Tài liệu Tiếp thị, thị trường: Sản xuất rau quy mô nông hộ nhỏ có dẫn đến sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em? Minh chứng từ vùng Tây Bắc Việt Nam: H
Ộ
I T
H
Ả
O
V
Ề
PH
ÁT
T
RI
ỂN
T
ÂY
B
Ắ
C
174
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
Tiếp thị, thị trường: Sản xuất rau quy mô nông hộ nhỏ có
dẫn đến sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em?
Minh chứng từ vùng Tây Bắc Việt Nam
Christian Genova1, Wendy J. Umberger1*, Alexandra Peralta1, and Suzie
Newman1,2
Cơ quan
1Trung tâm Nghiên cứu Lương thực Toàn cầu và Tài nguyên, Trường Đại học
Adelaide, 10 Pulteney St, Adelaide, SA, 5005, Australia.
2Viện nghiên cứu Cây trồng và Lương thực, Đường 120 Mt Albert, Sandringham,
Auckland, 1025, New Zealand.
*Tác giả đại diện
wendy.umberger@adelaide.edu.au
Từ khóa
Sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em, tham gia thị trường, trao quyền cho
phụ nữ, sản xuất rau
Giới thiệu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi kiểm tra mối quan hệ giữa sản xuất rau
nông hộ quy mô nhỏ và sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em như
một thước đo cho chất lượng của chế độ ăn uống. Chúng tôi tìm hiểu mối
qua...
3 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp thị, thị trường: Sản xuất rau quy mô nông hộ nhỏ có dẫn đến sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em? Minh chứng từ vùng Tây Bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
H
Ộ
I T
H
Ả
O
V
Ề
PH
ÁT
T
RI
ỂN
T
ÂY
B
Ắ
C
174
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
Tiếp thị, thị trường: Sản xuất rau quy mô nông hộ nhỏ có
dẫn đến sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em?
Minh chứng từ vùng Tây Bắc Việt Nam
Christian Genova1, Wendy J. Umberger1*, Alexandra Peralta1, and Suzie
Newman1,2
Cơ quan
1Trung tâm Nghiên cứu Lương thực Toàn cầu và Tài nguyên, Trường Đại học
Adelaide, 10 Pulteney St, Adelaide, SA, 5005, Australia.
2Viện nghiên cứu Cây trồng và Lương thực, Đường 120 Mt Albert, Sandringham,
Auckland, 1025, New Zealand.
*Tác giả đại diện
wendy.umberger@adelaide.edu.au
Từ khóa
Sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em, tham gia thị trường, trao quyền cho
phụ nữ, sản xuất rau
Giới thiệu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi kiểm tra mối quan hệ giữa sản xuất rau
nông hộ quy mô nhỏ và sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em như
một thước đo cho chất lượng của chế độ ăn uống. Chúng tôi tìm hiểu mối
quan hệ này đối với các bé gái và bé trai trong độ tuổi từ 6 đến 60 tháng
và từ 5 tuổi đến 17 tuổi. Ở cấp hộ gia đình, những mối quan hệ này có
thể bị ảnh hưởng bởi một hoặc cả ba yếu tố sau: (1) tiêu dùng sản phẩm
lương thực do hộ tự sản xuất, (2) tiêu thụ thực phẩm nhiều dinh dưỡng và
đa dạng hơn nhờ vào thu nhập từ việc bán hàng nông sản ra thị trường,
và (3) các yếu tố về giới liên quan đến địa vị xã hội của phụ nữ và quyền
hạn của phụ nữ trong lĩnh vực nông nghiệp. Các nghiên cứu gần đây cho
thấy mối tương quan tích cực giữa khẩu phần ăn của trẻ em ở Châu Phi
và Châu Á, và cách thức tính toán sự đa dạng trong sản xuất nông nghiệp,
tiếp cận thị trường và thu nhập từ nông nghiệp. Tuy nhiên, tài liệu nghiên
cứu chỉ ra có rất ítmối liên hệ nhân quả giữa sản xuất rau tại các hộ quy
mô nhỏ và việc tự tiêu dùng tại hộ, đặc biệt là đối với các nông hộ ở vùng
nông thôn tại châu Á. Nghiên cứu này giúp cung cấp thêm thông tin và cơ
sở cho những tài liệu đã có bằng cách sử dụng dữ liệu chéo được thu thập
vào năm 2016 ở vùng núi Tây Bắc của Việt Nam.
