Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến sử dụng rượu bia ở nam giới từ 15 – 60 tuổi tại phường Trần Phú, Thành phố Quảng Ngãi năm 2017

Tài liệu Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến sử dụng rượu bia ở nam giới từ 15 – 60 tuổi tại phường Trần Phú, Thành phố Quảng Ngãi năm 2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 95 TỈ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỬ DỤNG RƯỢU BIA Ở NAM GIỚI TỪ 15 – 60 TUỔI TẠI PHƯỜNG TRẦN PHÚ, THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI NĂM 2017 Trần Minh Đức*, Phạm Thị Vân Phương** TÓM TẮT Mở đầu: Sử dụng rượu bia không hợp lý gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe. Trong những năm gần đây, lượng rượu bia tiêu thụ và khả năng tiếp cận rượu bia của người dân tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở nam giới. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến sử dụng rượu bia chưa hợp lý, tỉ lệ các đặc điểm về bối cảnh sử dụng rượu bia của nam giới từ 15-60 tuổi tại phường Trần Phú, thành phố Quảng Ngãi năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang trên 276 nam giới độ tuổi từ 15-60 được lựa chọn bằng phương pháp ngẫu nhiên đơn. Bộ công cụ AUDIT được sử dụng để đánh giá việc sử dụng rượu bia của đối tượng nghiên cứu. Nguy cơ ở các nhóm đối tượng được đ...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 442 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến sử dụng rượu bia ở nam giới từ 15 – 60 tuổi tại phường Trần Phú, Thành phố Quảng Ngãi năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 95 TỈ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỬ DỤNG RƯỢU BIA Ở NAM GIỚI TỪ 15 – 60 TUỔI TẠI PHƯỜNG TRẦN PHÚ, THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI NĂM 2017 Trần Minh Đức*, Phạm Thị Vân Phương** TÓM TẮT Mở đầu: Sử dụng rượu bia không hợp lý gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe. Trong những năm gần đây, lượng rượu bia tiêu thụ và khả năng tiếp cận rượu bia của người dân tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở nam giới. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến sử dụng rượu bia chưa hợp lý, tỉ lệ các đặc điểm về bối cảnh sử dụng rượu bia của nam giới từ 15-60 tuổi tại phường Trần Phú, thành phố Quảng Ngãi năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang trên 276 nam giới độ tuổi từ 15-60 được lựa chọn bằng phương pháp ngẫu nhiên đơn. Bộ công cụ AUDIT được sử dụng để đánh giá việc sử dụng rượu bia của đối tượng nghiên cứu. Nguy cơ ở các nhóm đối tượng được đánh giá bằng hồi quy logistic và tỉ số số chênh (OR) trong mô hình đa biến. Kết quả: Tỉ lệ sử dụng rượu bia trong 12 tháng qua của 276 nam giới tham gia nghiên cứu là 86%. Tỉ lệ sử dụng rượu bia chưa hợp lý (điểm AUDIT≥8) là 44%. Các bối cảnh sử dụng rượu bia phổ biến nhất là: ngày cuối tuần, buổi tối, vỉa hè/quán nhậu/quán bia, lý do uống rượu bia là gặp gỡ bạn bè, sử dụng bia có nhãn hàng nước ngoài. Yếu tố liên quan với sử dụng rượu bia chưa hợp lý là tuổi, hút thuốc lá và tuổi uống rượu bia lần đầu. Kết luận: Tỉ lệ sử dụng rượu bia chưa hợp lý ở nam giới từ 15-65 tuổi tại phường Trần Phú, thành phố Quảng Ngãi hiện ở mức cao, đây là vấn đề cần được sự quan tâm chú