 vẫn xấp xỉ 5% GDP. Ðến ngày 31/12/2008, nợ công chiếm 42% GDP, dư nợ ngoài nước của quốc gia bằng 27,2% GDP.
II- GIAI ĐOẠN KÍCH CẦU NĂM 2009.
Từ nửa cuối năm 2008, CSTT lại hướng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm đối phó với suy thoái kinh tế trong nước và khủng hoảng kinh tế thế giới thông qua một loạt các công cụ:
(i) Triển khai thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất mà thực chất là mở rộng cung tiền;
(ii) Hạ lãi suất cơ bản từ 14% xuống 8,5% và cặp lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn xuống 7,5% và 9,5%;
(iii) Giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền đồng xuống còn 5%;
(iv) Thực hiện thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN. Nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là mua giấy tờ có giá để cung ứng thêm tiền;
(v) Duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong gần suốt năm 2009, tăng lên 8% vào tháng 11/2009. Kết quả là tốc độ tăng trưởng tín dụng lên tới mức kỷ lục gần 40% vào năm 2009 và lạm phát tạm thời ở mức 6,9% - tỷ lệ cao nhất trong khu vực vào thời gian đó.
Ðóng góp vào thành tích này là nỗ lực mở rộng chi tiêu của chính sách tài khóa. Trước hết là gói kích cầu tới 160.000 tỷ (gồm cả 17.000 tỷ hỗ trợ lãi suất) chiếm 10% GDP vào năm 2009 (mức hỗ trợ vào loại cao nhất thế giới xét ở tỷ lệ phần trăm so với GDP. Ở các nước G20 khối lượng kích cầu chỉ chiếm khoảng 2%/GDP mà đã đem lại mức bội chi ngân sách trên 10%) để đầu tư và trợ cấp cho các khu vực bị tổn thương. Cùng với nó là các giải pháp mở rộng chi tiêu và đầu tư (các thành quả của năm 2008 về cắt giảm chi tiêu công, hoãn và phân bổ lại vốn cho các dự án hầu như bị xóa bỏ), chính sách giãn thuế, giảm thuế đã được đưa ra để kích cầu đầu tư và tiêu dùng (19 nhóm hàng hóa, dịch vụ được giảm 50% thuế VAT; 6 ngành nghề được giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 9 tháng; thuế thu nhập cá nhân được miễn cho hộ nghèo 6 tháng đầu năm 2009…) có tác dụng điều tiết hiệu ứng phân phối lại của lãi suất cho cá nhân và doanh nghiệp, hỗ trợ phần nào mục tiêu kích thích kinh tế trong năm 20092. Nỗ lực này khiến Việt Nam duy trì được mức tăng trưởng 5,3% - mức tăng trưởng dương hiếm hoi sau khủng hoảng. Nền kinh tế đã không rơi vào tình trạng đổ vỡ hàng loạt do ảnh hưởng của khủng hoảng.
III- GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VĨ MÔ THẬN TRỌNG NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ DUY TRÌ MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG NĂM 2010.
Nghị quyết số 18/NQ-CP 4/2010 xác định cả hai mục tiêu cho năm 2010: kiềm chế mức lạm phát khoảng 7% (tương tự như 2009) và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng khoảng 6,5%. Trong thực tế, khoảng nửa đầu năm 2010, CSTT tuân thủ định hướng hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng (mục tiêu tăng trưởng dư nợ tín dụng là 25% và M2 là 20%), kiểm soát rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng và cơ cấu dư nợ. Các giải pháp này là khá tương thích theo nghĩa: yêu cầu chất lượng tín dụng cao sẽ làm giảm nhu cầu tín dụng ảo và hạn chế tình trạng rủi ro do lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Bên cạnh đó, việc xem xét lại và nâng cao tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng theo Thông tư 13 và Thông tư 19/2010/NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD (mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều vào thời điểm ban hành) đã thể hiện một động thái tích cực của NHNN nhằm hạn chế việc cung ứng tín dụng quá năng lực dự phòng rủi ro và đảm bảo an toàn của từng ngân hàng và cả hệ thống. Với cố gắng này, NHNN có kỳ vọng vốn tín dụng sẽ tới được với những đối tượng sử dụng vốn có