Tài liệu Tiếp cận quốc tế hóa với phương pháp giảng dạy tích cực tại trường Đại học Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh: TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 19 - 05/2016
3
TIẾP CẬN QUỐC TẾ HÓA VỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TÍCH CỰC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
APPROACHING INTERNATIONALIZATION WITH ACTIVE TEACHING IN HO
CHI MINH CITY UNIVERSITY OF TRANSPORT
Nguyễn Thúy Hồng Vân, Trần Thị Thường, Trần Thị Nguyệt Minh
Phòng Đối Ngoại
Tóm tắt: Quốc tế hóa giáo dục đại học cần sự thay đổi về tư duy và phương pháp giáo dục để
đào tạo ra những công dân toàn cầu. Tư duy giáo dục mới hiện nay là lấy người học làm trung tâm,
hỗ trợ, phát huy tính chủ động, tích cực của người học. Để hiện thực hóa tư duy này, nhiều nước có
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực. Bài viết này thảo
luận về các phương pháp giảng dạy tích cực và trình bày kết quả khảo sát của một dự án quốc tế về
phương pháp sư phạm hiện tại của giảng viên Trường Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí
Minh, từ đó đưa ra những đề xuất để...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận quốc tế hóa với phương pháp giảng dạy tích cực tại trường Đại học Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 19 - 05/2016
3
TIẾP CẬN QUỐC TẾ HÓA VỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TÍCH CỰC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
APPROACHING INTERNATIONALIZATION WITH ACTIVE TEACHING IN HO
CHI MINH CITY UNIVERSITY OF TRANSPORT
Nguyễn Thúy Hồng Vân, Trần Thị Thường, Trần Thị Nguyệt Minh
Phòng Đối Ngoại
Tóm tắt: Quốc tế hóa giáo dục đại học cần sự thay đổi về tư duy và phương pháp giáo dục để
đào tạo ra những công dân toàn cầu. Tư duy giáo dục mới hiện nay là lấy người học làm trung tâm,
hỗ trợ, phát huy tính chủ động, tích cực của người học. Để hiện thực hóa tư duy này, nhiều nước có
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực. Bài viết này thảo
luận về các phương pháp giảng dạy tích cực và trình bày kết quả khảo sát của một dự án quốc tế về
phương pháp sư phạm hiện tại của giảng viên Trường Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí
Minh, từ đó đưa ra những đề xuất để khuyến khích giảng viên áp dụng và thực hành tốt phương pháp
giảng dạy tích cực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Trường.
Từ khóa: Quốc tế hóa, phương pháp giảng dạy tích cực, người học làm trung tâm.
Abstract: Higher education internationalization requires changes in educational thinking and
pedagogy to educate global citizens. The latest educational thinking is learner-centered education
which supports the learners’ active participation. Active teaching approach has been applied in many
advanced education countries. This paper discusses on active teaching and presents the results of a
survey conducted in an international project on pedagogy at Ho Chi Minh City University of
Transport. Also, some recommendations on incentives for the application of active teaching are
provided to meet the requirement of the university’s internationalization.
Keywords: internationalization, active teaching, learner-centered approach.
1. Giới thiệu
Quốc tế hóa giáo dục đại học (QTH) đã
trở thành xu hướng tất yếu và tác động mạnh
mẽ đến tất cả các trường đại học. Những áp
lực của toàn cầu hóa đòi hỏi các trường đại
học phải đổi mới tư duy và phương pháp
quản lý đào tạo để cung cấp cho xã hội
những công dân toàn cầu, có khả năng thích
ứng và làm việc trong môi trường quốc tế.
Giáo dục đào tạo không chỉ cung cấp kiến
thức mà phải cung cấp phương tiện, giúp đỡ
người học khám phá tri thức và tự phát huy,
phát triển bản thân, biết cách học tập cả đời.
Đó chính là tư duy, triết lý giáo dục lấy
người học làm trung tâm [1]. Ở nhiều nước
có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới,
phương pháp giảng dạy hiệu quả được áp
dụng là phương pháp giảng dạy tích cực.