ý của các ban ngành địa phương. Từ khóa: nam giới, rượu bia, AUDIT, Quảng Ngãi. ABSTRACT PREVALENCE AND FACTORS ASSOCIATED WITH PROBLEMATIC DRINKING AMONG 15-TO-60-YEAR-OLD MALES LIVING IN TRAN PHU WARD, QUANG NGAI CITY IN 2017 Tran Minh Duc, Pham Thi Van Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 95 - 100 Background: Improper use of alcohol causes many health effects. In recent years, an increase in the availability of alcohol and the alcolhol volumne consumed by the local people has been noted in Quang Ngai province, especially in men. Objectives: To determin e the prevalence and factors associated with problematic drinking, the contexts of alcohol drinking among 15-to-60-year-old males living in Tran Phu ward, Quang Ngai city in 2017. Method: Cross-sectional study conducted on 276 men aged from 15 to 60 years old. The participants were chosen randomly from the residence list provided by the local government. The Alcohol Use Disorders * Friends for International Tuberculosis-relief (FIT) Vietnam, ** Khoa YTCC, Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: BS Trần Minh Đức ĐT: 01656574593 Email: tmduc93@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 96 Identification Test (AUDIT) was employed to assess alcohol drinking status. Adjusted odds ratio of problematic drinking between the demographic groups were estimated by logistic regression. Results: The prevalence of alcohol drinking within the last 12 months and problematic drinking was 86% and 44% respectively. The common contexts of alcohol drinking were: at weekend, in the evening, on pavements/in taverns, meeting friends as the reason, foreign-labeled beers as the chosen beverage. Factors related to problematic drinking included age, tobacco smoking and age of onset. Conclusion: The prevalence of problematic alcohol drinking in Tran Phu ward is considerable. Government’s attention is needed. Keywords: Alcohol, drinking males, AUDIT, Quang Ngai. ĐẶT VẤN ĐỀ Đồ uống có cồn là loại thức uống phổ biến và có lịch sử từ lâu đời. Tuy vậy việc lạm dụng rượu bia đã và đang gây nên nhiều gánh nặng về kinh tế, y tế, xã hội cho nhiều quốc gia trên thế giới(12). Theo nghiên cứu gộp về Gánh nặng bệnh tật toàn cầu 2015, lạm dụng rượu bia gây nên 85 triệu số năm mất đi do bệnh tất và tử vong sớm (DALYs), đứng thứ 9 trong 10 yếu tố nguy cơ hàng đầu gây nên gánh nặng bệnh tật và tử vong trên thế giới(6). Việt Nam là nước có lượng rượu bia tiêu thụ bình quân đầu người (từ 15 tuổi trở lên) tăng nhanh trong vòng hơn 10 năm gần đây(20). Lạm dụng rượu bia thực sự là vấn đề y tế công cộng lớn ở Việt Nam khi nó xếp thứ tư trong các yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ra gánh nặng bệnh tật, tử vong(6). Đặc biệt, nam giới là đối tượng có nguy cơ chịu tác hại từ rượu bia nhiều nhất do việc sử dụng và lạm dụng rượu bia rất phổ biến ở đối tượng này. Theo một điều tra quốc gia trên hơn 3000 người tại Việt Nam năm 2015, có 44% nam giới tham gia nghiên cứu uống quá chén (từ 60 gram cồn trở lên trong 30 ngày qua)(4). Quảng Ngãi là một tỉnh nằm ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Nơi đây hiện có 2 nhà máy bia lớn sản xuất các sản phẩm bia nội địa được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam đó là nhà máy bia Dung Quất và nhà máy bia Sài Gòn-Quãng Ngãi. Theo đó, Quảng Ngãi được đánh giá là “một trong năm vùng trọng điểm sản xuất và tiêu thụ bia Sài Gòn”(7). Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá nguy cơ sức khỏe do sử dụng rượu bia cũng như mô tả bối cảnh sử dụng rượu bia của nam giới tại phường Trần Phú-thành phố Quảng Ngãi. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến sử dụng rượu bia chưa hợp lý, tỉ lệ các đặc điểm về bối cảnh sử dụng rượu bia của nam giới từ 15-60 tuổi tại phường Trần Phú, thành phố Quảng Ngãi năm 2017. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nam giới độ tuổi từ 15 - 60 được chọn ngẫu nhiên đơn từ danh sách hộ khẩu thường trú của phường Trần Phú. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang thực hiện tại phường Trần Phú thuộc thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi vào tháng 5 đến tháng 7 năm 2017. Bộ công cụ AUDIT của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) được sử dụng để đánh giá việc sử dụng rượu bia của đối tượng nghiên cứu(2,9). Cỡ mẫu Sử dụng công thức tính cỡ mẫu để ước lượng một tỷ lệ Trong đó: n là cỡ mẫu; Z(1-α/2) = 1,96 với độ tin cậy 95%; d = 0,06 là sai số lựa chọn; p là tỉ lệ ước lượng, chọn p = 0,33 là tỷ lệ sử dụng rượu bia chưa hợp lý (AUDIT ≥8) theo phân loại nguy cơ dựa trên bộ công cụ AUDIT trong nghiên Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 97 cứu của tác giả Nguyễn Hiền Vương tại xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội(18). Dự trù tỉ lệ mất mẫu hay không tiếp cận được là 15%, do đó cỡ mẫu tính được là 271 người. Cỡ mẫu thực tế thu thập được là 276 người. Phân tích và xử lý số liệu Nhập dữ liệu bằng phần mềm EpiData 3.1 và phân tích dữ kiện bằng Stata 13. Kiểm định chi bình phương dùng để so sánh tỷ lệ giữa 2 biến số định tính. Hồi quy Poisson đơn biến với phương sai robust được sử dụng để ước lượng PR với khoảng tin cậy 95% để đánh giá mối liên quan giữa biến phụ thuộc và biến độc lập. Hồi quy Logistic đa biến được sử dụng để đánh giá mối liên quan bằng tỉ số số chênh OR với khoảng tin cậy 95%, mối liên quan có ý nghĩa thống kê khi p <0,05 và khoảng tin cậy không chứa giá trị 1. Sử dụng phương pháp Stepwise backward để lựa chọn ra mô hình tối ưu có khả năng giải thích mối quan hệ giữa biến số phụ thuộc là SDRB chưa hợp lý với biến số độc lập gồm nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn, hút thuốc lá, tuổi uống rượu bia lần đầu. Tiêu chuẩn để loại ra các biến không phù hợp là có p≥0,05. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm dân số-xã hội và tỉ lệ sử dụng rượu bia 12 tháng qua của nam giới tham gia nghiên cứu (n=276) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Sử dụng rượu/bia 12 tháng qua Có Không 237 39 85,9 14,1 Dân tộc Kinh 276 100 Nhóm tuổi 15-24 tuổi 25-34 tuổi 35-44 tuổi 45-54 tuổi 55-60 tuổi 54 54 63 62 43 19,6 19,6 22,8 22,5 15,5 Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Trình độ học vấn ≤Tiểu học THCS THPT TC/CĐ/ĐH/SĐH 10 42 74 150 3,6 15,2 26,8 54,4 Nghề nghiệp Học sinh/sinh viên Nông dân Công nhân Kinh doanh/buôn bán/tự làm chủ CC-VC nhà nước/văn phòng Thất nghiệp/không việc 33 3 61 37 115 27 12,0 1,1 22,1 13,4 41,6 9,8 Tình trạng hôn nhân Độc thân Đã kết hôn Ly dị/góa Sống chung với bạn tình 75 198 1 2 27,2 71.7 0,4 0,7 Có 85,9% trong tổng số 276 nam giới được hỏi cho biết có uống rượu/bia trong 12 tháng vừa qua. Hơn một nửa số người được khảo sát có trình độ học vấn trên Trung học phổ thông (54,4%). Trên 40% người được khảo sát là CC- VC nhà nước hoặc làm công việc văn phòng. Tỉ lệ đã kết hôn (71,7%) chiếm gấp gần 3 lần người còn độc thân (27,2%). 