hiệu quả và bằng cách đó, kiểm soát được lạm phát mà vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng. Cho đến nửa đầu năm 2010, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dung chỉ có hơn 10% và bị chỉ trích là CSTT quá chặt chẽ, kiềm chế tăng trưởng. Thời điểm này, hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản hệ thống, các ngân hàng thiếu nguồn nội tệ cho nhu cầu vay, tỷ lệ sử dụng vốn ở thị trường II lớn (đặc biệt là các ngân hàng nhỏ, cơ sở khách hàng yếu). CSTT bị đặt trong tình thế lựa chọn: tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thận trọng từ đầu năm (lựa chọn này thích ứng với yêu cầu kiểm soát lạm phát, giúp kiểm soát được trạng thái thanh khoản của hệ thống) và chấp nhận lãi suất tăng lên hay quay lại duy trì tốc độ tăng trưởng, nới rộng tín dụng, hạ lãi suất và rơi vào vòng xoáy của rủi ro thanh khoản. Trong thực tế CSTT đã rơi vào điểm bẫy vĩ mô khi vừa chống đỡ tình trạng thiếu vốn vừa phải khống chế lãi suất huy động vốn nhằm giảm lãi suất cho vay vì mục tiêu tăng trưởng và chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp3. Với các giải pháp nới rộng cung tiền, chỉ trong 6 tháng cuối năm, dư nợ tín dụng đã tăng tới 18% và đưa tổng mức dư nợ tín dụng tăng tới gần 28% so với năm 2009 (vượt 12% so với cam kết). Kết quả là cả hai mục tiêu đều vượt chỉ tiêu của Quốc hội: tốc độ tăng trưởng vượt 104% và tỷ lệ lạm phát vượt 168%!
Chính sách tài khóa cũng theo đuổi mục tiêu nới rộng tổng cầu trong suốt năm 2010 nhằm kích thích tăng trưởng. Nếu như năm 2008, một số dự án bị ngừng hoặc dãn tiến độ và khu vực xây dựng cơ bản không tăng so với 2007 thì đến 2010, giá trị sản xuất xây dựng tăng 23,1% so với 2009 (năm được đầu tư mạnh bởi các gói kích cầu), vốn đầu tư khu vực nhà nước tăng 10% so với 2009 (Chú ý rằng vốn đầu tư khu vực nhà nước năm 2009 tăng tới hơn 40% so với 2008). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế tăng 17,1% so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP, trong đó một tỷ lệ lớn nguồn vốn trái phiếu Chính phủ ứng trước để bổ sung và đẩy nhanh tiến độ một số dự án hoàn thành trong năm 2010. Bội chi ngân sách lên tới hơn 6% GDP, tỷ lệ nợ công là 56,6% (theo cách tính của Luật Nợ công Việt Nam).
IV- GIAI ĐOẠN ƯU TIÊN VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT NĂM 2011 – 2012.
Lần đầu tiên, tuyên bố mục tiêu vĩ mô và cam kết thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát thể hiện sự nhất quán cao trong tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ theo Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011. Theo đó, cả CSTT và chính sách tài khóa đều được yêu cầu sử dụng triệt để các công cụ chính sách nhằm ưu tiên kiềm chế lạm phát. CSTT một lần nữa quay lại thực hiện thắt chặt với mục tiêu trung gian gồm dư nợ tín dụng tăng trưởng dưới 16%, M2 tăng dưới 20%. NHNN đã triển khai các chính sách cụ thể nhằm đạt mục tiêu này, gồm:
(i) Yêu cầu các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với mục tiêu tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất kinh doanh, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ xuống mức 22% đến 30/06/2011 và 16% đến 31/12/2011.
(ii) Lãi suất chiết khấu tăng từ 7%/năm lên 12->13%/năm, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 10->11->12->13->14->15->16%/năm.
(iii) Nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nghiệp vụ hút tiền ròng trong phần lớn thời gian của năm 2011 (tính đến cuối tháng 6/2011, mức cung ròng qua OMO là không đáng kể: hơn 13.000 tỷ đồng và tính đến cuối năm 2011 lượng hút ròng 111.365 tỷ đồng 4.
(iv) Tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng với các chế tài xử phạt nghiêm khắc của nội bộ từng ngân hàng.