Trường Đại học Giao thông vận tải
Thành phố Hồ Chí Minh (ĐH GTVT
TP.HCM) đang bắt đầu thực hiện quốc tế hóa
giáo dục. Nói một cách khác, Trường đang
đổi mới giáo dục trên các lĩnh vực để có thể
hội nhập quốc tế sâu rộng. Phương pháp
giảng dạy là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định chất lượng giảng dạy, đóng
góp cho sự thành công của quá trình đổi mới
giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế tại
Trường. Trong khuôn khổ dự án nghiên cứu
“Quốc tế hóa chương trình đào tạo và
phương pháp giảng dạy đại học thông qua
các chương trình phát triển chuyên môn
thường xuyên với sự hỗ trợ của công nghệ
giữa Việt Nam và Vương quốc Anh”, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thực trạng
phương pháp sư phạm của các giảng viên
trong Trường. Mục đích của nghiên cứu là
tìm hiểu thực tế phương pháp sư phạm đang
được sử dụng tại Trường ĐH GTVT TP.
HCM, từ đó thiết kế một chương trình huấn
luyện phương pháp giảng dạy tích cực có sự
hỗ trợ của công nghệ với kinh nghiệm của
các trường đai học Vương quốc Anh, nhằm
giúp giảng viên của Trường nâng cao năng
lực và kỹ năng giảng dạy, góp phần phát
triển chuyên môn thường xuyên cho giảng
viên của Trường.
2. Phương pháp giảng dạy tích cực
4
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 19, May 2016
Phương pháp giảng dạy tích cực là
phương pháp giảng dạy phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo của người học [7].
Giảng viên cần tổ chức các hoạt động học tập
đa dạng, phong phú để tăng khả năng lĩnh hội
kiến thức cho người học. Đặc điểm của
phương pháp này là lấy người học làm trung
tâm, chú trọng rèn luyện phương pháp tự
học, phối hợp giữa học tập cá nhân với làm
việc nhóm, giảng viên là người hướng dẫn, tổ
chức hoạt động và điều quan trọng là việc
đánh giá kết quả học tập được kết hợp giữa
đánh giá của giảng viên với việc tự đánh giá
của sinh viên.
Phương pháp giảng dạy tích cực mang
lại nhiều lợi ích cho sinh viên. Những lợi ích
cơ bản: Sinh viên được tham gia vào bài
giảng sâu hơn, có cơ hội sử dụng những kiến
thức và kinh nghiệm đã có trước đây để giải
quyết vấn đề của bài giảng [4]. Đồng thời,
sinh viên có cơ hội tiếp nhận những kiến
thức, nhận định mới từ bạn bè thông qua
tranh luận. Giảng dạy tích cực đôi khi có thể
mang lại những kết quả ngoài sự mong đợi,
là phần thưởng cho cả giảng viên và sinh
viên. Sinh viên có cơ hội hợp tác, hỗ trợ nhau
cùng học tập, rèn luyện tư duy phản biện và
được khuyến khích để tự học, tự chịu trách
nhiệm với việc học của chính mình. Cuối
cùng, phương pháp giảng dạy tích cực giúp
sinh viên nâng cao kỹ năng giao tiếp, tư duy
sáng tạo, tư duy phản biện, suy xét, đặc biệt
là kỹ năng học tập cả đời. Những lợi ích này
giúp sinh viên hình thành các kỹ năng làm
việc đa dạng, giúp họ có thể tự tin trong môi
trường lao động cạnh tranh quốc tế.
Phương pháp giảng dạy tích cực cũng có
những hạn chế khi triển khai, ví dụ như hạn
chế về thời gian, giảng viên không sẵn sàng
từ bỏ vai trò trung tâm của lớp học, thiếu tự
tin và kỹ năng triển khai, một số sinh viên
không hợp tác [4]. Tuy nhiên, những lợi ích
mà giảng dạy tích cực mang lại vượt xa
những hạn chế đó. Vì vậy, đây là phương
pháp đang được áp dụng phổ biến ở nhiều
nước có nền giáo dục tiên tiến trong bối cảnh
toàn cầu hóa với những yêu cầu hội nhập
ngày càng cao đối với đội ngũ lao động và là
phương pháp giảng dạy phù hợp với QTH
giáo dục.