N
Ú
I C
Ơ
H
Ộ
I C
H
O
P
H
ÁT
T
RI
ỂN
175
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng dữ liệu từ cuộc điều tra các hộ gia đình nông thôn
được thu thập từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2016, bao gồm cả việc ghi
chép về chế độ ăn uống cho 2 ngày không liên tiếp. Các nông hộ nhỏ đã
được lựa chọn bằng phương pháp lấy mẫu nhiều lần phân tầng. Tổng
cộng, chúng tôi có 364 hộ gia đình có trẻ em từ 6 tháng đến 17 tuổi. Về
mức độ đa dạng của chế độ ăn uống, chúng tôi sử dụng chỉ số về đa dạng
trong khẩu phần ăn của trẻ (CDDS) làm thước đo cho chất lượng của chế
độ dinh dưỡng. CDDS là chỉ số cân bằng trung bình không trọng số của số
lượng các nhóm thực phẩm riêng biệt mà trẻ tiêu thụ trong hai khoảng
thời gian tham chiếu sử dụng 14 nhóm thực phẩm. Chúng tôi sử dụng mô
hình tuyến tính tổng quát hóa Poisson để đánh giá mối quan hệ giữa sản
xuất rau nông hộ quy mô nhỏ và CDDS, kiểm soát các biến gây nhiễu tiềm
ẩn. Chúng tôi ước lượng chín mô hình hồi quy: với mẫu của trẻphân theo
nhóm tuổi (từ 6 tháng đến 60 tháng, và từ 5 tuổi đến 17 tuổi), theo giới
tính, và theo nhóm tuổi và giới tính.
Kết quả
Nhìn chung, chế độ ăn uống tương đối đa dạng, bao gồm các loại ngũ cốc,
rau, thịt, các loại hạt và đậu. Kết quả cho thấy việc tiếp cận thị trường
và tham gia thị trường quan trọng hơn sự đa dạng trong sản xuất rau
trong việc cải thiện chất lượng chế độ ăn uống của trẻ từ 5 đến 17 tuổi.
Tương tự như các nghiên cứu khác, sự tham gia thị trường liên quan cùng
chiều với sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ, trong khi sự tiếp cận thị
trường lại có tương quan ngược chiều. Điều này cho thấy sự suy giảm về
mặt đa dạng trong chế độ ăn uống ở trẻ với các hộ ở xa chợ. Về vấn đề
trao quyền cho phụ nữ trong nông nghiệp, chúng tôi chỉ tìm thấy một mối
liên hệ cùng chiều giữa thành viên nhóm và CDDS đối với các bé gái trên
5 tuổi và mối liên hệ ngược chiều giữa tiếp cận tín dụng và CDDS đối với
các bé trai trên 5 tuổi. Không có mối liên hệ nào được tìm thấy đối với trẻ
dưới 5 tuổi.
Thảo luận và kết luận
Nghiên cứu này đã được tiến hành để điều tra liệu sản xuất rau nông hộ
quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn có thể cải thiện chất lượng chế độ ăn
uống của trẻ thông qua sự đa dạng của khẩu phần ăn. Để cải thiện sự đa
dạng trong khẩu phần của trẻ em, việc tham gia thị trường là một bước
quan trọng. Khả năng tiếp cận thị trường và thu nhập có được từ việc
tham gia vào thị trường có thể cải thiện đáng kể sự đa dạng trong khẩu
phần của trẻ em, đặc biệt là với bé trai từ 5 đến 17 tuổi. Các hộ gia đình
H
Ộ
I T
H
Ả
O
V
Ề
PH
ÁT
T
RI
ỂN
T
ÂY
B
Ắ
C
176
Chủ đề 3: Chuỗi giá trị thực phẩm an toàn
ở gần chợ tiếp cận tốt hơn với các loại thực phẩm đa dạng mà chỉ có các
chợ mới có thể cung cấp. Ngoài ra, thu nhập từ việc bán rau tại chợ cũng
được sử dụng để mua các loại thực phẩm đa dạng và bổ dưỡng khác. Điều
này có nghĩa là tạo ra và/hoặc cải thiện mối liên kết thị trường giữa các hộ
sản xuất rau quy mô nhỏ và thị trường. Loại hình liên kết sẽ phụ thuộc vào
điều kiện cụ thể ở từng địa phương: mối liên kết giữa người nông dân với
thương lái, liên kết giữa nông dân với người bán lẻ, tạo ra các nhóm nông
dân hoặc hợp tác xã, v.v.
Đối với trẻ dưới 5 tuổi, kết quả của chúng tôi gợi ý các can thiệp về nông
nghiệp nên tập trung vào: (1) thúc đẩy các cơ hội tạo ra thu nhập để gia
tăng sự tiếp cận của các hộ đối với nguồn thực phẩm đa dạng và giàu dinh
dưỡng; (2) nâng cao kiến thức dinh dưỡng của người Mông; và (3) can
thiệp nhắm vào vùng có mật độ trồng rau củ thấp, có nhiều khả năng cải
thiện chất lượng dinh dưỡng. Tuy nhiên, dữ liệu của chúng tôi chỉ giới hạn
trong một mùa vụ. Thứ hai, chúng tôi cũng nhận thức được những vấn đề
tiềm ẩn về biến nội sinh với các hộ gia đình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- s30_2685_2207191.pdf