Tài liệu Tích hợp rèn luyện ngôn ngữ Tự nhiên và ngôn ngữ Toán học cho học sinh trong dạy học khái niệm Toán học ở trường phổ thông - Phan Anh: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017
44
Tích hợp rèn luyện ngôn ngữ Tự nhiên
và ngôn ngữ Toán học cho học sinh trong dạy học
khái niệm Toán học ở trường phổ thông
Integrating the training of students’ Natural and Mathematical language into
teaching mathematical concepts in high schools
TS. Phan Anh, Trường Đại học Hà Tĩnh
Phan Anh, Ph.D., Ha Tinh University
ThS. Trần Thị Thiều Hoa, Trường Đại học Hà Tĩnh
Tran Thi Thieu Hoa, M.Sc., Ha Tinh University
Tóm tắt
Thực tiễn dạy học ở trường phổ thông cho thấy rằng, giáo viên (GV) ít quan tâm đến việc rèn luyện
ngôn ngữ cho học sinh (HS) nên chất lượng dạy học chưa đáp ứng được như mong muốn. Bài báo này
bàn luận đến vấn đề tích hợp rèn luyện ngôn ngữ tự nhiên (NNTN) và ngôn ngữ toán học (NNTH) cho
người học trong dạy học khái niệm toán học với mong muốn cải thiện chất lượng dạy học toán ở trường
phổ thông.
Từ khóa: ngôn ngữ Tự nhiên, ngôn ngữ Toán học, khái niệm Toán học, dạy học...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tích hợp rèn luyện ngôn ngữ Tự nhiên và ngôn ngữ Toán học cho học sinh trong dạy học khái niệm Toán học ở trường phổ thông - Phan Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017
44
Tích hợp rèn luyện ngôn ngữ Tự nhiên
và ngôn ngữ Toán học cho học sinh trong dạy học
khái niệm Toán học ở trường phổ thông
Integrating the training of students’ Natural and Mathematical language into
teaching mathematical concepts in high schools
TS. Phan Anh, Trường Đại học Hà Tĩnh
Phan Anh, Ph.D., Ha Tinh University
ThS. Trần Thị Thiều Hoa, Trường Đại học Hà Tĩnh
Tran Thi Thieu Hoa, M.Sc., Ha Tinh University
Tóm tắt
Thực tiễn dạy học ở trường phổ thông cho thấy rằng, giáo viên (GV) ít quan tâm đến việc rèn luyện
ngôn ngữ cho học sinh (HS) nên chất lượng dạy học chưa đáp ứng được như mong muốn. Bài báo này
bàn luận đến vấn đề tích hợp rèn luyện ngôn ngữ tự nhiên (NNTN) và ngôn ngữ toán học (NNTH) cho
người học trong dạy học khái niệm toán học với mong muốn cải thiện chất lượng dạy học toán ở trường
phổ thông.
Từ khóa: ngôn ngữ Tự nhiên, ngôn ngữ Toán học, khái niệm Toán học, dạy học khái niệm Toán học ở
trường phổ thông.
Abstract
The practice of teaching at high schools shows that teachers pay little attention to the training of
students' language ability, thus teaching quality has not reached the expected standards yet. The paper
discusses the integration of Natural and Mathematical language training into teaching Mathematical
concepts with a view to improving Mathematics teaching in high schools.
Keywords: Natural language, Mathematical language, Mathematical concepts, teaching Mathematical
concepts in high schools.
t
Toán học, theo một nghĩa nào đó, là
một ngôn ngữ để mô tả những tình huống
cụ thể nảy sinh trong nghiên cứu khoa học,
hoặc trong hoạt động thực tiễn của con
người. Bởi vậy, muốn vận dụng toán học
giải quyết vấn đề thực tiễn có hiệu quả, con
người cần nắm vững cả NNTN và NNTH.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, tham
gia vào mọi hoạt động của con người, đặc
biệt là hoạt động dạy học. Trong thời gian
gần đây đã có một vài công trình nghiên
cứu liên quan đến vấn đề ngôn ngữ trong
trong dạy học toán; chẳng hạn, trong [1],
tác giả đề cập đến một số biện pháp giúp
học sinh các lớp đầu cấp tiểu học sử dụng
hiệu quả ngôn ngữ toán học; trong [5], tác
giả đề cập đến phát triển tư duy logic và sử
dụng chính xác ngôn ngữ toán học cho học
sinh đầu cấp Trung học phổ thông, Tuy
PHAN ANH - TRẦN THỊ THIỀU HOA
45
nhiên, chưa có công trình nào đề cập đến
phối kết hợp một cách nhuần nhuyễn rèn
luyện NNTN và NNTH cho HS qua dạy
học toán. Vấn đề này quá lớn, vượt qua
khỏi phạm vi của của bài báo; ở đây chúng
tôi chỉ bàn luận đến khía cạnh tích hợp rèn
luyện NNTN và NNTH qua dạy học khái
niệm toán học ở trường phổ thông.
