Tài liệu Tiểu luận Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện: TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
-----[\ [\-----
TIỂU LUẬN
Đề tài:
Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
--0o0--
Chơng 1
chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
thị trờng .
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô
do Ngân hàng trung ơng khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của
mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trởng
kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nớc, chính sách tiền tệ có thể đợc xác lập theo hai hớng: chính
sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm
thất nghiệp nhng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền
tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu t vào sản xuất kinh doanh từ đó
làm giảm lạ...
26 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
-----[\ [\-----
TIỂU LUẬN
Đề tài:
Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
--0o0--
Chơng 1
chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
thị trờng .
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô
do Ngân hàng trung ơng khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của
mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trởng
kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nớc, chính sách tiền tệ có thể đợc xác lập theo hai hớng: chính
sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm
thất nghiệp nhng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền
tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu t vào sản xuất kinh doanh từ đó
làm giảm lạm phát nhng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nớc thì
chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp
vào lĩnh vực lu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế
vĩ mô khác nh chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ơng ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền
tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ
quốc gia đợc thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
*ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay
giảm giá trị đồng tiền của nớc mình.Giá trị đồng tiền ổn định đợc xem xét trên 2 mặt: Sức
mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nớc)và sức mua đối
ngoại(tỷ giá của đồng tiền nớc mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hớng tới ổn định giá
trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì nh vậy nền kinh tế không thể phát triển
đợc,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hởng trực tiếp tới việc
sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hởng
tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận
một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trởng kinh tế :Tăng trởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong
việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trởng đó
ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của
dân chúng đối với Chính phủ .Mục tiêu này chỉ đạt đợc khi kết quả hai mục tiêu trên đạt
đợc một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời.
Nhng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau
thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt đợc các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW
trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3 Các công cụ của CSTT :
1.3.1.Nghiệp vụ thị trờng mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị
trờng mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lợng tiền cung ứng.
Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng
lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trờng mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi
lợng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi
ngay lợng tiền mặt trong lu thông(C)
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trờng nên đây đợc coi là một công cụ
rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lợng chứng khoán mua( bán ) tỷ lệ
với qui mô lợng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo ngợc tình
thế.Tuy vậy, vì đợc thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các
chủ thể khác tham gia trên thị trờng và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có
sự phát triển đồng bộ của thị trờng tiền tệ ,thị trờng vốn.
1.3.2 Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do NHTW qui
định ,gửi tại NHTW,không hởng lãI,không đợc dùng để đầu t,cho vay và thông thờng đợc
tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng
thanh toán,sự ổn định của hệ thống ngân hàng
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hởng trực tiếp đến số nhân
tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm )
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất
cho vay tăng (giảm),từ đó làm cho lợng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nớc nên giúp NHTW chủ
động trong việc đIều chỉnh lợng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần
thay đổi một lợng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hởng tới một lợng rất lớn mức cung
tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp,
tốn kém và nó có thể ảnh hởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu:
Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các
NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh lãI suất táI chiết khấu (đối
với thơng phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết khấu(cửa sổ chiết khấu)
Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến
khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các NHTM
giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).Mặt khác khi
NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ
chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nớc có thị trờng cha phát triển (thơng phiếu cha phổ biến để có thể
làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho
vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.
Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là ngời cho vay
cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán ,và có thế
kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới việc đIều
chỉnh cơ cấu đầu t đối với nền kinh tế thông qua việc u đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ
thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các
NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về
cung cầu vốn trên thị trờng.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lợng tiền cung ứng,trong một nền
kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này thì sẽ không cần đến bất cứ một
công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các
giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì để đạt đợc mục tiêu của mình ,NHTW có thể sử dụng các
công cụ điều tiết trực tiếp sau:
1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức d nợ của các NHTM không đợc vợt
quá một lợng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm
soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên
cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ
phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vợt quá hạn mức do NHTW quy
định .
Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lợng tiền
cung ứng,việc quy định pháp lý khối lợng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ
thuận chiều với qui mô lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát đợc lợng tiền cung ứng khi các công cụ
gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn
phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhợc điểm của nó rất lớn :
triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến
kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở
nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm :NHTW đa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để
hớng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hởng tới qui mô tín dụng
của nền kinh tế và NHTW có thể đạt đợc quản lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hớng tăng hay giảm sẽ ảnh hởng
trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lợng tiền cung ứng thay
đổi theo.
Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của
từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi cha có điều kiện để phát huy tác dụng
của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền
kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải đợc hình thành từ chính
quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh
lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
Chơng 2
Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng thì quá trình thực hiện chính sách
tiền tệ cũng đợc xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lợng tiền cung ứng: Nếu nh trong thời kỳ bao cấp chúng ta chỉ quan
niệm lợng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở
thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về lợng tiền cung ứng
để thay đổi bên cạnh lợng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ
chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lợng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ
lệ lạm phát ớc tính, tốc độ tăng trởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ...
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Đợc sử dụng một cách linh hoạt,
phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng
nh thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm...)
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã đợc phân thành 2 cấp NHNN và các
NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nớc trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân
hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách
nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
2.2.1. Công cụ lãi suất:
ở Việt Nam, lãi suất đợc sử dụng nh công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó là yếu
tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá stập trung sang cơ chế thị trờng,
nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh
doanh.
Giai đoạn 1988- 1991: Chính sách lãi suất đợc thay đổi cơ bản: Lãi suất tiết kiệm cao
hơn tốc độ trợt giá (lạm phát ), nâng lãi suất tiền gửi và tiền vay của các tổ chức kinh tế
tiến gần với lãi suất huy động tiết kiệm.Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát
(%)
Biểu1: Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát(%).