(v) Xây dựng và triển khai chiến lược cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từng bước nhằm nâng cao tính hiệu quả, giảm mức độ rủi ro và cải thiện sức mạnh cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Chủ trương này cũng nhằm giải quyết tận gốc căn nguyên của tình trạng mặt bằng lãi suất cao hiện nay (về phía ngân hàng).
(vi) Triển khai đồng bộ các giải pháp đối với thị trường ngoại tệ, thị trường vàng nhằm mục tiêu giảm sự di chuyển vốn lòng vòng giữa tài sản được coi như tiền (money likes) - một trong các yếu tố gây áp lực lên lãi suất nội tệ, triệt tiêu tác động của CSTT. Kết quả là mức tăng M2 và tín dụng của cả năm 2011 đạt dưới 10% và trên 12% (số liệu ước tính theo công bố của NHNN đầu năm 2012), thấp hơn nhiều so với mức tăng trung bình của các năm trước. Ðây là mức thắt chặt thấp hơn đáng kể so với mức tăng định hướng đã nêu trong Nghị quyết 11 nhằm hướng tới giảm tổng cầu. Tuy vậy, sự quyết liệt trong giảm tổng cầu từ phía CSTT đã không đạt được kết quả mong muốn. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng đạt 5,89% thì tỷ lệ lạm phát vẫn tiếp tục tăng tới mức kỷ lục gần 19% (mức tăng cao so với mục tiêu đã được điều chỉnh là 15% cho năm 2011).
Nguyên nhân có thể nhìn một phần ở thực trạng thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt năm 2011. Các giải pháp cắt giảm chi tiêu công được đưa ra khá quyết liệt: Không kéo dài thời gian giải ngân, không ứng trước kế hoạch năm 2012 vốn ngân sách và trái phiếu chính phủ, giảm 32% vốn trái phiếu chính phủ, giảm 10% tín dụng đầu tư của nhà nước. Yêu cầu cắt giảm đầu tư công theo tinh thần Nghị quyết 11 được coi là giải pháp quyết liệt và cần thiết để kiềm chế lạm phát. Mục tiêu của chủ trương này gắn liền với chiến lược tái cấu trúc đầu tư công, thúc đẩy tiến độ, đầu tư trọng điểm vào các dự án cần thiết và phân bổ lại tổng nguồn vốn đầu tư xã hội nhằm đảm bảo tính hiệu quả của vốn đầu tư. Bằng cách đó mà kiểm soát tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư, giảm áp lực lên mặt bằng giá cả. Dự kiến trong năm 2011, số vốn cắt giảm chiếm khoảng 10% GDP (tương đương 97.000 tỷ đồng), trong đó tới 50.000 tỷ đồng giảm do khâu kế hoạch chi đầu tư công 2011 giảm so với thực hiện năm 2010. Số vốn cắt giảm do thực hiện các giải pháp quy định tại Nghị quyết số 11 là 46.888,3 tỷ đồng, trong đó riêng vốn ngân sách nhà nước cắt giảm là 5.128 tỷ đồng, vốn trái phiếu chính phủ là 2.547,5 tỷ đồng; các tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty nhà nước cắt giảm 39.212,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo số liệu đến tháng 8/2011, tổng số dự án ngừng khởi công mới, cắt giảm và điều chuyển là 2.103 dự án với tổng số vốn là 6.532,7 tỷ đồng, trong đó ngừng khởi công mới 1.206 dự án với số vốn cắt giảm 3.768,5 tỷ đồng; cắt giảm, điều chuyển vốn của 897 dự án với số vốn 2.764,2 tỷ đồng. Bên cạnh đó, một số lượng không nhỏ các dự án mới không thuộc đối tượng đầu tư của vốn trái phiếu chính phủ hoặc không phải dự án được đầu tư năm 2011 lại được đưa thêm vào danh mục đầu tư năm 2011. Có thể nhận thấy, kết quả ròng của chủ trương giảm đầu tư công năm 2011 là rất khiêm tốn, không đem lại hiệu ứng mong muốn. Tuy vậy, mức thu ngân sách tăng 20% so với năm 2010 và bội chi giảm nhẹ ở mức 4,9% thấp so với mức mục tiêu 5,3% (Hình 2).