2 Nội du g ghiê cứu
2.1. Vài nét sơ lược về NNTN và NNTH
Cùng với hoạt động, trước hết là hoạt
động lao động sản xuất, ngôn ngữ là yếu tố
quyết định tách hẳn con người ra khỏi thế
giới động vật. Quá trình phát triển của xã
hội loài người diễn ra đồng thời với việc
hình thành và phát triển ngôn ngữ từng
vùng, từng lãnh thổ. Đối với con người,
ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, là
biểu hiện của tư duy. Thông qua giao tiếp
để truyền đạt và lĩnh hội thông tin, cá nhân
bộc lộ trình độ nhận thức, vốn văn hóa và
tính cách của mình. Con người từ khi sinh
ra đã "đắm mình" một cách vô thức trong
NNTN của cộng đồng đang chung sống;
một loại ngôn ngữ hỗn tạp, hay có, dở có,
có cái chuẩn, cái chưa chuẩn. Trong quá
trình hình thành và phát triển xã hội loài
người, ngôn ngữ ngày càng được chuẩn
xác và trong sáng hơn. Đặc biệt, khi các
ngành khoa học hình thành và phát triển,
một cách rất tự nhiên, xuất hiện "tiếng nói
riêng" của chúng: NNTH, ngôn ngữ văn
học, ngôn ngữ vật lí, ngôn ngữ hóa học,...
NNTH theo nghĩa hẹp là ngôn ngữ
được xây dựng trên hệ thống các ký hiệu
toán học; NNTH theo nghĩa rộng bao hàm
NNTH theo nghĩa hẹp và các thuật ngữ
toán học, hình vẽ, mô hình, biểu đồ, đồ
thị, có tính chất quy ước nhằm diễn đạt
nội dung toán học một cách chính xác,
logic và ngắn gọn. NNTH có hai phương
diện: ngữ nghĩa (Semantic) và cú pháp
(Syntactic). Ngữ nghĩa và cú pháp của
NNTH được xem như là các mặt nội dung
và hình thức của NNTH. NNTH là sự sáng
tạo con người để biểu đạt các sự kiện toán
học, nó khắc phục tính cồng kềnh, đa nghĩa
của NNTN và mở rộng khả năng biểu đạt.
Hơn nữa, NNTH có tính chất uyển chuyển,
một ký hiệu toán học trong những ngữ
cảnh khác nhau có thể biểu đạt những nội
dung khác nhau; chẳng hạn, ký hiệu AB có
thể biểu đạt là đoạn thẳng AB, cũng có thể
là độ dài đoạn thẳng AB, tia AB... Tính
uyển chuyển và tính chặt chẽ của NNTH
tưởng chừng mâu thuẫn với nhau nhưng kỳ
thực nó bổ sung cho nhau và đây là một
đặc điểm rất quan trọng của NNTH. Khoa
học Toán học ngày càng phát triển, NNTH
cũng không ngừng cải tiến và xuất hiện:
ngôn ngữ đại số, ngôn ngữ hình học, ngôn
ngữ vectơ, ngôn ngữ nhóm,...
2.2. Quan điểm chung về tích hợp
rèn luyện NNTN và NNTH trong dạy học toán
Tích hợp là một hoạt động mà ở đó
cần phải kết hợp, liên hệ, huy động các yếu
tố, có liên quan với nhau của nhiều lĩnh
vực để giải quyết một vấn đề, qua đó đạt
được nhiều mục tiêu khác nhau. Tích hợp
rèn luyện NNTN và NNTH là sự phối kết
hợp rèn luyện hai loại hình ngôn ngữ trên
cho HS thông qua dạy học các chủ đề toán
học cụ thể. Để đạt được mục tiêu này, cần
quán triệt quan điểm sau đây.