Từ T3/81- T10/91
1. Lãi tiết kiệm
- Loại 3T
3/89 6/89 7/89 2/90 IV/90 7/91 10/91
12 9 7 7 4 3,5 3,5
- Loại không kì hạn 9 7 5 5 2,4 2,1 2,1
2. Lãi cho vay vốn lu
động
6,8-
6,5
5,1-
5,5
3-4 3-4 1,8 1,8 2,1-
3,7
3. Tốc độ ép + 5,4 - 2,9 -2,5 +0,2 +7,6 +2,5 +5,5
Nhờ việc tăng lãi suất huy động vốn đã thực hiện đợc chủ trơng của Nhà nớc là đâỷ
lùi lạm phát và có cơ sở để thực hiện việc tài trợ vốn cho các xí nghiệp quốc
doanh đang lâm vào tình trạng khủng hoảng lúc bấy giờ. Song xét trên bình diện toàn nền
kinh tế thì chúng ta đã thất bại trong lĩnh vực đầu t vì lãi suất cho vay quá cao, vốn ngân
hàng ứ đọng, nền kinh tế phát sinh các hoạt động kinh tế thiếu tính cực : vay tiền chơi đề,
hoặc để gửi lãi ăn chênh lệch. Tình trạng đó đã dẫn đến sự đổ bể của các HTX tín dụng
còn các NHTM thực chất là phá sản nếu không có bàn tay cứu giúp của Nhà nớc.
Việc thi hành chính sách lãi suất thực dơng đã đợc thực hiện nhng lại cha triệt để vì
thực tế với các ngân hàng thì lãi suất cho vay lại nhỏ hơn lãi suất huy động: Năm 1991 lãi
suất huy động tiết kiệm 45% năm; chỉ số trợt giá bình quân 43,4% năm ; lãi suất cho vay
40,2% năm.
Giai đoạn 1992-1995: Lãi suất đã bắt đầu đợc sử dụng nh công cụ chính của CSTT,
lãi suất thực dơng bắt đầu đợc duy trì từ cuối 1992, điều chỉnh linh hoạt cùng với tỉ lệ lạm
phát và bám sát thị trờng (trong thời gian 2 năm từ T8/1992-T8/1994 mức lãi suất đợc điều
chỉnh tới 6 lần), NHNN khống chế “sàn ” lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay và có một
bộ phận cho vay theo lãi suất thoả thuận (T8/1992: Lãi tiết kiệm loại 3 tháng: 2,3%, lãi
cho vay 2,5%, lạm phát +0,3%).
Để thực hiện nguyên tắc trên đồng thời tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay để khuyến
khích đầu t phát triển trong nền kinh tế một số biện pháp sau đây đã đợc sử dụng:
. Thay đổi cơ cấu nguồn vốn ngân hàng theo hớng tăng nhanh nguồn vốn có lãi suất
thấp ( tăng tiền gửi giao dịch, vốn tín dụng nớc ngoài, vốn ngân sách)
. Thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ theo hớng
tăng lãi suất đối với ngoại tệ: Lãi suất cho vay ngoại tệ năm 1993 là 7,5% lên 8,5% năm
1994 và 9,0% năm 1995 và điều chỉnh hàng tháng lãi suất ngoại tệ theo biến động lãi mất
thị trờng TCQT SINGAPORE.
. Qua việc quốc hội thông qua dự luật bỏ thuế doanh thu NH đã hỗ trợ cho NHNN
tiến thêm một bớc trong việc cải tiến lãi suất vào cuối T12/1995: Lãi suất cho vay ngắn
hạn tối đa giảm từ 2,1% tháng xuống 1,75% tháng ; lãi suất cho vay trung - dài hạn đợc
giữ nguyên không quá 1,7% tháng. Mặt khác có quy định để các NHTM tuân thủ chênh
lệch lãi suất bình quân giữa huy động và cho vay là 0,35% tháng.
Ngoài ra, từ T8/94: Chính sách lãi suất TD còn đợc cải cách theo hớng nâng lãi suất
tiền gửi có kì hạn lên gần với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân c cùng kì hạn để bảo đảm
lợi ích kinh tế chính đáng của họ và khuyến khích họ gỉ tiền vào ngân hàng. Đồng thời
thực hiện lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn: Năm 1994 giữ
nguyên mức lãi suất cho vay ngắn hạn; nâng lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn từ 1,2%
lên 1,7% tháng.
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các NHTM trong việc
ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và nhu cầu tín dụng thị trờng, tăng
sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo
điều kiện cho các NHTM thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu t theo mục tiêu chính sách tín
dụng.
Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất :“trần”
theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy
động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng) (4,2% năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và
tỷ lệ chênh lệch lãi suất đợc công bố, các NHTM đợc điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất
cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh
riêng. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối 1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm
từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất cho vay trung- dài hạn giảm 21% năm xuống còn
16,2% năm.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn d thừa từ thành thị về nông thôn thì lãi suất
cho vay ở nông thông đợc duy trì cao hơn một chút so với lãi suất cho vay ở thành thị.
Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trởng kinh tế và phù hợp xu hớng giảm
lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, T7/1997 lãi suất cho vay ngắn hạn
giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn giảm từ 1,35% tháng
xuống 1,1% tháng ,chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân quy định là 0,35%
tháng(4,2% năm)
Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hớng lên giá và lãi xuất tiền gửi bằng USD ở
mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở mức thấp nên đã có hiện tợng ngời gửi
tiền rút VND để chuyển sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân c găm giữ USD gây khó
khăn cho các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho thị
trờng tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một số NHTM cổ phần.
. Trớc tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998 / QĐ-
NHNN1 với nội dung chủ yếu là:
- Đa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND:
lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1,1- 1,25%
tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực thành thị và nông thôn.
Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế rút tiền VND tích trữ USD ,tăng
vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm nh trớc đây
đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại TCTD nhằm
hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng cờng cho việc quản lí
ngoại hối.
- Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD đợc điều chỉnh giảm từ 8,5 % xuống
7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành; đồng thời góp phần
mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.
Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn biến kinh tế
vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy động vốn và cho vay trong
nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các tổ chức tín dụng đều tăng lên điều đó cho
thấy mối tơng quan giữa lạm phát và lãi suất tiền gửi đợc coi là tơng đối hợp lý. Từ đó,
quy mô tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt tín dụng bằng VND có tốc độ
tăng cao hơn. Thị trờng ngoại tệ ,tỉ giá VND/USD lại trở về trạng thái tơng đối ổn định.