Có rất nhiều phương pháp giảng dạy tích
cực [6]. Tùy theo mức độ gắn kết với thực tế
ít hay nhiều người ta có thể phân chia giảng
dạy tích cực thành hai nhóm: Nhóm phương
pháp giúp sinh viên học tập chủ động, tích
cực và nhóm phương pháp giúp sinh viên học
tập qua trải nghiệm [3]. Trong nhóm phương
pháp giảng dạy giúp sinh viên học tập chủ
động tích cực, phổ biến là phương pháp động
não (Brainstorming), phương pháp chia sẻ
theo cặp (Think – pair- share), phương pháp
tổ chức học tập theo nhóm (Group – based
learning), phương pháp dạy học dựa trên vấn
đề (Problem – based learning) và phương
pháp đóng vai (Role play). Trong nhóm
phương pháp giảng dạy giúp học tập qua trải
nghiệm, những phương pháp phổ biến gồm
phương pháp dạy học thông qua làm dự án
(Project – based learning), phương pháp
nghiên cứu tình huống (Case study), phương
pháp mô phỏng (Simulations) và phương
pháp học tập phục vụ cộng đồng (Service
learning).
3. Phương pháp sư phạm hiện tại ở
Trường ĐH GTVT TP.HCM
Trước đòi hỏi thực tế của hội nhập quốc
tế khi Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình
Dương (TPP) đã được ký kết và Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC) hình thành vào cuối
năm 2015, để nâng cao chất lượng đào tạo,
Trường ĐH GTVT TP HCM đã bước đầu có
những đổi mới hội nhập. Trong quá trình đổi
mới giáo dục đào tạo, giảng viên là chủ thể
quan trọng và phương pháp giảng dạy của họ
là một trong những nhân tố then chốt quyết
định chất lượng giảng dạy. Trong phần này,
nhóm nghiên cứu trình bày kết quả khảo sát
được thực hiện trong dự án nghiên cứu quốc
tế về phương pháp giảng dạy để tìm hiểu
phương pháp sư phạm hiện tại của giảng viên
Trường, từ hoạt động soạn bài giảng, giảng
dạy trên lớp, đến đánh giá sinh viên và phát
triển chuyên môn về phương pháp giảng dạy.
Bộ câu hỏi được thiết kế sử dụng phần mềm
khảo sát trực tuyến, giúp việc thu thập thông
tin chính xác minh bạch và có độ tin cậy cao.
Nhóm nghiên cứu đã thu thập được 156 câu
trả lời hoàn chỉnh từ giảng viên của Trường.
Trong khâu soạn bài giảng, phần lớn
giảng viên (82,69%) có tham khảo tài liệu
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 19 - 05/2016
5
nước ngoài khi soạn bài giảng. Để bài giảng
có hiệu quả, 87,82% giảng viên đã lập kế
hoạch cho các hoạt động giảng dạy. Tuy
nhiên, kế hoạch giảng dạy mới chỉ dừng lại ở
việc liệt kê các nội dung kiến thức cần học.
Với hoạt động giảng dạy trên lớp, đa
phần giảng viên (67,74%) khi đứng lớp dùng
tiếng Việt. Khoảng 1/3 giảng viên tham gia
khảo sát nỗ lực sử dụng cả hai ngôn ngữ
Việt- Anh để giảng bài. Chỉ một tỷ lệ nhỏ
giảng viên (3,21%) sử dụng hoàn toàn tiếng
Anh trên lớp học.
Trong quá trình giảng dạy, ngoài phương
pháp giảng dạy truyền thống (thầy giảng trò
nghe), 67,95% giảng viên đã có kết hợp với
các phương pháp khác nhau khi giảng dạy
như giao bài tập nhóm (67,95%), phương
pháp giải quyết vấn đề (66,67%), phân vai/
thuyết trình (64,74%). Tuy nhiên, có đến
59,62% giảng viên vẫn sử dụng phương pháp
giảng dạy truyền thống. Việc dùng thiết bị
mô phỏng và tham quan thực tế còn hạn chế
với lý do được đưa ra là cơ sở vật chất của
Trường chưa đáp ứng được yêu cầu giảng
dạy và học tập. Các phương pháp giảng dạy
hiện đang áp dụng tại Trường được thể hiện
trong hình 1.