Thứ nhất, lấy việc bồi dưỡng NNTH là
trọng tâm, tận dụng cơ hội để tích hợp bồi
dưỡng NNTN trong dạy học toán.
Thứ hai, việc bồi dưỡng NNTN cho
HS trong dạy học toán, trước hết phải
nhằm vào mục đích cải thiện chất lượng
dạy học.
Thứ ba, NNTN được hình thành và
phát triển ở trẻ trong một khoảng thời gian
dài, trước khi đi học còn NNTH các em
TÍCH HỢP RÈN LUY N NGÔN NGỮ TỰ NHIÊN VÀ NGÔN NGỮ TOÁN HỌC CHO HỌC SINH
46
tiếp cận khi đến trường; do đó, việc bồi
dưỡng NNTN cho HS trong dạy học toán
theo tinh thần “sửa chữa” là chính, việc bồi
dưỡng NNTH phải thực hiện bài bản trên
cả hai phương diện: cú pháp và ngữ nghĩa.
Thứ tư, việc tích hợp rèn luyện NNTH
và NNTN cho HS phải thông qua hoạt
động ngôn ngữ trên lớp học và được tiến
hành song song trong dạy học từng nội
dung toán học.
Thứ năm, sự tham gia của NNTN
trong dạy học toán trên hai phương diện: 1)
Phương tiện giao tiếp thông thường giữa
HS với HS, giữa GV với HS; 2) Phương
tiện để giải thích làm rõ hơn nội dung toán
học. Ở Phương diện thứ nhất, chủ yếu là
GVsử dụng NNTN để nhắc nhở, kích hoạt,
gợi động cơ cho HS thực hiện hoạt động
học tập. Để thực hiện điều đó, người thầy
có thể sử dụng vốn ngôn ngữ phong phú
của mình; tuy nhiên, cần lưu ý rằng, người
học sẽ bắt chước rất nhanh và thật là tai hại
nếu chúng ta sử dụng không chuẩn mực.
Mặt khác, không quá lạm dụng hoạt động
này, ảnh hưởng đến thời gian dạy học trên
lớp. Về phương diện thứ hai, khi GV sử
dụng NNTN để giải thích hay yêu cầu HS
giải thích làm rõ thêm nội dung toán học,
phải quán triệt các nguyên tắc sau: 1)
Chính xác, ngắn gọn, tường minh và đủ ý;
2) Tuyệt đối không được dùng các câu,
cụm từ đa nghĩa. GV luôn tâm nguyện
những nguyên tắc này để uốn nắn, sửa
chữa cho HS khi họ sử dụng NNTN trong
dạy học toán.
2.3. Khái niệm toán học và định nghĩa
khái niệm Toán học ở trường phổ thông
Khái niệm là một hình thức tư duy,
phản ánh một lớp đối tượng nào đó; nó
được xem xét trên hai phương diện: nội
hàm và ngoại diên. Ngoại diên của khái
niệm là lớp đối tượng mà khái niệm phản
ánh; nội hàm của khái niệm là các thuộc
tính chung của tất cả các phần tử thuộc lớp
đối tượng đó. Cho hai khái niệm A và B ký
hiệu thứ tự là ngoại diên của
chúng. Nếu là một bộ phận của thì
B được gọi là khái niệm loại của khái niệm
A và A được gọi là khái niệm chủng của
khái niệm B.
Để hiểu rõ các khái niệm toán học, ta
phải làm rõ đặc trưng của chúng, tức là
phải định nghĩa khái niệm. Các khái niệm
toán học ở trường phổ thông bao gồm hai
loại, loại thứ nhất, được định nghĩa tường
minh; loại thứ hai, là những khái niệm
nguyên thủy (là những khái niệm được
thừa nhận, làm xuất phát điểm) hoặc những
khái niệm khác không được định nghĩa, vì
lí do về mặt sư phạm.