Hình 2: Thu, chi và bội chi ngân sách Nhà nước 2001-2011 (%/GDP)
Nguồn: Bộ Tài chính, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Những dấu hiệu đình đốn kinh tế từ cuối năm 2011
Có một thực tế cần quan tâm là, ngay từ năm 2011, những dấu hiệu đình đốn đã xuất hiện. Mặc dù NHNN khống chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín ở mức 20%, nhưng mức tăng thực tế chỉ là 12%. Thậm chí, NHNN bắt đầu thể hiện dấu hiệu nới lỏng từ quý IV năm 2011 nhưng nhu cầu tín dụng vẫn rất thấp, báo hiệu tình trạng đình đốn của khu vực sản xuất, giảm nhu cầu tín dụng, chỉ số giá đã bắt đầu giảm từ tháng 8/2011. Tính đến quý I/2012, dấu hiệu đình đốn sản xuất rõ nét với tỷ lệ tăng sản xuất công nghiệp là 4,1% (so với 9,3% cùng kỳ năm 2011), mức bán lẻ chỉ là 5% (thấp xa so với số liệu cùng kỳ từ 2006), tốc độ tăng trưởng kinh tế là 4% (thấp nhất từ 2007 đến nay) (Hình 3)
Hình 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát 2000-2012
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thực trạng này dẫn tới lượt chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang thúc đẩy phục hồi kinh tế, sử dụng CSTT cho năm 2012.
Có thể nhìn thấy các động thái này qua ba lần cắt giảm lãi suất 300 điểm liên tiếp, đưa mức trần lãi suất xuống 11% từ 25/5/2012, liên tiếp hạ lãi suất chỉ đạo, áp trần lãi suất 15%/năm rồi giảm xuống 14%/năm cho 4 khu vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn; doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Cơ cấu lại nợ (thời hạn trả nợ, lãi suất, cho vay mới trả nợ cũ,...) và các giải pháp khác cần thiết, phù hợp với từng loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay được vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc quy định nới rộng tín dụng cho khu vực bất động sản với mục đích thúc đẩy sản xuất các ngành vật liệu xây dựng và giải phóng các khoản nợ đọng của ngân hàng trong tài sản đảm bảo là bất động sản.
Các đợt giảm và hoãn thuế cũng được sử dụng từ 2011, tiếp tục được sử dụng cho hỗ trợ doanh nghiệp trong năm 2012 với quy mô khoảng 29.000 tỷ đồng5 nhằm:
(i)Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với một số doanh nghiệp.
(ii) Giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối… Tuy vậy, hiệu ứng hỗ trợ của chính sách thuế sẽ rất khiêm tốn bởi: i/ Một số doanh nghiệp đang ở trong diện gia hạn nộp thuế từ đợt gia hạn năm 2011, kỳ gia hạn này chỉ kéo dài hơn thời hạn chứ không tạo nên sự hỗ trợ vật chất thực sự.
(iii) Một bộ phận doanh nghiệp không nhỏ đang trong giai đoạn cầm cự và tồn tại. Với tỷ lệ tồn kho cho đến tháng 5/2012 khoảng 30 - 40% bình quân thì khả năng có nguồn nộp thuế để hưởng chính sách giảm thuế là không khả thi trong một vài tháng tới.
(iv) Gói hỗ trợ được dự tính ảnh hưởng khoảng 9% thu ngân sách sẽ gây áp lực lên mức bội chi ngân sách vốn đã rất nặng nề có thể sẽ có những hệ lụy khác.
C. NHỮNG VẤN ĐỀ NẢY SINH CHỦ YẾUTRONG THỰC TẾ KHI PHỐI HỢP 2 CHÍNH SÁCH
I- CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH CHƯA LÀNH MẠNH.
Bản chất của CSTT là kiểm soát cung tiền hoặc lãi suất nhằm duy trì mức lạm phát mục tiêu và góp phần tăng trưởng kinh tế. Chính sách tài khoá thực hiện chi tiêu công và phải có trách nhiệm đảm bảo các khoản chi tiêu đó đem lại hiệu quả bởi cơ chế phân bổ vốn hợp lý, đó là nhân tố quyết định đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo nền tảng cho CSTT phát huy hiệu lực. Thiếu điều kiện nền tảng này, các điều tiết mở rộng hay thu hẹp chính sách tài khóa thực chất không đem lại kết quả bền vững, ngược lại, CSTT có thể phải gánh cho những vấn đề của chính sách tài khóa.