Với sự phát triển của công nghệ và mạng
truyền thông, hầu hết giảng viên (87,82%) đã
áp dụng công nghệ vào hoạt động giảng dạy.
Tuy nhiên, việc áp dụng các phần mềm giảng
dạy cũng còn hạn chế, chủ yếu là thiết kế các
giáo án điện tử (96,35%).
Khi đổi mới giáo dục trong hội nhập
quốc tế, chuẩn đầu ra là yếu tố quan trọng
giúp quá trình này thành công. Chuẩn đầu ra
là căn cứ để xây dựng chương trình đào tạo,
thiết kế bài giảng, giảng dạy và đánh giá sinh
viên [2]. Theo kết quả khảo sát, chuẩn đầu ra
đã và đang được quan tâm đúng đắn. Gần
50% giảng viên đã xem chuẩn đầu ra là yếu
tố quan tâm nhất khi xây dựng bài giảng. Để
đánh giá sinh viên, 89,10% giảng viên căn cứ
vào yêu cầu đầu ra của môn học, 42,31% căn
cứ vào chuẩn đầu ra ngành học.
Một trong những đặc điểm quan trọng
của phương pháp giảng dạy tích cực là việc
đánh giá kết quả học tập được kết hợp giữa
đánh giá của giảng viên với việc tự đánh giá
của sinh viên [3;4]. Đối với giảng viên
Trường ĐH GTVT TP.HCM, việc hướng dẫn
sinh viên tự đánh giá kết quả của mình chưa
được phổ biến. Để đánh giá sinh viên,
85,90% giảng viên dựa vào kết quả thi viết
cuối khóa, 63,46% đánh giá qua bài tập
nhóm, 89,10% giảng viên kết hợp điểm kiểm
tra với điểm quá trình. Tiểu luận cá nhân và
thi vấn đáp cũng được sử dụng nhưng với tỷ
lệ thấp hơn (41,03%). Không có giảng viên
nào trong khảo sát đề cập đến việc cho sinh
viên tự đánh giá kết quả của mình.
Như vậy, nhìn chung đa số giảng viên đã
áp dụng một số phương pháp giảng dạy tích
cực lấy người học làm trung tâm để cải thiện
chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, việc đánh giá
chỉ được thực hiện một chiều, không có phần
sinh viên tự đánh giá kết quả của mình, cho
thấy giảng viên chưa áp dụng hoàn chỉnh
phương pháp này, chưa được tập huấn đầy đủ
về các đặc trưng cơ bản của phương pháp
giảng dạy tích cực, và chưa sử dụng linh hoạt
các phương pháp xuyên suốt quá trình giảng
dạy. Chỉ 60,8% giảng viên cho biết có tham
gia các khóa tập huấn cơ bản để nâng cao
phương pháp giảng dạy. Đa số giảng viên tự
phát triển phương pháp sư phạm thông qua
trao đổi với đồng nghiệp (80,08%), và tự rút
kinh nghiệm qua quá trình đứng lớp.
Hình 1. Phương pháp giảng dạy giảng viên đang áp dụng tại Trường.
6
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 19, May 2016
Khi được hỏi về phương pháp sư phạm
hiện tại của mình, 52,56% giảng viên Trường
tự đánh giá phương pháp sư phạm hiện tại ở
mức khá, 33,97% giảng viên đánh giá tốt,
9,62% đánh giá mình ở mức trung bình. Chỉ
có 0.64% giảng viên tự nhận phương pháp sư
phạm của mình còn yếu và 1,28% tự nhận là
xuất sắc (hình 2).
Hình 2. Giảng viên tự đánh giá phương pháp
giảng dạy.