2.4. Tích hợp rèn luyện NNTN và
NNTH cho HS qua dạy học khái niệm
Toán học
2.4.1. Tích hợp rèn luyện NNTN và
NNTH cho HS trong dạy học khái niệm
toán học được định nghĩa tường minh
Phần lớn khái niệm toán học trong
giáo trình toán học phổ thông được định
nghĩa tường minh và cấu trúc chúng được
mô tả như sau:
Khái iệm
mới
=
Khái iệm
loại
+
Thuộc tí h
chỉ c
trư g
chủ g
Để đạt được mục đích tích hợp rèn
luyện NNTN và NNTH cho HS, trong dạy
học khái niệm toán học, GV cần chú ý đến
các vấn đề sau. Thứ nhất, phải làm cho
người học nắm chắc cấu trúc định nghĩa
khái niệm toán học. Thứ hai, GV phải đặt
khái niệm vừa được hình thành trong một
hệ thống khái niệm để HS dễ dàng tìm
được “khái niệm loại", tạo điều kiện cho họ
PHAN ANH - TRẦN THỊ THIỀU HOA
47
thực hiện định nghĩa bằng các cách khác
nhau. Thứ ba, phải giới thiệu cho HS các
ký hiệu toán học có liên quan để các em có
thể “phiên dịch” định nghĩa qua NNTH.
Thứ tư, phải làm cho người học thấy được
rằng, một khái niệm toán học được định
nghĩa bằng nhiều cách thì chúng đều tương
đương. Đây là cơ sở để các em phát biểu
các mệnh đề tương đương và biểu đạt các
nội dung này qua NNTH. Chúng tôi sẽ cụ
thể hóa những vấn đề vừa trình bày qua ví
dụ dạy học:
“Khái niệm hình vuông”. Khi HS kiến tạo
được định nghĩa: “Hình vuông là hình chữ
nhật và có hai cạnh liên tiếp bằng nhau”,
GV nên làm rõ “cấu trúc hội” của định
nghĩa khái niệm này bằng hình 1. Đồng
thời giải thích cho HS: “ ớp hình vuông
NA được tách từ lớp hình chữ nhật NB, bởi
đặc trưng D, và như vậy, ta đã định nghĩa
hình vuông từ hình chữ nhật”.
GV lưu ý với người học, các từ “và”,
“là” trong định nghĩa. Theo quan điểm của
Vygotsky, việc xem xét ý nghĩa của từ là
kết hợp của tư duy khái quát hóa và sự thay
đổi của xã hội, Ông cho rằng, hướng phát
triển đúng đắn của lời nói và tư duy của trẻ
em không phải là từ cá nhân đến xã hội mà
phải đi từ xã hội tới cá nhân (dẫn theo [7],
tr.36). Thông qua giáo dục nhiều môn học
trong nhà trường và bằng kinh nghiệm của
mình, các em đã biết được ít nhiều nghĩa
của từ “và” ở tầm khái quát, đó là một từ đa
nghĩa, thuộc nhiều từ loại khác nhau. Trong
NNTN, từ “và” có thể là động từ, trạng từ
hay kết từ; chẳng hạn, “em bé đang và
cơm”, hoặc “Hòa và an là bạn thân”. Tuy
nhiên, trong toán học phổ thông, từ “và”
được hiểu theo nghĩa kết từ, biểu đạt mối
quan hệ kết hợp giữa các đối tượng, người
ta dùng dấu “{” thay cho nó khi diễn đạt
qua NNTH. Tương tự như vậy, đối với từ
“là” có nghĩa “khi và chi khi”, hay “nếu và
chỉ nếu” được ký hiệu toán học bởi dấu
"" . Trên cơ sở đó, GV hướng dẫn HS
diễn đạt định nghĩa nói trên qua NNTH. Rất
là cần thiết, nếu GV trình bày hai loại hình
ngôn ngữ này trên hai phần bảng, để HS
thấy được sự tương ứng giữa chúng:
- Hình vuông là hình chữ nhật và
có hai cạnh liên tiếp bằng nhau.
Đặt P: “ABCD là hình vuông”; Q1:”ABCD là hình
chữ nhật”; R1: “ABCD có hai cạnh liên tiếp bằng
nhau”, ta có :
1
1
R
Q
P
Hình
chữ nhật
Hình 1
Hình
vuông
NB
=
D:
Có hai
cạnh
liên
tiếp
bằng
nhau +
D
NA
TÍCH HỢP RÈN LUY N NGÔN NGỮ TỰ NHIÊN VÀ NGÔN NGỮ TOÁN HỌC CHO HỌC SINH
48
Ngoài ra, cần lưu ý với người học, “cấu
trúc hội” của định nghĩa khái niệm không
phải khi nào cũng phải có từ “và”; chẳng
hạn, có thể phát biểu: “ Hình vuông là hình
chữ nhật, có hai cạnh liên tiếp bằng nhau”.