100% đối tượng nghiên cứu là dân tộc Kinh. Bảng 2: Tuổi lần đầu uống rượu bia và hành vi hút thuốc lá của nam giới có sử dụng rượu bia 12 tháng vừa qua (n=237) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Có hút thuốc lá Có Không 110 127 46,4 53,6 Tuổi lần đầu uống rượu bia <20 tuổi ≥20 tuổi 76 161 32,1 67,9 Đánh giá trên 237 nam giới có sử dụng rượu bia 12 tháng qua, cứ 100 người được hỏi thì có khoảng 46 người có hút thuốc lá. Đa số nam giới uống rượu bia lần đầu ở lứa tuổi từ 20 trở lên (67,9%). Bảng 3: Phân loại sử dụng rượu bia theo AUDIT của nam giới tham gia nghiên cứu (n=276) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Mức độ nguy cơ Nguy cơ thấp Nguy cơ 154 107 55,8 38,7 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 98 Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Có hại Nghiện/phụ thuộc 11 4 4,0 1,5 Sử dụng rượu bia chưa hợp lý (AUDIT ≥8) Có Không 122 154 44,2 55,8 *Chú thích: Nguy cơ thấp: AUDIT <8; Nguy cơ: AUDIT =8-15; Có hại: AUDIT =16-19; Nghiện/phụ thuộc: AUDIT ≥20. Gần một nửa nam giới tham gia nghiên cứu (44,2%) sử dụng rượu bia chưa hợp lý. Trong đó, tỉ lệ người sử dụng rượu bia ở Mức nguy cơ là 38,7%, chiếm đa số trong nhóm sử dụng rượu bia chưa hợp lý, theo sau lần lượt là nhóm Có hại (4%) và nhóm Nghiện/phụ thuộc (1,5%). Bảng 5: Bối cảnh sử dụng rượu/bia của nam giới có sử dụng rượu bia trong 12 tháng qua (n=237) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Ngày uống rượu/bia Ngày đi làm Ngày cuối tuần Bất cứ ngày nào trong tuần Ngày lễ 5 104 92 36 2,1 43,9 38,8 15,2 Thời điểm uống rượu/bia Nửa đêm Sáng/trưa Chiều Tối Không biết/không nhớ rõ 2 11 15 203 6 0,8 4,7 6,3 85,7 2,5 Địa điểm uống rượu/bia Nhà riêng Nhà họ hàng/bạn bè Vỉa hè/quán nhậu/quán bia Nhà hàng Không biết/không nhớ rõ 30 25 133 46 2 12,7 10,5 56,1 19,4 1,3 Lý do uống rượu bia Gặp gỡ bạn bè Dịp đặc biệt (đám giỗ/đám cưới/) Công việc Khác 151 41 39 6 63,7 17,3 16,5 2,5 Loại rượu/bia thường dùng Bia địa phương (Dung Quất) Bia nội khác Bia ngoại Rượu trắng/rượu tự nấu 72 44 119 2 30,4 18,6 50,2 0,8 Đa số nam giới có thói quen uống rượu/bia vào ngày cuối tuần (43,9%). Thời điểm uống rượu/bia phổ biến nhất là buổi tối (85,7%), với vỉa hè/quán nhậu/quán bia là địa điểm thông dụng nhất (56,1%). Lý do sử dụng rượu bia phổ biến nhất là gặp gỡ giao lưu cùng bạn bè (63,7%). Loại đồ uống có cồn thường được lựa chọn nhất là những loại bia mang nhãn hiệu ngoại (được sản xuất trong nước hay nhập khẩu), chiếm tỉ lệ 50,2%; đứng thứ hai là Dung Quất - một loại bia do nhà máy bia của địa phương sản xuất, chiếm 30,4%. Bảng 6: Mối liên quan giữa sử dụng rượu bia chưa hợp lý và các đặc điểm dân số-xã hội, hút thuốc lá, tuổi uống rượu bia lần đầu ở nam giới có sử dụng rượu bia 12 tháng qua theo