Bớc sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trởng chững lại, để phù hợp với chỉ
số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trờng tiền tệ và thực hiện giải pháp kích cầu
về đầu t của chính phủ , NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay bằng VND theo
xu hớng giảm: Từ 1,2% tháng (ngắn hạn) và (1,25%tháng -trung dài hạn) xuống mức thấp
nhất là 0,85% tháng (thành thị); 1% tháng (nông thôn); 1,15% tháng (NHTMCP nông
thôn- Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ ngời nghèo). Trần lãi suất cho vay bằng
USD là 7,5% năm.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với diễn biến của
nền kinh tế, kích thích tăng trởng kinh tế trong bối cảnh nguy cơ giảm phát đang là chậm
lại tốc độ tăng trởng.
Năm 2000, lãi suất trong nớc có những diễn biến khá phức tạp .Thực hiện chủ trơng
kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục đợc điều chỉnh theo xu
hớng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75% tháng xuống 0,70% tháng. Trong khi
đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của thị trờng tài chính quốc tế, trong năm 2000, lãi
suất thị trờng quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nớc cũng phải tăng theo (từ
3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: chuyển từ cơ
chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng
VND và cơ chế lãi suất thị trờng có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ: Đối với cho
vay VND, lãi suất cho vay không vợt quá lãi suất cơ bản đợc công bố hàng tháng. Hiện
nay, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho
vay trung và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không
vợt quá lãi suất USD trên thị trờng liên NH Singapore (SiBOR) kì hạn 3 tháng đôí với cho
vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên
độ do thống đốc NHNN quy định (Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1% năm , biên độ
cho vay trung dài hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ
trong hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định.
Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản nh trên cho thấy lãi suất cơ bản đợc xác định
trên cơ sở lãi suất thị trờng với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất của
NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bớc tiến mới, bớc đi tiếp theo trong tiến
trình tự do hoá lãi suất.
Nh vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá
VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong quá trình ổn
định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam và lòng tin của
dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng
bớc đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng phát triển cha cao, việc
sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam là hoàn
toàn cần thiết và đúng đắn.
2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ đợc coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của thời kì đổi
mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát: Những năm 1990-
1991do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6% tháng ). Để khống chế lạm phát, NHNN chủ trơng
thi hành CSTT “thắt chặt” ngay từ đầu năm để giảm bớt lợng tiền cung ứng. Dựa trên một
số chỉ tiêu vĩ mô dự kiến năm 1992 là: Tăng trởng kinh tế (4,5%); chỉ số lạm phát (30%/
năm), NHNN đa ra hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM là 34,5% (mức tăng
so với năm trớc) . Bằng nhiều biện pháp kết hợp, năm đó chúng ta đã đạt đợc kết quả thực
tế rất khả quan: mức tăng trởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm
phát thấp hơn dự kiến rất nhiều (17,6%), tiền tệ đi dần vào ổn định.
ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH Ngoại thơng,
NH Công thơng, NH Nông nghiệp, NH đầu t phát triển) nhng sau vài năm đổi mới, do quy
mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, số lợng các NHTM ngày càng nhiều nên
NHNN quyết định áp dụng hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM. Tính đến cuối năm
1997 có 26 NHTM trong nớc phải áp dụng hạn mức tín dụng còn các NH nớc ngoài và
NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị phần tín dụng trong nớc)
nhng vẫn cha phải áp dụng hạn mức tín dụng.
Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính
sách tiền tệ “thắt chặt” để kiểm soát lạm phát từ đó đa ra rỉ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa
phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tợng phổ biến là hầu hết các
NHTM đều có xu hớng vợt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng đợc giao, cụ thể .
Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998).
Năm
Danh mục
1995 1996 1997 Quỹ T D
/1998
KH giao Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
Tăng so với
năm trớc
21% 37,8% 25% 29% 21% 26,4% 4% 4,8%
Hiện tợng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân hàng năm của
các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các NHTM tất yếu phải thực
hiện đầu t tăng trởng tín dụng đối với nền kinh tế vì con đờng để đầu t qua thị trờng tiền tệ,
thị trờng vốn là khó khăn trong điều kiện nớc ta lúc bấy giờ.
Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hớng giảm trần lãi suất cho vay trong khi
đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy động (do tâm lý
ngời dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất
huy động giao động ở mức 0,15% - 0,25% tháng, thấp hơn so với trớc đây 0,3%-0,45%
tháng. Với chênh lệch nh vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt
động thì buộc các NHTM phải tăng d nợ đối với nền kinh tế.
Hiện tợng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995- 1997 mặc dù
lạm phát đợc kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm) nhng nền kinh tế vẫn đạt tốc độ
tăng trởng cao 9,28% năm.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó
trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phơng tiện thanh toán vì lạm phát có xu hớng giảm
và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng
tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không
áp dụng công cụ này nh một công cụ thờng xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù
có thể coi nó nh một giải phóng tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ đợc xoá bỏ hoàn toàn khi thị trờng tiền tệ ổn định , thị trờng vốn phát
triển và thị trờng mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
2.2.3 Công cụ Dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn đợc sử dụng sớm nhất ở Việt Nam
(từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30%
tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn
nhỏ bé và lạm phát đã đợc kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB là
10%; đợc áp dụng cho các NHTMQD, NHTM cổ phần ,chi nhánh NH nớc ngoài,NH liên
doanh và các công ty tài chính.
Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10% nhất là các
NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này, trong năm 1994, NHNN đã
hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức DTBB thống nhất đối với tất cả các
NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi khác nhau : tiền gửi, tiền tiết kiệm không kì hạn:
13%;tiết kiện kì hạn 3,6 tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu: 8%) ; đồng thời đẩy mạnh
việc áp dụng quy chế phạt đối với các TCTD không thực hiện đúng quy chế DTBB.