Sau hoạt động làm mẫu, GV yêu
cầu HS tìm mối liên hệ giữa khái niệm
hình vuông với khái niệm hình thoi, hình
bình hành và thực hiện các hoạt động
tương tự như trên. Hy vọng rằng, người
học sẽ thực hiện được điều đó và cho các
kết quả sau.
-Hình vuông là hình thoi, có một góc
vuông.
Đặt P:“ABCD là hình vuông”; Q2:”ABCD là
hình thoi”; R2: “ABCD có một góc vuông”, ta
có:
2
2
R
Q
P
Hình vuông là hình bình hành có hai
đường chéo bằng nhau và có hai cạnh
liên tiếp bằng nhau.
Đặt P: “ABCD là hình vuông”; Q3:”ABCD là
hình bình hành, có hai đường chéo bằng nhau”;
R3: “ABCD có hai cạnh liên tiếp bằng nhau”, ta
có:
3
3
R
Q
P
Cần khẳng định rằng, tất cả các định
nghĩa của một khái niệm đều tương đương;
do đó, có thể lập được các mệnh đề:
;
2
2
1
1
Q
P
R
Q
;
3
3
1
1
R
Q
R
Q
3
3
2
2
R
Q
R
Q
Một điều quan trọng là không quên
yêu cầu người học “phiên dịch” ngược lại
các mệnh đề này để góp phần rèn luyện
NNTN. Chẳng hạn, có thể phát biểu:
“ABCD là hình chữ nhật có hai cạnh liên
tiếp bằng nhau khi và chỉ khi (nếu và chỉ
nếu) ABCD là hình thoi có một góc
vuông”, hay là: “ABCD là hình chữ nhật
có hai cạnh liên tiếp bằng nhau khi và chi
khi (nếu và chỉ nếu) ABCD là hình bình
hành có hai đường chéo bằng nhau”,
Việc rèn luyện NNTN và NNTH trong
dạy học toán phải thực hiện đồng thời; tuy
nhiên, ở mức độ nào và nhấn mạnh khía
cạnh nào còn phụ thuộc đối tượng người
học. HS càng lớn tuổi cần chú trọng hơn về
mặt cú pháp (tất nhiên không sao nhãng
phương diện ngữ nghĩa). Bởi vậy, trong
dạy học khái niệm toán ở trường Trung học
phổ thông dạng này, ngoài những hoạt
động đã mô tả ở trên, cần phân tích cấu
trúc logic của định nghĩa, làm cho HS thấy
được sự khác biệt giữa NNTN và NNTH.
Chúng tôi sẽ làm rõ điều này qua phân tích
định nghĩa khái niệm “Hàm số liên tục tại
một điểm” trong giáo trình môn toán ở
trường phổ thông. Sách giáo khoa toán lớp
11 định nghĩa “Giả sử hàm số f xác định
trên khoảng (a, b), ),(0 bax . Hàm số f
được gọi là liên tục tại 0x nếu
)()(lim 0
0
xfxf
xx
”
Trước hết, chúng tôi có một vài bình
luận về cách phát biểu của định nghĩa này.
Nếu đặt:
PHAN ANH - TRẦN THỊ THIỀU HOA
49
P: “ )()(lim 0
0
xfxf
xx
”;
Q: “Hàm số f liên tục tại 0x ”
thì cấu trúc logic của định nghĩa được
mô tả bởi mệnh đề QP ; trong khi đó,
đáng lẽ phải là QP . Chính vì điều này
mà tác giả Tạ Quang Sơn rất phân vân về
cách diễn đạt các định nghĩa tương tự như
trên trong các giáo trình toán học (xem
[5]). Theo chúng tôi, nguyên nhân có hiện
tượng này là do sự khập khểnh giữa NNTN
và NNTH. Thực vậy, trong cuộc sống, ta
vẫn thường nghe những lời hứa như “Nếu
con đỗ đại học thì mẹ cho đi du lịch”.