mô hình hồi quy Logistic đơn biến và đa biến Đặc điểm Sử dụng rượu/bia chưa hợp lý (AUDIT ≥8) ORthô (KTC 95%) pthô ORhc* (KTC 95%) phc Nhóm tuổi 16-24 tuổi 25-34 tuổi 35-44 tuổi 45-54 tuổi 55-60 tuổi 1 4,7 (2-11,7) 5,5 (2,4-13,4) 5,3 (2,4-13) 2,4 (0,9-6,1) <0,001 <0,001 <0,001 0,071 1 6,3 (2,2-18,5) 8,6 (2,95-25,04) 7,4 (2,5-21,9) 3,4 (1,1-10,6) <0,05 <0,01 <0,01 <0,05 Hút thuốc lá Không Có 1 2,9 (1,7-5) <0,001 1 3,4 (1,9-6) <0,01 Tuổi uống rượu bia lần đầu <20 tuổi ≥20 tuổi 1 0,6(0,4-1,1) 0,103 1 0,3 (0,1-0,6) <0,05 Trong mô hình hồi quy đa biến, hiệu chỉnh theo nhóm tuổi, hút thuốc lá và tuổi uống rượu/bia lần đầu: người thuộc nhóm tuổi 25- 34 có nguy cơ sử dụng rượu bia chưa hợp lý cao hơn 6,3 lần người thuộc nhóm tuổi 16-24 (p<0,05). Nhóm 35-44 tuổi có nguy cơ sử dụng rượu bia chưa hợp lý cao hơn 8,6 lần nhóm 16- 24 tuổi (p<0,01). Số chênh sử dụng rượu bia chưa hợp lý ở nhóm 45-54 tuổi cao gấp 7,4 lần (p<0,01) nhóm 16-24 tuổi, trong khi tỉ số này là 3,4 khi so sánh nhóm 55-65 tuổi so với nhóm 16-24 tuổi (p<0,05). Người có hút thuốc lá có nguy cơ sử dụng rượu bia chưa hợp lý cao hơn 3,4 lần người không hút thuốc lá (p<0,01). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 99 Người có tuổi uống rượu bia lần đầu ≥20 có nguy cơ uống rượu bia chưa hợp lý thấp hơn người thuộc nhóm tuổi <20 với số chênh nguy cơ bằng 0,3 lần (p<0,05). BÀN LUẬN Sử dụng bộ công cụ AUDIT đã được chuẩn hóa từ WHO, nghiên cứu này phân loại được 44% đối tượng nam giới sử dụng rượu bia (SDRB) chưa hợp lý (điểm AUDIT ≥8). Nhìn chung, tỉ lệ này cao hơn kết quả tương ứng trong nhiều nghiên cứu đã được thực hiện tại Việt Nam như nghiên cứu của Nguyễn Hiền Vương hay Lê Thị Kim Ánh trên đối tượng nam giới cùng độ tuổi(8,13,17). Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi vẫn thấp hơn kết quả có được từ Điều tra quốc gia về sử dụng rượu bia của Hàn Quốc 2009-2011 (tỉ lệ nam giới có AUDIT ≥8 là 57,5%)(11). Xét cụ thể từng nhóm nguy cơ, hai nhóm AUDIT=16-19 (mức Có hại) và 20-40 (mức Nghiện/phụ thuộc) chiếm tỉ lệ tương đương với các nghiên cứu vừa được trình bày ở trên. Tỉ lệ sử dụng rượu bia chưa hợp lý tương đối cao có thể được giải thích từ nhiều phương diện. Phương diện thứ nhất là sự tồn tại của nhiều thương hiệu bia toàn quốc lẫn địa phương với giá thành vừa phải kết hợp với sự phổ biến của các địa điểm buôn bán và tiêu thụ rượu bia. Thứ hai, một tỉ lệ lớn người tham gia vào nghiên cứu đang làm việc ở các cơ quan nhà nước hoặc văn phòng, đây được coi là nhóm nghề có mức sống tương đối cao so với nhiều ngành nghề khác nên việc sử dụng rượu bia trong nhóm đối tượng này có thể trở nên phổ biến hơn. Mối liên quan này đã được tìm thấy trong một nghiên cứu của Bread và cộng sự tại Vương quốc Anh(3). Kết quả khảo sát bối cảnh sử dụng rượu bia ở phường Trần Phú-thành phố Quảng Ngãi cho thấy nhiều điểm tương đồng với các nghiên cứu khác tại Việt Nam(14,18,19). Ngoài ra, kết quả còn cho thấy thói quen sử dụng rượu bia của người dân Quảng Ngãi chịu ảnh hưởng lớn của loại bia địa phương do tỉnh này sản xuất (Dung Quất) khi nó chiếm hơn 30% trong các loại bia thường được dùng. Tương đồng với nhiều nghiên cứu trước, chúng tôi tìm thấy mối liên quan giữa AUDIT≥8 và tuổi của người