Quy mô chi ngân sách quá cao, tới trên dưới 30% GDP (là mức cao so với thế giới) quá sức chịu đựng của nền kinh tế; tỷ trọng chi đầu tư phát triển ở mức cao6, thể hiện mức độ chi phối của chính phủ vào khu vực sản xuất và phần nào làm giảm hiệu quả và tính cạnh tranh của khu vực này (đến lượt nó, khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách sẽ hạn chế); chi tiêu dàn trải cho nhiều đối tượng, thiếu quy hoạch và chiến lược chi tiêu trong trung và dài hạn; sử dụng nguồn vốn ngân sách lãng phí, hiệu quả thấp, tham nhũng; vấn đề quản lý và giám sát chi tiêu chưa hợp lý, vấn đề phân cấp trong quản lý đối với ngân sách các cấp.
II- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ CHƯA CÓ SỰ PHỐI HỢP TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH VÀ VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHÍNH SÁCHỞ TẦM NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN.
Trong thời gian từ năm 2008 đến nay, cả chính sách tài khóa và CSTT đều được vận dụng tối đa cho các yêu cầu ổn định vĩ mô, khôi phục hệ thống doanh nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy vậy, các yêu cầu này được thực hiện một cách bị động khi vấn đề đã nảy sinh và các chính sách được sử dụng để giảm nhẹ hậu quả. Vì thế, trong quá trình triển khai, mỗi chính sách thường sử dụng công cụ riêng của mình và theo đuổi các mục tiêu chính sách riêng. CSTT một mặt nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát nhưng vừa phải duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đôi khi các mục tiêu này lại mâu thuẫn với yêu cầu tăng trưởng hoặc tháo gỡ khó khăn cho hệ thống doanh nghiệp. Chính sách tài khóa cũng vừa phải thực hiện yêu cầu kiểm soát hoặc cắt giảm chi tiêu, vừa thực hiện chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước, đảm bảo an sinh xã hội. Vì thế mà rất khó thực hiện yêu cầu cắt giảm chi tiêu cũng như yêu cầu đảm bảo phân bổ chi tiêu đúng đối tượng và có hiệu quả (bởi các đối tượng tiếp nhận vốn ngân sách lại thường sử dụng không hiệu quả). Tình trạng này dẫn tới mâu thuẫn và khó khăn trong việc phối hợp giữa hai chính sách ở Việt Nam.
CSTT luôn được sử dụng là công cụ chủ yếu để điều chỉnh nền kinh tế, cả khi ưu tiên chống lạm phát hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách tài khoá đôi khi chưa thật thắt chặt trong thời kỳ lạm phát cao và chưa phát huy hết vai trò trong thời kỳ ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Thực tế việc định lượng các mục tiêu kinh tế vĩ mô thường dựa vào mức đã đạt được năm trước mà ít có sự dự báo những biến động trong kỳ kế hoạch và độ trễ của các chính sách trong thời kỳ trước. Ðặc biệt, từ năm 2008, các chỉ tiêu vĩ mô phản ánh mục tiêu chính sách thường xuyên bị điều chỉnh căn cứ vào năng lực đạt được mục tiêu của nền kinh tế. Ðiều này thể hiện việc xây dựng mục tiêu chính sách khá hình thức, giảm lòng tin đối với thị trường và ảnh hưởng đến sự phối hợp chính sách một cách chủ động.
III- THIẾU NỀN TẢNG KỸ THUẬT LÀM CĂN CỨ CHO SỰ PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH.
Nền tảng dự báo những biến động vĩ mô trên cơ sở nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng trong và ngoài nước là căn cứ quan trọng cho việc xây dựng mục tiêu, lựa chọn công cụ chính sách và vạch ra lộ trình thực hiện chính sách. Các thông tin và kết quả dự báo chính xác sẽ giúp để kiểm soát độ trễ trong các tác dụng của từng chính sách, tạo nên sự bình tĩnh bài bản của các quyết sách,tránh những phản ứng tức thời gây hệ lụy và sửa chữa sau đó. Hiện nay nền tảng dữ liệu, hệ thống thông tin, kỹ thuật dự báo, đội ngũ chuyên gia, tư vấn trong dự báo chưa được quan tâm đúng mức. Nguồn lực dự báo đang rất yếu và lại phân tán ở các đơn vị khác nhau. Các kết quả dự báo đôi khi mâu thuẫn, và độ tin cậy không được thẩm định. Tác dụng của các kết quả nghiên cứu này chưa được tận dụng triệt để và vì thế trở nên lãng phí.