Mặc dù vậy, 69,87% cho biết họ hài lòng
với phương pháp đang áp dụng. Như vậy, đa
số giảng viên đã hài lòng với mức khá trong
phương pháp giảng dạy của mình hoặc như
chia sẻ của một số giảng viên trong khảo sát,
việc thay đổi và áp dụng các phương pháp
mới đòi hỏi khá nhiều yếu tố (sinh viên chủ
động tham gia vào bài giảng, cơ sở vật chất
tốt, lớp học có sĩ số vừa phải, v.v..) khiến
việc áp dụng các phương pháp này còn hạn
chế.
Làm thế nào để khuyến khích giảng viên
áp dụng và thực hành tốt phương pháp giảng
dạy tích cực - một phương pháp được cho là
phù hợp với quá trình QTH? Nhóm nghiên
cứu đưa ra một số đề xuất để khắc phục tồn
tại và phần nào trả lời câu hỏi trên.
4. Một số đề xuất khuyến khích giảng
viên áp dụng và thực hành tốt phương
pháp giảng dạy tích cực.
Đối với giảng viên:
- Quyết tâm đổi mới phương pháp giảng
dạy. Điều này không đơn giản vì thực hiện
phương pháp giảng dạy tích cực mất nhiều
thời gian và công sức, từ chuẩn bị bài đến
thiết kế các hoạt động học tập.
- Dành thời gian nghiên cứu, trao đổi với
đồng nghiệp, tham gia các khóa tập huấn về
phương pháp giảng dạy để được cập nhật các
phương pháp mới, nắm bắt cách thức vận
dụng, ưu nhược điểm của từng phương pháp
để có thể phối hợp linh hoạt trong suốt quá
trình giảng dạy. Liên tục cập nhật để nắm
vững yêu cầu chuẩn đầu ra của ngành học nói
chung và của từng môn học mình phụ trách.
- Mạnh dạn trình bày những khó khăn
trong quá trình áp dụng các phương pháp
mới, đề xuất giải pháp và cùng phối hợp giải
quyết
- Phân chia thời gian hợp lý giữa hoạt
động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các
hoạt động phát triển chuyên môn. Một tỷ lệ
hợp lý có thể là 40/40/20 [5]. Theo đó, 40%
quỹ thời gian được dành cho hoạt động giảng
dạy, 40% cho nghiên cứu khoa học và 20%
cho các hoạt động hỗ trợ phát triển chuyên
môn.
Đối với Nhà trường: Song song với
những nỗ lực từ phía giảng viên, Nhà trường
cần:
- Thường xuyên tổ chức các khóa tập
huấn về phương pháp giảng dạy và giảng dạy
tích cực với sự hướng dẫn của các chuyên gia
trong và ngoài nước, trong và ngoài trường,
tạo điều kiện để mọi giảng viên đều có thể
tham gia.
- Xây dựng một bộ chương trình bồi
dưỡng cơ bản về phương pháp giảng dạy tích
cực cơ bản, có thể là chương trình trực tuyến
(online) dành cho các giảng viên mới được
tuyển dụng.
- Tăng cường việc lấy ý kiến người học
ở tất cả các môn học để giúp giảng viên hoàn
thiện phương pháp giảng dạy của mình. Kết
quả đánh giá của người học về giảng viên
cần được đưa ra thảo luận trực tiếp với giảng
viên, là một căn cứ để thủ trưởng đơn vị đánh
giá và để giảng viên tự cải thiện phương pháp
giảng dạy. Tuy nhiên việc sử dụng kết quả
đánh giá của người học đối với giảng viên
cần được xử lý một cách khéo léo và bảo
mật, trên tinh thần đóng góp tích cực, cá
nhân giảng viên nắm bắt và tìm hướng khắc
phục.
- Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về
phương pháp giảng dạy tích cực để giảng
viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và có
những bài học thực tiễn tốt nhất.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 19 - 05/2016
7
- Khuyến khích giảng viên tham gia các
khóa huấn luyện nâng cao nghiệp vụ và
phương pháp giảng dạy trong và ngoài nước.