sử dụng(3,5,11).Tuy nhiên, các nghiên cứu của Breen tại Úc hay Hong tại Hàn Quốc lại cho thấy nguy cơ sử dụng rượu bia chưa hợp lý cao hơn ở nhóm tuổi trẻ (dưới 26 hoặc dưới 30 tuổi)(5, 11). Sự khác nhau về thành phần độ tuổi giữa nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu trước có thể là một lí do khi đối tượng được chọn bao gồm cả những người dưới 18 tuổi còn chịu sự bảo hộ của cha mẹ, dẫn đến mức độ sử dụng rượu bia của nhóm dưới 25 tuổi bị giảm nhẹ. Nghiên cứu này cho thấy người hút thuốc lá có nguy cơ sử dụng rượu bia chưa hợp lý cao hơn người không hút thuốc lá. Mối liên quan giữa hút thuốc lá và tác hại từ rượu bia đã được nghiên cứu từ lâu. Theo đó, hành vi hút thuốc lá ở những người có uống rượu bia là rất phổ biến và sự hiện diện của 2 hành vi gây ra tác hại đến sức khỏe lớn hơn so với khi chỉ có 1 trong 2 yếu tố hiện diện(1, 10). Trong mô hình hồi quy đa biến đã được kiểm soát về tuổi của đối tượng nghiên cứu và tình trạng hút thuốc lá cho thấy người có tuổi uống rượu bia lần đầu từ 20 tuổi trở lên có nguy cơ SDRB chưa hợp lý thấp hơn người uống rượu bia lần đầu trước tuổi 20. Kết quả về mối liên quan này tương đồng với một số nghiên cứu trước đây trên thế giới khi mà người có tuổi uống rượu bia lần đầu trẻ có nguy cơ gặp các vấn đề liên quan đến rượu bia cao hơn người bắt đầu muộn(15,16). Điều này đặt ra câu hỏi về sự cần thiết của việc hạn chế sự tiếp cận rượu bia ở người trẻ tuổi. KẾT LUẬN Tỉ lệ sử dụng rượu bia chưa hợp lý (điểm AUDIT≥8) ở nam giớilà 44%. Trong đó, tỉ lệ sử dụng rượu bia Nguy cơ thấp, Nguy cơ, Có hại, Nghiện/phụ thuộc lần lượt là 56%, 39%, 4% và 2%. Các yếu tố liên quan đến sử dụng rượu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 100 bia chưa hợp lý ở nam giới từ 25 đến 60 tuổi: người >25 tuổi có nguy cơ sử dụng rượu bia chưa hợp lý cao hơn người <25 tuổi; người hút thuốc lá có nguy cơ sử dụng rượu bia chưa hợp lý cao hơn người không hút thuốc lá; người uống rượu bia lần đầu ở độ tuổi từ 20 trở lên có nguy cơ uống rượu bia chưa hợp lý thấp hơn người thuộc uống rượu bia lần đầu ở độ tuổi dưới 20. Bối cảnh sử dụng rượu bia của nam giới 16-60 tuổi sinh sống ở địa phương: thời gian phổ biến nhất là ngày cuối tuần, buổi tối, vỉa hè/quán nhậu/quán bia là địa điểm thường được chọn nhất khi sử dụng rượu bia, lý do uống rượu bia chủ yếu là để gặp gỡ bạn bè, loại rượu/bia thường dùng là bia có nhãn hàng nước ngoài. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anthony JC, Echeagaray-Wagner F (2000). Epidemiologic analysis of alcohol and tobacco use. Alcohol Res Health, 24 (4): 201- 208. 2. Babor TF, Higgins-Biddle JC, Saunders JB, Monteiro MG (2001), AUDIT: The alcohol use disorders identification test: Guidelines for use in primary care. 2nd ed, pp 40. World Health Organization, Geneva. 3. Beard E, et al (2016). Deconstructing the Alcohol Harm Paradox: A Population Based Survey of Adults in England. PLoS One, 11 (9): e0160666. 4. Bộ Y tế (2016) Điều tra quốc gia Yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm Việt Nam 2015, tr. 15-20. 5. Breen C, Shakeshaft A, Sanson-Fisher R, D'Este C, Mattick RP, Gilmour S (2014). Identifying individual- and population-level characteristics that influence rates of risky alcohol consumption in regional communities. Aust N Z J Public Health, 38 (1): 60-65. 