IV- VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CÁC CƠ QUAN CHÍNH SÁCH CHƯA ĐƯỢC THIẾT LẬP MỘT CÁCH CHÍNH THỨC.
Nhiệm vụ này chưa tạo thành thói quen cho các cơ quan chính sách ở Việt Nam. Vì thế, thị trường không được cung cấp thông tin đầy đủ và cập nhật. Các nhà làm chính sách mất đi một kênh triển khai chính sách hiệu quả thông qua kỳ vọng hợp lý của thị trường. Việc cung cấp thông tin không chính thống cộng với mức độ thấp trong trách nhiệm giải trình của các cơ quan chính sách còn gây nên sự thiếu tin tưởng của thị trường, đồng thời, không tạo cho các nhà làm chính sách áp lực trong việc xây dựng và cam kết thực hiện mục tiêu.
Có thể thấy vấn đề bao trùm trong thực tế phối hợp chính sách thời gian qua là ở chỗ: chi tiêu ngân sách đã vượt quá khả năng khai thác nguồn thu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế khi chỉ số ICOR liên tục tăng theo thời gian. Phần chênh lệch gây áp lực lên hệ thống ngân hàng và làm sai lệch bản chất hoạt động của hệ thống cũng nhu giảm hiệu lực của CSTT. Ðiều này cộng với hệ thống ngân hàng đang trong tình trạng dễ tổn thương, liên kết hệ thống trong tình trạng rủi ro cao, hoạt động trong bối cảnh thị trường vốn trung dài hạn chưa phát triển, tỷ lệ đòn cân nợ rủi ro trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp đang làm ảnh hưởng sâu sắc tới hiệu lực CSTT cũng như khả năng phối hợp chính sách.
PHẦN III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Cân đối ngân sách cần lành mạnh và tích cực để đảm bảo tính bền vững của ngân sách
Chính sách tài khóa cần thực hiện quyết liệt hơn, đặc biệt là trong vấn đề giảm chi tiêu công. Tránh tình trạng chính sách tài khóa duy trì theo hướng ”bảo thủ” trong khi CSTT liên tục đảo chiều ở mức độ cao theo những biến động của nền kinh tế. Yếu tố quyết định khả năng này nằm ở mức độ lành mạnh và bền vững của cân đối ngân sách thể hiện trước hết ở quy mô, cơ cấu nguồn thu, cơ sở thuế, phí, mức thuế, phí (tỷ lệ thu cân đối ngân sách biến động ở mức cao 23 - 25%GDP) và kỷ luật thu, sự công bằng và minh bạch trong chính sách thuế áp dụng với các đối tượng chịu thuế, phí, chính sách khai thác nguồn thu và nuôi dưỡng nguồn thu. Cần tăng tỷ trọng nguồn thu nội địa, hạn chế phụ thuộc vào nguồn thu xuất khẩu tài nguyên, giảm bớt tình trạng sử dụng chính sách thuế cho yêu cầu chính sách xã hội, tăng tỷ trọng thuế trực thu so với thuế gián thu.. là các yêu cầu bức thiết cho một cấu trúc thu ngân sách bền vững. Tất cả các chỉ tiêu của một chính sách thu ngân sách bền vững đều đang thiếu khi xem xét sự biến động nguồn thu ngân sách của Việt Nam hiện nay.
Quy mô, cơ cấu chi tiêu ngân sách, hiệu quả chi tiêu, đầu tư, cơ chế phân bổ vốn ngân sách, đối tượng, mục tiêu sử dụng vốn ngân sách cần có cải cách một cách hệ thống trong thời gian tới. Cần có hướng tiếp cận tích cực đối với việc xây dựng kế hoạch ngân sách hàng năm xuất phát từ nguồn thu mà không xuất phát từ nhu cầu chi tiêu ngân sách như hiện nay. Ðiều này sẽ hạn chế tình trạng bội chi ngân sách và đảm bảo nguồn bù đắp cho mức bội chi đó. Một ngân sách bền vững mới có thể trở thành bệ đỡ và là công cụ chính sách linh hoạt, có sức mạnh chống đỡ các cú sốc vĩ mô trong mọi trường hợp.