Năm 1995, NHNN quy định (T10/1995) DTBB chỉ đợc tính đối với loại tiền gửi có
kì hạn từ 12 tháng trở xuống, thống nhất ở mức 10% đợc áp dụng cho tất cả các
NHTM( trừ NHTMCP nông thôn, HTX tín dụng, quỹ TDND tạm thời cha phải thực hiện).
Số lần tính DTBB hàng tháng tăng lên, lại bỏ dần tín phiếu kho bạc trong cơ cấu tiền gửi
DTBB; tiễn gửi DTBB đợc hợp nhất với tiền gửi thanh toán của các NHTM vào một tài
khoản chung là tài khoản tiền gửi không kì hạn tại NHNN. Tiền gửi dự trữ vợt đợc trả lãi
0,1% tháng (Năm 1996). Điều này đã tạo sự linh hoạt hơn cho việc điều chỉnh dự trữ của
các NHTM tại NHNN, góp phần gián tiếp khống chế lãi suất thị trờng và khối lợng tín
dụng cung ứng để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Đến T12/97, Quy chế DTBB có sự thay đổi để đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng hơn: Tiền
gửi DTBB tại NHNN đợc tính bình quân trong cả kì duy trì, tỷ lệ DTBB vẫn là 10%, tiền
dự trữ vợt đợc hởng lãi suất 0,2% tháng (bằng VND) và 4,86% năm (đối với USD). Đồng
thời NHTM nào thiếu tiền gửi DTBB trong kì duy trì sẽ bị phạt theo mức 200% lãi suất
cho vay tái cấp vốn của NHNN (VND), từ đó khuyến khích các NHTM thực hiện đúng
quy chế DTBB.
Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/1998) ,từ cuối 1998 và trong năm 1999, quy chế
DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tợng áp dụng đợc mở rộng thêm (quỹ TDND, NH
hợp tác);số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay
cho quy định về cơ cấu tiền DTBB trớc đây: 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân
phiếu còn thời hạn thanh toán; việc trả lãi tiền DTBB do chính phủ quy định.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB đợc điều chỉnh
nhiều lần theo xu hớng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thíh đầu t, tiêu dùng.
Biểu 3: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999
TCTD
Tỉ lệ DTBB (%)
1/1/99 1/3/99 1/6/99 1/7/99 1/10/99
1. NHTMQD, NHTM của đô thị,
chi nhánh NH nớc ngoài, NH
liên doanh & Công ty TC
10 7 6 5 5
- NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3
2. NHTMCP nông thôn, NH hợp
tác, Quỹ TDNDTW, khu vực.
0 5 4 1 1
3. TCTD có số d tiền gửi phải
tính DTBB dới 500trđ quỹ TDND
cơ sở, HTX tín dụng, NH phục
vụ ngời nghèo.
0 0 0 0 0
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng,
giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của các NHTM do lãi suất
giảm.
Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND nh năm 1999.
Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu hạn chế việc các TCTD
huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy động) để gửi ra nớc ngoài hởng chênh
lệch lãi suất, khuyến khích các TCTD cho vay trong nớc, ngày 1/10/2000 NHNN đã điều
chỉnh tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dới 12 tháng là 8% kể từ kỳ
duy trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm tiếp tục thực hiện chủ trơng trên ,ngày
1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12% áp dụng từ kỳ duy trì DTBB 12/2000.
Nh vậy, công cụ DTBB ngày càng đợc hoàn thiện và trở thành công cụ đắc lực của
NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
2.2.4 Công cụ Cho vay tái chiết khấu
ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã đợc sử dụng nh là một công cụ của CSTT ngay
từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì cha hội đủ những điều kiện nên việc áp
dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của nó còn nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong
những năm gần đây nó đã trở thành công cụ đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu
của CSTT quốc gia.
Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu đợc thực hiện qua việc NHNN cho NHTM vay ngắn
hạn căn cứ vào khế ớc tín dụng ( có chất lợng ) do NHTM đem thế chấp tại NHNN, lãi
suất tái cấp vốn đợc xác định dựa theo lãi suất cho vay (cao nhất ) của các NHTM và đợc
điều chỉnh linh hoạt theo mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ. Năm 1994 với mục tiêu
kiềm chế lạm phát, NHNN hạn chế tới mức thấp nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM qua
việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85% -100% lãi suất cho vay các NHTM, riêng NH nông
nghiệp là 95%. Năm 1995 để đẩy mạnh mục tiêu trên, NHNN đã ngng tái cấp vốn cho các
NHTM nhằm đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và giảm cho vay tín dụng của các NHTM.
Nhờ đó, đến cuối 1995 d nợ cho vay chiết khấu của NHNN đã giảm xuống 13% so với
1994. Năm 1996 ,để giải quyết tình trạng khó khăn trong thanh toán của các NHTM, NH
đã thực hiện việc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM trong trờng hợp tạm thời thiếu khả
năng thanh toán (qua các phiên thanh toán bù trừ trên từng địa bàn). Nhng áp dụng lãĩ suất
tái chiết khấu ở mức tối đa. Điều này một mặt bảo đảm đợc sự ổn định của hệ thống ngân
hàng, mặt khác hạn chế đợc khả năng cung ứng vợt qúa về tín dụng của các NHTM đồng
thời khuyến khích việc huy động vốn của các NHTM, cũng hạn chế bớt việc các NHTM
vay tiền của NHNN, vì vậy cuối năm 1996, d nợ cho vay tái chiết khấu chỉ tăng 3,5% so
với 1995.
Trong năm 1997 NHNN đã sử dụng phơng thức tái cấp vốn có thế chấp (bằng chứng
từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời trong thanh toán cho các
NHTM. Lãi suất tái cấp vốn đợc điều chỉnh từ quy định 100% lãi suất cho vay của các
NHTM đối với nền kinh tế sang quy định mức lãi suất cụ thể (từ tháng 3-tháng 7năm
1997). Mức lãi suất tái cấp vốn quy định là 1,1% tháng, từ T8/1997là 0,9% ). Do trong
năm 1997 các NHTM đã tích cực hơn trong việc trả nợ NHNN và khả năng huy động vốn
tăng nên đến cuối 1997, d nợ tái cấp vốn của NHNN giảm 11,9% so với 1996.