6. Collaborators GRF (2016). Global, regional, and national comparative risk assessment of 79 behavioural, environmental and occupational, and metabolic risks or clusters of risks, 1990-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015. Lancet, 388 (10053): 1659-1724. 7. Công ty cổ phần bia Sài Gòn-Quảng Ngãi (2014) Sabeco khánh thành nhà máy bia Sài Gòn – Quảng Ngãi, thanh-nha-may-bia-sai-gon--quang-ngai.aspx, truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2017. 8. Giang KB, Allebeck F, Fau – Spak P, Spak H, Fau - Van Minh F, Van Minh TV, Fau – Dzung H, Dzung TV (2008). Alcohol use and alcohol consumption-related problems in rural Vietnam: an epidemiological survey using AUDIT. Substance Use and Misuse, 43 (3-4): 481-495. 9. Giang KB, Spak F, Dzung TV, Allebeck P (2005). The use of audit to assess level of alcohol problems in rural Vietnam. Alcohol Alcohol, 40 (6): 578-83. 10. Hart CL, Davey Smith G, Gruer L, Watt GCM (2010). The combined effect of smoking tobacco and drinking alcohol on cause-specific mortality: a 30 year cohort study. BMC Public Health, 10: 789. 11. Hong JW, Noh JH, Kim DJ (2017). The prevalence of and factors associated with high-risk alcohol consumption in Korean adults: The 2009-2011 Korea National Health and Nutrition Examination Survey. PLoS One, 12 (4): 1-12. 12. Jernigan DH (2000). Applying commodity chain analysis to changing modes of alcohol supply in a developing country. Addiction, 95 Suppl 4: 465-475. 13. Lê Thị Kim Ánh, Lê Vũ Anh, Đặng Huy Hoàng, Trần Vũ, Nguyễn Tiến Thắng (2014). Nghiên cứu đánh giá kết quả chương trình can thiệp giảm mức độ sử dụng rượu bia thông qua việc tham gia của hội viên y tế công cộng người cao tuổi. Tạp chí Y học dự phòng, số 33:49-54. 14. Lincoln M (2016). Alcohol and drinking cultures in Vietnam: A review. Drug and Alcohol Dependence, 159:1-8. 15. Maimaris W, McCambridge J (2014). Age of first drinking and adult alcohol problems: systematic review of prospective cohort studies. J Epidemiol Community Health, 68 (3): 268-274. 16. Moure-Rodriguez L, Pineiro M, Corral Varela M, Rodriguez-Holguin S, Cadaveira F, Caamano-Isorna F (2016). Identifying Predictors and Prevalence of Alcohol Consumption among University Students: Nine Years of Follow-Up. PLoS One, 11 (11): e0165514. 17. Nguyễn Hiền Vương, Phạm Việt Cường (2016). Nghiên cứu về sử dụng rượu bia tại 3 tỉnh của Việt Nam năm 2013. Tạp chí Y tế Công cộng, số 42: 20-28. 18. Nguyễn Hiền Vương, Phạm Việt Cường (2015). Thực trạng sử dụng rượu bia của nam giới trong độ tuổi 15 - 60 tại xã Ninh Hiệp - huyện Gia Lâm - thành phố Hà Nội năm 2014. Tạp chí Y tế Công cộng, số 35: 45 - 51. 19. Pham DB, Clough AR, Nguyen HV, Kim GB, Buettner PG (2010). Alcohol consumption and alcohol-related problems among Vietnamese medical students. Drug Alcohol Rev, 29 (2): 219-226. 20. World Health Organization (2014) Global status report on alcohol and health, World Health Organization, pp. 1-376. Ngày nhận bài báo: 01/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfti_le_va_cac_yeu_to_lien_quan_den_su_dung_ruou_bia_o_nam_gio.pdf
Tài liệu liên quan