NHNN và Bộ Tài chính cần có sự phối hợp trong việc xác định mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời kỳ và phải tuân thủ điều phối chung cho mục tiêu đó
Trong thời gian tới, Chính phủ nên xem xét đến việc chuyển đổi khung mục tiêu chính sách theo hướng thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát linh hoạt - Flexible Inflation Targeting (FIT) nhằm hướng hai chính sách vào mục tiêu chung. Theo đuổi chính sách này, cả NHNN và Bộ Tài chính sẽ cùng tham gia xác định khung mục tiêu chính sách cho giai đoạn trung hạn, tạo thế chủ động và linh hoạt trong quá trình phối hợp để đạt mục tiêu. Mặt khác, chính sách FIT cho phép quan tâm cả mục tiêu kiểm soát lạm phát và mục tiêu tăng trưởng thông qua chỉ số độ lệch sản lượng. Ðiều chỉnh này rất tương thích với việc lựa chọn mục tiêu của các nước đang phát triển như Việt Nam. Chủ trương cũng như sự quyết tâm theo đuổi mục tiêu ổn định vĩ mô của Chính phủ trong thời gian qua là bước dấu hiệu quan trọng cho phép triển khai chính sách FIT ở Việt Nam trong thời gian tới.
Thiết lập cơ chế cho việc cung cấp thông tin, minh bạch kỳ vọng chính sách và trách nhiệm giải trình của các cơ quan chính sách
Trước hết, cần thiết lập một Ủy ban chính sách tài chính (có thể cải cách lại Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia hoặc do NHNN chủ trì) bao gồm các chuyên gia chính sách của NHNN và Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ủy ban Giám sát tài chính và các bộ ngành liên quan (trong trường hợp cần thiết). Ủy ban này có nhiệm vụ triển khai các yêu cầu phối hợp giữa hai bộ, xây dựng hệ thống mục tiêu trong trung hạn và trình Chính phủ. Các dự báo, giải trình căn cứ xây dựng mục tiêu cần được công khai hóa. Tất cả các bước triển khai thực hiện mục tiêu, mức độ đạt được mục tiêu cần được giải thích cho thị trường cũng như các cấp có thẩm quyền. Trong hệ thống này, các yêu cầu minh bạch và trách nhiệm giải trình cũng được yêu cầu đối với cả chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Cũng cần xây dựng một trung tâm dự báo kinh tế quốc gia chính thức gồm các chuyên gia đầu ngành về dự báo (có thể nằm ở Tổng cục Thống kê, Ủy ban Giám sát hoặc Viện Quản lý kinh tế Trung ương...) có đủ năng lực và nguồn lực thực hiện dự báo cho nền kinh tế trong trung hạn. Các kết quả dự báo này là nguồn thông tin chính thức và tin cậy nhất, làm căn cứ cho việc xây dựng mục tiêu chính sách.
Trong thời gian tới, năm 2012 - 2013, những biến động vĩ mô sẽ trở nên phức tạp hơn và không dễ để đối phó. Những dấu hiệu kinh tế suy giảm, sức cầu giảm sâu, đặc biệt là cầu đầu tư, nguy cơ lạm phát thường trực bởi chỉ số lòng tin của người tiết kiệm và người đầu tư đối với môi trường vĩ mô và hệ thống tài chính là rất nhỏ. Các chỉ số tài chính như: bội chi ngân sách, nợ công, nợ nươc ngoài, hiệu quả đầu tư, độ lành mạnh của hệ thống ngân hàng, lãi suất... đang ở mức độ rất dễ tổn thương. Việc điều chỉnh các chỉ số này cho mục tiêu tăng trưởng hay kiềm chế lạm phát sẽ gây nên những tác động trái chiều nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai CSTT và chính sách tài khóa một cách bài bản và thực chất. Trước mắt, các yếu tố nền tảng cho yêu cầu phối hợp chính sách cần phải được thiết lập. Việc vận hành linh hoạt công cụ thuế, lãi suất với cơ cấu và điều chỉnh thích hợp theo mục tiêu vĩ mô xác định sẽ là hướng phối hợp cần thiết trong thời gian tới.