- Có cơ chế hỗ trợ về tài chính và thời
gian để giảng viên tham gia các khóa bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Động viên
khuyến khích giảng viên đi học các chương
trình học bổng về phát triển chuyên môn
thường xuyên và phương pháp sư phạm ở
nước ngoài. Đưa vào Quy chế Chi tiêu nội bộ
quy định về mức hỗ trợ giảng viên đi học tập
bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm.
- Đưa tiêu chí Bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế vào Bảng chỉ số đánh giá năng lực
thực hiện quốc tế hóa của cá nhân và đơn vị.
- Xét bình chọn và tăng lương trước kỳ
hạn cho các giảng viên nhiều năm liên tục
thu hút được nhiều sinh viên đăng ký theo
học, được tín nhiệm của sinh viên qua khảo
sát lấy ý kiến người học.
5. Kết luận
Trong sự vận động không ngừng của thế
giới khoa học và tri thức, giảng viên không
còn đơn giản đóng vai trò truyền tải kiến
thức cho sinh viên, mà thông qua phương
pháp sư phạm của mình đã trở thành người
truyền cảm hứng cho sinh viên, khơi dậy
trong sinh viên lòng ham học hỏi, thúc đẩy
sinh viên tự nghiên cứu và từ đó hình thành
các kỹ năng cần thiết để làm việc trong môi
trường lao động cạnh tranh toàn cầu.
Việc cập nhật, đổi mới phương pháp
giảng dạy bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức,
và sẽ còn là cả một quá trình thử thách, đòi
hỏi sự phối hợp tốt giữa giảng viên với các
bên liên quan như sinh viên, Khoa, Nhà
trường, và các nhà tuyển dụng, nhà hoạch
định chính sách.
Lời cảm ơn
Bài báo này là một phần kết quả thu
nhận được từ dự án nghiên cứu “Quốc tế hóa
chương trình đào tạo và phương pháp giảng
dạy đại học thông qua các chương trình phát
triển chuyên môn thường xuyên (CPD) với
sự hỗ trợ của công nghệ giữa Việt Nam và
Vương quốc Anh” do Hội đồng Anh tài trợ.
Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn Hội
đồng Anh đã tài trợ và chân thành cảm ơn
các giảng viên Trường ĐH GTVT TP.HCM
đã tích cực tham gia trả lời khảo sát của
nhóm
Tài liệu tham khảo
[1] Barbara L.Mc Combs (1991), “Motivation and
Lifelong Learning”, Educational Psychologist,
[Online]. 26 (2), pp.117-127. Available:
326985ep2602_4
[2] Christa L.Olson, Madeleine F. Green and Barbara
A.Hill. (2006). A Handbook for Advancing
Comprehensive Internationalization: What
institutions can do and what students should
learn. Washington: American Council on
Education
[3] Nguyễn Thanh Hải, Phùng Thúy Phượng, Đồng
Thị Bích Thủy (2010), “Giới thiệu một số
phương pháp giảng dạy cải tiến giúp sinh viên
học tập chủ động và trải nghiệm, đạt các chuẩn
đầu ra theo CDIO”, Hội thảo CDIO.[Online].
Available:
/Cac%20bc,%20ap/B-
4_%20Gioi%20thieu%20PP%20giang%20day%
20cai%20tien-%20TT%20CEE.pdf
[4] Jocelyn Robson, “Active Teaching and Learning”.
[Online]. Available:
[5] John Gallup (2016), “US higher education system
overview”, Source of Exellence: Research and
Community Engagement in U.S. Universities. A
Conference for Higher Education Stakeholders.
Ho Chi Minh City.
[6] Silberman Mel (1996), Active Learning: 101
Strategies To Teach Any Subject, Prentice-Hall,
P.O. Box 11071, Des Moines, IA 50336-1071.
[7] Snježana Nevia Močinić (2012), “Active teaching
strategies in higher education”, Metodički obzori,
[Online]. 15(7). Available:
file:///C:/Documents%20and%20Settings/Admin
istrator/My%20Documents/Downloads/Active%
20teaching.pdf.
Ngày nhận bài: 31/03/2016
Ngày hoàn thành sửa bài: 21/04/2016
Ngày chấp nhận đăng: 28/04/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74_1_209_1_10_20170717_8137_2202508.pdf