Đương nhiên, có thể ngầm hiểu “Nếu con
không đỗ đại học thì không được đi du
lịch”. Như vậy, trong cuộc sống nhiều khi
diễn đạt mệnh đề có dạng BA , phải
ngầm hiểu thêm BA . Vì rằng
BA
BA
AB
BA
BA
nên trong cuộc sống, nhiều khi diễn
đạt BA , ta phải ngầm hiểu BA .
Với lý giải này, có thể khẳng định, mặc dù
diễn đạt định nghĩa khái niệm “Hàm số liên
tục tại một điểm” có cấu trúc QP
nhưng phải hiểu là QP . Không được lý
giải thì HS cũng có thể chấp nhận cấu trúc
phi logic của định nghĩa trên vì họ đã được
trải nghiệm qua cuộc sống thường ngày.
Tuy nhiên, làm rõ điều đó sẽ giúp cho
người học nắm chắc hơn khái niệm toán
học, biết được sự khập khễnh giữa NNTN
và NNTH, tạo điều kiện cho họ “phiên
dịch” qua lại giữa hai loại hinh ngôn ngữ
này một cách chuẩn xác.
Bên cạnh những khái niệm được định
nghĩa theo dạng “cấu trúc hội” vừa được
trình bày, giáo trình toán học phổ thông
còn có các khái niệm được định nghĩa
tường minh qua con đường kiến thiết, xây
dựng. Đối với dạy học những khái niệm
này, GV phải tổ chức cho HS kết hợp một
cách nhuần nhuyễn việc sử dụng NNTH
(trong việc xây dựng đối tượng đại diện)
với NNTN (trong việc mô tả đối tượng đại
diện) để hình thành khái niệm. Chẳng hạn,
trong dạy học số vô tỉ, GV cần đưa ra
những ví dụ về những số thập phân:
4,0123.... (trước dấu phẩy là 4, sau dấu
phẩy là dãy số tự nhiên); 3,1357... (trước
dấu phẩy là 3, sau dấu phẩy là dãy số tự
nhiên lẻ),... đó là những số thập phân vô
hạn không tuần hoàn. Sau đó, yêu cầu HS
lấy các ví dụ tương tự (kèm theo lời giải
thích); từ đó, hình thành định nghĩa: “Số vô
tỉ là sô thập phân vô hạn không tuần hoàn”.
Hoạt động dẫn ra ở trên có ý nghĩa rất quan
trọng trong dạy học, làm cho người học
thấy được sự tồn tại của đối tượng (HS có
thể tự xây dựng được), tạo cơ hội cho việc
phối kết hợp rèn luyện NNTN và NNTH.
2.4.2. Tích hợp rèn luyện NNTN và
NNTH qua dạy học các khái niệm toán học
không được định nghĩa tường minh
Trong giáo trình toán học phổ thông,
nhiều khái niệm nguyên thủy, không định
nghĩa. Đối với những khái niệm này, “cần
mô tả, giải thích thông qua những ví dụ cụ
thể để học sinh hình dung được những khái
niệm này, hiểu được chúng một cách trực
giác” ([4], tr.339). Do đó, trong dạy học
khái niệm, việc sử dụng NNTN cần đặc
biệt chú ý để hình thành biểu tượng khái
niệm cho người học. Bên cạnh đó, cho HS
lấy các ví dụ thể hiện khái niệm, kèm theo
lời giải thích bằng NNTN với những yêu
cầu đã đề cập đến trong Mục 2.2. Việc rèn
luyện NNTH ở đây được thể hiện qua việc
dùng hình vẽ để mô tả khái niệm. Chúng
tôi sẽ làm sáng tỏ điều này trong dạy học “
khái niệm Mặt phẳng” ở lớp 11, Trường
TÍCH HỢP RÈN LUY N NGÔN NGỮ TỰ NHIÊN VÀ NGÔN NGỮ TOÁN HỌC CHO HỌC SINH
50
Trung học phổ thông.
Khái niệm “Mặt phẳng” là khái niệm
nguyên thủy không định nghĩa, nhiệm vụ
của GV là phải làm cho HS ý niệm được
khái niệm này qua các ví dụ cụ thể. Đầu
tiên, thầy giáo có đưa ra một vài ví dụ: “Mặt
bàn là hình ảnh của mặt phẳng”; “Mặt
tường nhà là hình ảnh của mặt phẳng”,...
Sau đó giới thiệu: người ta biểu diễn mặt
phẳng bằng hình bình hành (xem hình vẽ 2).