1 5 mảng phối hợp trong bản Quy chế:
1. Phối hợp xây dựng và điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ;
2. Phối hợp trong việc phát triển và thanh tra, giám sát thị trường tài chính;
3. Phối hợp quản lý ngân quỹ của Chính phủ và phát triển hệ thống thanh toán;
4. Phối hợp quản lý nợ quốc gia và quản lý vốn ODA;
5. Phối hợp trong hợp tác quốc tế.
2 Chính sách này trong thực tế chỉ có hiệu ứng tâm lý mà ít đem lại hiệu quả kích thích đầu tư cho doanh nghiệp. Xem Tô Kim Ngọc (2009) Giới hạn của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong kích cầu ở VN - Tạp chí Ngân hàng (8/2009).
3 (i) Giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn ở mức lần lượt 8%, 6%, 8%/năm đến tháng 10/2009, sau đó đã tăng thêm 1%/năm với các mức lãi suất điều hành, ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND không quá 14%/năm;
(ii) Nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá ngắn hạn;
(iii) Tăng khối lượng cho vay tái cấp vốn, hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các NHTM có quy mô nhỏ nhằm ổn định thị trường. Năm 2010, tổng phương tiện thanh toán tăng 23%; tín dụng tăng 27,65% so với cuối năm 2009 đều vượt quá mục tiêu đề ra của NHNN là 25% và 20%.
4 Lượng cung ròng qua OMO với quy mô lớn và liên tục từ 100.685 tỷ năm 2008, tới 122.830 tỷ năm 2009 và gấp đôi tới 294.304 tỷ vào 2010 (Nguồn NHNN).
5 (gồm: khoảng 4.000 tỷ đồng tiền thuế được giảm cho các DN sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực đặc thù; khoảng 4.100 tỷ đồng tiền gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng của tháng 4, tháng 5 và tháng 6 thêm 6 tháng cho đối tượng DN; khoảng 3.500 tỷ đồng là phần gia hạn nợ thuế TNDN chưa nộp Ngân sách của năm 2011 trở về trước cho một số DN theo Nghị quyết 08/2011/QH13 và mở rộng thêm một số DN sản xuất sản phẩm cơ khí, vận tải đường thủy…; khoảng 3.000 tỷ đồng là khoản phí bảo trì đường bộ, xin lùi thời hạn thu đến hết 31/12/2012; một số khoản nhỏ khác, như mở rộng diện giảm tiền thuê đất 800 tỷ đồng, giãn thời gian nộp tiền sử dụng đất, miễn thuế môn bài… ).
6 Số liệu này luôn vượt dự toán và biến động khoảng từ 26-30%/ tổng chi tiêu ngân sách hàng năm (Nguồn: Báo cáo NS hàng năm- MOF).
LỜI KẾT
Qua tìm hiểu và độ sâu vào nghiên cứu chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ, giúp sinh viên nhận thức một cách khách quan về tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam, thực trạng phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong việc thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô, thấy được những vấn đề nảy sinh trong thực tế phối hợp hai chính sách đó và đưa ranhững kiến nghị góp phần khắc phục những rào cản của hai chính sách này đối với nền kinh tế.
Nghiên cứu vấn đề này không chỉ cho sinh viên có một cách nhìn khách quan mà quan trọng hơn cả là phục vụ cho việc học tập. Vấn đề về các chính sách kinh tế vĩ mô tạo tiền đề vững chắc cho những môn học chuyên nghành sau này, giúp ích cho việc học tập và tương lai.
Nhóm 04 – Tổ 02 tuy đã có nhiều sự cố gắng để hoàn thành bài nghiên cứu, nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót, mong cô và các nhóm góp ý để bài viết của chúng em thêm hoàn thiện hơn.
Xin cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam 2012 - 2013, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, 2011.
2. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội trình bày tại kỳ họp Quốc hội cuối năm và giữa kỳ các năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012.
3. Các Nghị quyết, công văn của Chính phủ về điều hành, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từ năm 2008 - 2012.
4. Kỷ yếu hội thảo quốc tế Chính sách tiền tệ phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong điều kiện kinh tế thế giới biến động, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, 2011.
5. Các website của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê...
6. Fredric S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking, and Financial Markets, the seventh edition, Pearson - Addison We
7. Kinh tế học vĩ mô _ Davi Begg _ Nhà xuất bản thống kê. Trang 137 – 140.
8. Trang UpdateBook.VN – Thư viện trực tuyến.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.doc