Năm 1998, để thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm hạn chế sự gia tăng lạm
phát do ảnh hởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, NHNN đã tăng lãi suất tái
chiết khấu từ 1% tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,1% tháng.
Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trởng kinh tế, khắc phục nguy cơ giảm
phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức 1,1% tháng đầu
năm xuất 0,5% tháng đồng thời quy chế về nghiệp vụ chất khấu, tái chiết khấu đã đợc ban
hành để phát triển một bớc hiệu quả công cụ này trong chính sách tiền tệ và tạo khả năng
cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạnh đợc chiết
khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác do NHNN quy định ở mỗi thời kỳ. Mức lãi suất tái chiết khấu đợc công bố là 0,45%
tháng.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng của các
TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng xuống 0,45% tháng
(31/3/2000) và xuống 0,4% tháng (31/7/2000). Đồng thời NHNN cũng giảm lãi suất tái
chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4% tháng (T3/2000) và xuống 0,35% tháng
(T7/2000). Tuy vậy cho đến T9 /2000 để hạn chế các TCTD bù đắp thiếu hụt thanh toán
qua hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết khấu từ NHNN và khuyến khích thực hiện bù đắp
qua thị trờng mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trờng này, đồng thời tạo tín hiệu cho
các TCTD tăng lãi suất huy động, ngày 2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái
cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu lên 0,45% tháng.
Nh vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần đợc áp dụng theo đúng bản chất của nó là
tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát triển của thị trờng ở Việt
Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ quốc gia...
2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trờng mở
Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trờng mở thông qua
việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN các loại giấy tờ có
giá ngắn hạn khác trên thị trờng tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia”
Trớc khi thị trờng mở chính thức đợc đa vào vận hành ở Việt Nam, NHNN đã từng
bớc tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát hành các loại tín phiêú, đó là:
Tín phiếu kho bạc Nhà nớc (KBNN): từ năm 1996 đến hết năm 1998 NHNN đã phối
hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc. Năm 1996, KBNN đã
phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN, sau đó chủ yếu là phát hành trái phiếu
kho bạc (thời hạn một năm). Tổng mệnh giá trúng thầu năm 1997 là 2917,5 tỷ VND (37
đợt ); năm 1998 là 4020,7 tỷ VND (46 đợt),năm 1999 là 3011.6 tỉ VND(46 đợt) , năm
2000 là 4441.0 tỉ VND (43 đợt). Các đối tợng trúng thầu chủ yếu là các NHTM Quốc
doanh, các NHTM cổ phần và các Công ty Bảo hiểm. Song nếu theo quy định của luật
NHNN thì các trái phiếu này không thể sử dụng làm công cho thị trờng mở đợc.
Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến thời điểm
tháng 7/1999 NHNN đã tổ chức đợc 6 đợt phát hành tín phiếu NHNN. Các đợt này đều
đợc tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phơng tiện thanh toán và lạm phát có xu hớng
gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lu thông. Tổng mệnh giá đã phát hành của cả 6 đợt là
3.400 tỉ VND; phần lớn các tín phiếu này đều có thời hạn 3 tháng.
Cho đến ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trơng đa nghiệp vụ thị trờng mở
vào hoạt động theo phơng hớng sử dụng nó nh là một công cụ điều tiết tiền tệ linh hoạt và
có hiệu quả của NHNN.
Trong năm 2000, NHNN đã thực hiện đợc 17 phiên giao dịch thị trờng mở, trong đó
có 14 phiên mua đợc 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối lợng chào mua với lãi suất trong
khoảng 4,20%- 5,58% năm và 3 phiên bán đợc 550 tỷ đồng đạt 100% khối lợng chào bán
với lãi suất trong khoảng 4,0%- 4,6% năm. Đến 31/12/2000 ; NHNN đã bơm 405 tỷ đồng
qua thị trờng mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán đã đến hạn thanh toán.
Từ 1/1/2001- 7/2/ 2001, NHNN đã thực hiện đợc 3 phiên giao dịch mua đợc 160 tỉ
đồng chỉ đạt 50% khối lợng chào mua với mức lãi suất 3,5-4,6 %năm. Đã có 18 tổ chức tín
dụng đăng kí là thành viên của thị trờng (tuy vậy mỗi phiên giao dịch chỉ có thờng xuyên
từ 1 đến 3 thành viên tham gia)Phơng thức giao dịch chủ yếu là Mua- Bán có kì hạn (15
ngày -4tháng ) hoặc mua hẳn- bán hẳn.
Nh vậy,ở Việt Nam thị trờng mở đã tìm đợc con đờng đi riêng cho mình và tính u việt
của nó đã đợc phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định (đã giúp cho các NHTM đợc chủ
động hơn trong việc điều chỉnh lợng vốn khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã
thực hiện đợc mục tiêu CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và
mang tính chất thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải đợc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ những năm
qua.
2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.
*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu đáng đợc ghi
nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm soát chặt chẽ khối lợng tiền
cung ứng hàng năm và đó đợc xem nh một bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát,
ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn định, đời sống ngời dân
không ngừng đợc cải thiện.
Biểu 4: Mối quan hệ giữa tổng phơng tiện thanh toán với tỷ lệ lạm phát
Năm
Chỉ tiêu
199
1
199
2
199
3
199
4
1995 199
6
1997 1998 1999 200
0
Tốc độ tăng
của
78 34 19,8 27,8 22,3 22,7 25,4 23,9 39,28 38
M2(%)
Tỷ lệ lạm
phát (%)
67,6 17,6 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,9 6
Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bớc đợc điều chỉnh
phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần
đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, thúc đẩy hoạt động xuất nhập
khẩu.