Hình 2
GV cần gạch chân dưới cụm từ “hình
ảnh” để HS thấy được rằng, hình bình hành
không phải là mặt phẳng mà là đối tượng
để ta hình dung; mặt phẳng không bị giới
hạn mà ‘trải” ra vô tận.
Tiếp đó, thầy giáo yêu cầu người học
lấy các ví dụ khác về hình ảnh của mặt
phẳng. GV đặc biệt chú ý đến hoạt động
ngôn ngữ của HS để uốn nắn, sửa chữa cho
họ theo tinh thần đã trình bày ở trên. Có thể
người học đưa ra những ví dụ, diễn đạt chưa
chuẩn xác, như: “Mặt nước hồ yên lặng là
mặt phẳng”, GV cần dành thời gian cho
những HS khác nhận xét và bổ sung lại để
hình thành trong mỗi một học trò của mình
ý niệm đúng đắn về khái niệm mặt phẳng.
Bên cạnh khái niệm nguyên thủy, giáo
trình toán phổ thông còn có những khái
niệm không được định nghĩa tường minh
mà chỉ mang tính chất quy ước. Khi dạy
khái niệm này, ngoài sử dụng NNTN để
diễn đạt khái niệm, GV phải sử dụng hình
vẽ, sơ đồ để trực quan hóa mối quan hệ
khái niệm này với các khái niệm khác liên
quan. Chẳng hạn, đối với số thực, ở phổ
thông quy ước: “số hữu tỷ và số vô tỉ gọi
chung là số thực”, ta nên dùng hình vẽ 3 để
mô tả mối quan hệ giữa số số thực , tập
số vô tỉ và tập số hữu tỉ ; đồng thời biểu
diễn mối quan hệ đó qua NNTH:
.
Hoạt động này sẽ giúp HS có ý niệm
đúng đắn về khái niệm số thực và có căn
cứ định hướng giải quyết các bài toán có
dạng: “Chứng minh số thực là số vô tỉ”
bằng phương pháp phản chứng.
3 Kết luậ
Trong hoạt động dạy học, ngôn ngữ
được ví như “dòng chảy” kết nối mọi thông
tin, hình thành nên các năng lực cho người
học. Việc tích hợp rèn luyện NNTN và
NNTH cho HS trong dạy học khái niệm ở
trường phổ thông góp phần làm cho người
học nắm chắc khái niệm - một trong những
kiến thức nền tảng của môn toán ở phổ
thông. Có nắm chắc khái niệm, HS mới
linh hoạt diễn đạt chúng dưới nhiều hình
thức và sử dụng trong các tình huống khác
nhau. Hy vọng rằng, qua nội dung trao đổi
trong bài báo này, GV có phương thức tích
hợp rèn luyện cả NNTN và NNTH cho HS
trong dạy học khái niệm toán học, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học toán ở
trường phổ thông.
PHAN ANH - TRẦN THỊ THIỀU HOA
51
T T K
1. Trần Ngọc Bích (2013), Một số biện
pháp giúp học sinh các lớp đầu cấp tiểu
học sử dụng hiệu quả ngôn ngữ toán
học, Luận án Tiến sĩ giáo dục học, Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2. Hoàng Chúng (1994), Một số vấn đề về
giảng dạy ngôn ngữ và kí hiệu Toán học
ở trường phổ thông cấp 2, Bộ giáo dục
và Đào tạo -Vụ giáo viên, Hà Nội.
3. Phạm Văn Hoàn, Trần Thúc Trình,
Nguyễn Gia Cốc (1981), Giáo dục học
môn toán, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Bá Kim (2006), Phương pháp
dạy học môn Toán, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
5. Tạ Quang Sơn (2010), “Một số điểm
cần quan tâm khi trình bày văn bản toản
học”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học tự
nhiên lần thứ I.
6. Nguyễn Văn Thuận (2004), Góp phần
phát triển tư duy logic và sử dụng chính
xác ngôn ngữ Toán học cho học sinh
đầu cấp trung học phổ thông trong dạy
học Đại số 10, Luận án Tiến sĩ Giáo dục
học, Đại học Vinh, Nghệ An.
7. Lev S. Vygotsky (1986), Thought and
Language, (translation newly revised
and edited by Alex Kozulin), The MIT
Press.
Ngày nhận bài: 16/5/2017 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61_2877_2215113.pdf