Biểu 5: Tốc độ tăng trởng xuất nhập khẩu của Việt Nam
Năm
Chỉ tiêu
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
- Xuất khẩu
(%)
24 12 39 28 38 24 4 23,3
=11.540 tr USD
- Nhập khẩu
(%)
9 53 48 24 54 -7 11 _
* Góp phần tăng trởng kinh tế:Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng tin của nhân
dân vào đồng bản tệ, tạo môi trờng đầu t lành mạnh, thu hút đợc nguồn vốn đáng kể từ
trong và ngoài nớc. Đặc biệt việc điều chỉnh các công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt
buộc... của NHNN ở các giai đoạn cụ thể đã có vai trò quan trọng ảnh hởng tới việc huy
động và phân bổ nguồn vốn có hiệu quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà
góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế liên tục qua các năm.
Biểu 6:Tình hình tăng trởng kinh tế (GDP) của Việt Nam
Năm
Chỉ tiêu
9
1
92 93 94 95 96 97 98 99 2000
6 DP (tỉ VND)
giá so sánh
1981-1994
33.99
1
36.73
5
39.98
2
195.5
67
213.83
3
231.2
64
244.6
76
256.26
9
273.43
9
Tăng trởng
6DP(%)
6 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7
Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở Việt
Nam đã góp phần đạt đợc hai mục đích thờng mâu thuẫn nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát
vừa tăng trởng kinh tế. Có đợc kết qủa này còn phải kể đến vai trò của nhiều CSKT vĩ mô
khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta cha đạt đợc mức năng suất
biên của sản lợng tiềm năng trong nền kinh tế.
* Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ của CSTT cũng góp phần gián tiếp chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm. Năm 1999 cả
nớc giải quyết đợc việc làm cho 1,2 triệu lao động và thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn (năm 2000,tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 11%).
2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ của CSTT những
năm qua.
Trong những năm qua, chúng ta cha quan tâm đúng mức đến việc kiểm soát và điều
hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phơng pháp dự đoán không phù hợp, phơng thức
điều hành MS không linh hoạt cùng với các biến đổi kinh tế, mới chỉ quan tâm đến khối
lợng tiền phát hành hàng năm cho 2 mục tiêu (cung ứng phơng tiện thanh toán cho nền
kinh tế thông qua cho vay chiết khấu các NHTM và mua ngoại tệ, cha đánh giá đúng khả
năng tạo tiền của các NHTM).
Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết sự tăng,
giảm khối lợng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời gian qua cũng bị hạn chế ở nhiều
mặt.
Nhóm các công cụ trực tiếp: Đợc sử dụng chủ yếu trong việc điều tiết cung tiền thời
gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình chuyển đổi kinh tế trong giai đoạn
đầu nhng trong tơng lai sẽ không còn phù hợp nữa (rõ nhất là công cụ hạn mức tín dụng đã
bị loại bỏ từ quý II/98).
Lãi suất là công cụ đợc sử dụng thờng xuyên nhất trong điều hành CSTT ở Việt Nam
vừa qua. Tuy nhiên, cũng nh tình trạng ở các nứơc đang phát triển khác, ở Việt Nam lãi
suất không nhạy cảm lắm với đầu t. Điều này đợc thể hiện rõ rệt trong hai năm (1998,
1999) khi trần lãi suất cho vay giảm liên tục nhng đầu t vẫn cha tăng mạnh, giá cả và sản
lợng không những không tăng mà còn tiếp tục giảm (tuy điều này còn liên quan đến các
yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa).
.Việc NHNN luôn tiếp điều chỉnh lãi suất trong một khoảng thời gian ngắn (từ
1/6/99-4/9/99) đã 3 lần giảm lãi suất cho vay )đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng.Vì
lãi suất cho vay đợc điều chỉnh giảm (liên tục) trong khi đó lãi suất nhận gửi ở thời kì trớc
vẫn giữ nguyên từ đó xuất hiện khả năng tiềm tàng về rủi ro lãi suất bất khả kháng.Việc
điều chỉnh theo xu hớng giảm trong thời gian qua ít có tác dụng tích cực đến việc tăng
cờng huy động vốn trong và dài hạn. Việc các NHTM tự quy định lãi suất tiền gửi thanh
toán trong khung trần lãi suất cho vay tối đa đã dẫn tới các NHTM tranh giành khách hàng
bằng việc tăng lãi suất tiền gửi thanh toán lên khá cao, khiến cho tổng số vốn huy động
của toàn ngành NH không tăng mà chỉ chuyển từ NH này sang NH khác, gây bất ổn định
trong kinh doanh.
. Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ đạo của NHNN,
nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các NHTM.
. Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị trờng vì thế nó có
tác dụng khẳng định hơn là hớng dẫn diễn biến thực tế. Mặt khác cơ sở để NHNN điều
chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trờng phái trọng tiền ( căn cứ vào sự thay đổi của chỉ
số giá cả thị trờng là chủ yếu, sự ảnh hởng của thị trờng vốn còn hạn chế)
. Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải đợc hình thành trên cơ
sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trờng. Việc kiểm soát lãi suất của NHNN hiện nay chính
là một kiểu can thiệp giá của nhà nớc. Nếu cứ nh vậy sẽ là không phù hợp trong tơng lai
khi hệ thống thị trờng ở Việt Nam phát triển hoàn thiện hơn.
Công cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp lệnh NH T5/1990 )
chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%, điều này chỉ phù hợp trong thời kỳ
đầu nhng sau đó khi đồng tiền Việt Nam đi vào ổn định thì đó là tỉ lệ không hợp lý, thiếu
linh hoạt song NHNN trong thời gian đó vẫn không có quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp
lệnh phải có thời gian.
Kể từ khi luật NHNN đợc thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có đợc điều chỉnh giảm đi (0-
20%) và linh hoạt hơn nhng theo nhiều chuyên gia đánh giá thì nó vẫn ở mức cao.
Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD cha nghiêm, tiềm ẩn các nguy
cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tợng phải áp dụng quy chế DTBB còn
cha đầy đủ, các đối tợng áp dụng thì mức độ tỉ lệ DTBB còn khác nhau- có nhiều yếu tố
khộng hợp lý. Nh vậy NHNN vẫn cha thực sự tạo ra đợc một “sân chơi bình đẳng”đối với
các TCTD.
Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của công cụ nay còn hạn chế, cha biểu
hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trờng, lãi suất tái cấp vốn, chúng ta đã
liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn cha thúc đẩy nền kinh tế phát triển rõ rệt, kết quả
biểu hiện còn khá khiêm tốn. Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam hiện nay cha có một cơ chế
đầy đủ để CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT) phát huy tác dụng, mối liên hệ - tác
động của nó với các biến số kinh tế vĩ mô còn rất hạn chế.
Công cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan trọng để thực hiện
nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thơng phiếu cha phát triển phổ biến trong các giao dịch
thơng mại; công cụ mà NHNN thực hiện nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu
NHNN. Theo lý thuyết, lơng tiền phát hành vào lu thông qua con đờng tái chiết khấu sẽ là
phù hợp hơn nếu nó đợc dựa trên các thơng phiếu(vì lợng tiền đó đợc bảo đảm bằng sự gia
tăng khối lợng hàng hoá của nền kinh tế) .
. Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán của các NHTM
hiện nay phải chăng là quá dễ dãi theo nguyên lí phát hành tiền. Nó có thể đáp ứng nhu
cầu trớc mắt của các NHTM nhng nó cũng dễ phát sinh các tiêu cực trong qúa trình thực
hiện , cha kích thích sự năng động của các NHTM . Nh vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát,
gây bất ổn đối với giá trị đồng tiền quốc gia.
.Trong việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dờng nh chúng ta chỉ nặng về điều
chỉnh lãi suất chiết khấu mà cha chú ý đến “cửa sổ chiết khấu” của NHTW đối với các
NHTM (vì quy mô cung ứng cho vay chiết khấu của NHNN đối với các NHTM cũng phải
căn cứ vào thực lực của chính các NH đó).
Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi còn mang nặng tính bao cấp ( u
tiên NHTMQD) do vậy vai trò “ngời cho vay cuối cùng” đối với mọi TCTD của NHNN
cha thực sự thể hiện rõ nét.
Công cụ nghiệp vụ thị trờng mở: Về cơ bản thì đây cha thực sự trở thành một công
cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc dù theo lý thuyết vai trò của nó
là rất to lớn.
- Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau:
. Quá trình tạo “hàng hoá” còn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc,
phát hành tín phiếu NHNN của NHNN còn mang nặng tính hành chính, các chủ thể tham
gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc doanh, Công ty Bảo hiểm với mục đích đơn
giản là giải quyết nguồn vốn khả dụng d thừa của họ.
. Việc mua bán lại tín phiếu còn cha phổ biến đối với công chúng khiến cho lợng tín
phiếu mà các TCTD sau khi mua đợc hầu nh lại nằm im trong két của họ điều đó cũng làm
giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị trờng sơ cấp.
.Trên thị trờng mở ,khối lợng giao dịch còn thấp , số thành viên tham gia cha nhiều
nên tác độngcủa thị trờng mở đến lợng vốn khả dụng của các NHTM còn rất hạn chế.
Nh vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hớng cơ bản và các giải pháp cụ
thể để có thể sử dụng các công cụ của CSTT một cách có hiệu quả ở Việt Nam.
Chơng 3
định hớng và giảI pháp hoàn thiện
các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Định hớng
3.1.1.Bối cảnh trong nớc và quốc tế
Bớc sang thế kỷ 21,đất nớc chúng ta có những điều kiện thuận lợi để phát triển đó là :
sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so sánh của đất nớc phục vụ cho sự
phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng ta từ khi đổi mới đến nay sau những năm phát
triển liên tục,cao thì lại đang có xu hớng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ
điều này.Lý do đợc giải thích có thể là do hậu quả thiên tai ,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc
xuất phát từ chính các yếu tố,lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu kém tụt hậu tơng
đối so với khu vực và thế giới .
Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt đẹp tạo cơ hội
để phát triển đất nớc ;chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều các quốc gia trong khu vực và
thế giới ,tham gia nhiều hiệp ớc kinh tế nh AFTA,WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp
với các tổ chức,định chế tài chính lớn nh IMF,WB,ADB..
Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông á,Đông Nam á đang có dấu hiệu
phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm qua.Đây là một trong những
nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trờng tàI chính tiền tệ ở nớc ta .
Trong xu hớng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao hiệu quả các
công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn đề còn phải lu tâm rất nhiều .
3.1.2. Một số định hớng cơ bản:
-Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bớc hoà nhập với thông lệ quốc
tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định hớng của Đảng và Nhà nớc .
-Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bớc một chuyển đổi từ việc sử dụng các công
cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu quả hơn.
-Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính thực tiễn đó là
thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế .
3.2.Giải pháp :
3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trờng thuận lợi
-Việc hoạch định CSTT cũng nh các công cụ của CSTT cần đặt nó trong một chỉnh
thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trờng. CSTT cần đợc độc lập với chính sách
tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà
nớc.
-Thị trờng tiền tệ và thị trờng liên ngân hàng cần tiếp tục đợc củng cố và phát triển để
một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất
để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.
-Theo hớng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại hệ thống NH để
đảm bảo một môi trờng cạnh tranh lành mạnh sôi động .
-Năng lực kỹ thuật của NHNN cần đợc nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập ,xử lý
thông tin và ra quyết định điều hành CSTT
-Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để cơ chế thực thi
CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng đợc nghiêm minh và có hiệu quả hơn.
-Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói quen mới
trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện các công cụ của
CSTT có hiệu quả hơn ,ví dụ: tạo thói quen thanh toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh
doanh ,thói quen sử dụng hoạt động thị trờng mở của các tổ chức tín dụng ...
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh nhanh chóng
hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực tiễn VN -phục vụ đắc
lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các công cụ phải đợc xây dựng và hoàn thiện
theo hớng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của
nhau .Cụ thể:
*Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHTN tuy không coi đây là một công cụ thờng xuyên nhng cũng cần phải theo
dõi tổng số d nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ can thiệp vào hoạt
động này trong điều kiện cụ thể.
*Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trờng trên nguyên tắc đảm
bảo lợi ích của cả ngời gửi tiền,tổ chức tín dụng và ngời vay tiền, tạo điều kiện tập
trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp các tổ
chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp;sự
biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu t; mức độ lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị
trờng .
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn
cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu t cho nền
kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu hớng tăng hay giảm lãi suất
ngắn hạn trong từng thời kỳ .
Việc duy trì các mức lãI suất u đãi cho các đối tợng dân c gặp điều khó khăn là phù
hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các kênh tài trợ hoạt động này đặt
ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc doanh.
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách hợp lý ,từng
bớc giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tợng “đô la hoá” trên đất Việt Nam .
Trớc mắt, trong những tháng đầu năm 2001 nền kinh tế đang có những biểu
hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của các TCTD đang gặp
phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản với
biên độ nh hiện nay là còn rộng, từ đó làm nảy sinh những hiện tợng thiếu tích cực
trong cạnh tranh giữa các NHTM. Do vậy, NHNN có thể nên điều chỉnh giảm biên
độ dao động của mức lãi suất cơ bản. Về phía Nhà nớc nên có chính sách tài chính
phù hợp với các tổ chức tín dụng, các NHTM ở Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ
thuế vốn khá cao, do vậy thuế đánh vào các tổ chức tín dụng cần đợc điều chỉnh lại
cho phù hợp theo hớng giảm tỷ lệ thuế hoặc tính thuế trên lợi nhuận trớc thuế
Hiện nay chúng ta cha thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần phải hớng theo
mục tiêu đó và thực hiện từng bớc bởi một lẽ đó là xu hớng tất yếu và khi đó vai trò quản
lý vĩ mô của Nhà nớc bằng công cụ lãi suất vẫn đợc thể hiện qua sự định hớng theo tín
hiệu thị trờng .
* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
-Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hởng trực tiếp tới khả năng huy động và cung ứng tín dụng
cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ chế thị trờng thì NHNN cần phải
có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra một môi trờng cạnh tranh lành
mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng: nên mở rộng đối tợng áp dụng qui chế dự trữ
bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt buộc đa ra phải phù hợp với diễn biến thị trờng tiền tệ ,với mục
tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín
dụng ở Việt Nam
- Cần phải có những biệp pháp tăng cờng kiểm tra việc chấp hành dự trữ bắt buộc, đi
đôi với việc xử phạt nghiêm các trờng hợp vi phạm qui chế dự trữ để đảm bảo sự lành
mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu CSTT
-NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các qui chế dự
trữ nh:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho
số tiền gửi d thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài
chính NHNN.
-Trong thời gian trớc mắt ,để thúc đẩy tăng trởng kinh tế ,tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần
phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình huy
động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế .
-Trong tơng lai, khi thị trờng tiền tệ ,thị trờng vốn đã phát triển, các công cụ khác có
thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân hàng Nhà nớc nên có dự kiến
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để họ đợc linh động, mạnh dạn hơn trong
hoạt động kinh doanh của mình .
* Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:
-Thơng phiếu, hối phiếu chính là sự ghi nhận của các quan hệ tín dụng thơng mại
trong nền kinh tế thị trờng ,ở nớc ta hiện nay các hình thức tín dụng thơng mại đã xuất
hiện,doanh số hoạt động mua bán chịu có thời hạn ,giao nhận hàng thanh toán gối đầu giữa
các doanh nghiệp là rất lớn .Do vậy cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thơng phiếu
trong các quan hệ tín dụng thơng mại. Muốn vậy nó cần phải có một cơ sở pháp lý đảm
bảo ,trớc mắt đó là việc xúc tiến các hoạt động để đa pháp lệnh thơng phiếu (hiệu lực từ
1/7/2000) đi vào thực tiễn.
-NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án cho vay tái
cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hởng quan trọng tới hiệu quả việc điều chỉnh
mức cung tiền .
-Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và nên mở rộng
đối tợng đợc vay chiết khấu để phát huy vai trò “ngời cho vay cuối cùng” của NHNN và
đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
- Phát triển thị trờng nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lợng) để NHNN có cơ sở
chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu ,tạo ra tín hiệu tốt đối
với hoạt động kinh doanh của các NHTM .Mặt khác ,cùng với xu hớng tự do hoá lãi suất
thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên ,trở thành một công cụ gián
tiếp điều tiết lãi suất thị trờng một cách hữu hiệu ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế
* Đối với công cụ nghiệp vụ thị trờng mở:
Phải phát triển thị trờng mở theo hớng đa nó trở thành một công cụ hữu hiệu ,linh
hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải:
-Theo dõi ,tính toán ,dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng ,diễn biến lạm phát lãi
suất ,đầu t...để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào thị trờng mở nh thế nào
(mua bán tín phiếu) ,với lợng là bao nhiêu.
-NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tợng tham gia thị trờng mở và
linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trờng mở.
-Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trờng mở: làm đại lý phát hành
tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát hành các
loại chứng chỉ tiền gửi...Muốn vậy NHNN phảI nắm đợc ( quản lý) đợc các hoạt động này
đồng thời tạo ra tính “thanh khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trờng mở.
-Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp vụ thị trờng
mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ
-Để thị trờng mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của các thị trờng
khác đặc biệt là thị trờng tiền tệ liên ngân hàng và thị trờng thứ cấp
Kết luận
Nh vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng
trong nền kinh tế thị trờng nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các
công cụ đó nh thế nào sẽ có ảnh hởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời
điểm cụ thể.
ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng thì việc áp
dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Trong những năm
đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy trởng kinh tế. Tuy vậy thời gian gần
đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi nền kinh tế bớc sang một giai đoạn phát triển
mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới đợc đa vào sử dụng và cha thực sự
phát huy hết, hoặc cha thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực
của nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hớng và giải pháp đúng trong việc hoàn
thiện các công cụ đó. Để có đợc điều này, bên cạnh sự định hớng đúng đắn của Đảng và
Nhà nớc, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ thống NHTM... và
nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
phải đợc coi là cả một quá trình lâu dài và cần đợc tiếp tục phát triển về sau.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.pdf