Tài liệu Tỉ lệ những phụ nữ mang thai có miễn nhiễm với rubella: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
TỈ LỆ NHỮNG PHỤ NỮ MANG THAI CÓ MIỄN NHIỄM VỚI RUBELLA
Trần Thị Lợi*
TÓM TẮT
Trong thời gian 2 năm từ 1/2002 đến 1/2004 một nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện trên 220
thai phụ tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh để tìm tỉ lệ thai phụ có kháng thể kháng Rubella.
Với kỹ thuật ức chế ngưng kết hồng cầu, kết quả là: 81,8% có IgG-Rubella, tỉ lệ IgM- Rubella(-) là 0%.
Toàn bộ con của các thai phụ này đều bình thường. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ
IgG-Rubella(+) đối với tuổi, số con và tình trạng kinh tế của thai phụ.
SUMMARY
PREVALENCE OF RUBELLA-IgG ANTIBODY IN PREGNANT WOMEN
Tran Thi Loi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 114 – 117
In 2 years, since 1/2002 to 1/2004 a cross sectional study was done in University Hospital of Ho Chi
Minh City fo...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ những phụ nữ mang thai có miễn nhiễm với rubella, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
TỈ LỆ NHỮNG PHỤ NỮ MANG THAI CÓ MIỄN NHIỄM VỚI RUBELLA
Trần Thị Lợi*
TÓM TẮT
Trong thời gian 2 năm từ 1/2002 đến 1/2004 một nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện trên 220
thai phụ tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh để tìm tỉ lệ thai phụ có kháng thể kháng Rubella.
Với kỹ thuật ức chế ngưng kết hồng cầu, kết quả là: 81,8% có IgG-Rubella, tỉ lệ IgM- Rubella(-) là 0%.
Toàn bộ con của các thai phụ này đều bình thường. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ
IgG-Rubella(+) đối với tuổi, số con và tình trạng kinh tế của thai phụ.
SUMMARY
PREVALENCE OF RUBELLA-IgG ANTIBODY IN PREGNANT WOMEN
Tran Thi Loi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 114 – 117
In 2 years, since 1/2002 to 1/2004 a cross sectional study was done in University Hospital of Ho Chi
Minh City for 220 pregnant women to find out the prevalence of IgG-Rubella. Apply the Hemagglutination
Inhibition Techniques, we have the result: prevalence of IgG- Rubella (+) is 81,8%, prevalence of IgM-
Rubella (+) is 0%. The outcome of pregnancy is good: no problem for their children. No significant
differences about the prevalence of IgG-Rubella concerned to age, economic status and number of
children of these women
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rubella còn gọi là German measles là một tình
trạng nhiễm trùng gây ra do virus Rubella, một loại
RNA virus lây truyền qua đường hô hấp. Ở những
người không có thai, nhiễm Rubella chỉ là tình
trạng nhiễm virus thoáng qua với các biểu hiện
không rõ ràng như nổi ban đỏ từng mảng, nổi
hạch ở vùng sau tai hoặc dưới xương chẩm, đôi khi
có viêm khớp hoặc đau khớp. Do đó chẩn đoán lâm
sàng của Rubella thường khó khăn, không chính
xác, và đây chính là vấn đề lớn đối với những người
có thai bị nhiễm Rubella, làm sao chẩn đoán chính
xác là thai phụ bị nhiễm Rubella để có thái độ xử
trí đối với thai kỳ. Khi có thai mà bị nhiễm Rubella,
đặc biệt trong 8-10 tuần đầu, nguy cơ ảnh hưởng
lên con là 80%, ở tuần thứ 16 là 10% và hầu như
không đáng kể từ sau tuần thứ 20(1,4).
Ở các nước phát triển, người ta có chương trình
tiêm chủng phòng 3 bệnh: sởi, quai bị, rubella cho
những em gái trước tuổi dậy thì và cho những phụ nữ
chưa được miễn nhiễm với loại virus này. Ở nước ta,
chưa có nghiên cứu về tình hình nhiễm Rubella, do
đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục
tiêu tìm hiểu tỉ lệ những thai phụ đã được miễn
nhiễm với Rubella biểu hiện qua việc họ đã có IgG
của Rubella. Kết quả của nghiên cứu sẽ cho biết tỉ lệ
những phụ nữ mang thai đã được miễn nhiễm với
Rubella và từ đó cũng trả lời được câu hỏi của những
nhà quản lý về y tế: liệu có cần đề xuấtù chương trình
tiêm chủng Rubella cho các bé gái hay không.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ 01/2002 đến tháng 1/2004
chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu cắt ngang mô
tả trên 220 thai phụ đến khám thai tại bệnh viện Đại
Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tất cả các thai phụ nói
trên, trong độ tuổi từ 19 đến 41, sau khi được tư vấn
về tầm quan trọng của nhiễm Rubella trong thai kỳ,
đồng ý tham gia nghiên cứu, khi xét nghiệm thử máu
tìm HBsAg, VDRL, HIV sẽ được tìm thêm IgG và IGM
của Rubella theo kỹ thuật ức chế ngưng tụ hồng cầu
(inhibition de l’hemagglutination). Xét nghiệm được
xem là dương tính nếu định lượng của IgG hoặc IgM
* Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Chuyên đề Ngoại Sản 114
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
≥ 10mUI/ml huyết thanh. Các dữ kiện được thu thập
nhờ một bảng câu hỏi, số liệu được nhập và phân tích
bằng chương trình EPI INFO 2002. Nghiên cứu
không vi phạm y đức vì tham gia nghiên cứu thai phụ
chỉ có lợi nhờ được biết thêm tình trạng miễn dịch
của mình và các số liệu được giữ bí mật chỉ nhằm
phục vụ cho nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong 220 trường hợp thai phụ được thử máu tìm
kháng thể của virus Rubella, 180 trường hợp có IgG
(+), chiếm tỉ lệ 81,8%, không có trường hợp nào IgM
dương tính. Tất cả 220 ca này không có trường hợp
nào IgM dương tính. Như vậy tỉ lệ đã có nhiễm
Rubella là 81,8%, và không có trường hợp nào nhiễm
Rubella cấp tính. 220 thai phụ này đều đã được theo
dõi tới khi sanh và con của họ không có trường hợp
nào bị dị tật bẩm sinh.
Trị số thấp nhất của IgG Rubella là 11,6 mUI/ml,
cao nhất là 439 UI/ml. Trị số trung bình của IgG
Rubella là: 66,13 ±7,47 mUI/ml.
Tuổi trung bình là 31,2 ± 5,19 (nhỏ nhất 19 tuổi,
lớn nhất 44 tuổi)
Bảng 1: Một số đặc điểm về tuổi, kinh tế, số lần
mang thai của thai phụ
Đặc điểm Số ca Tỉ lệ %
19-24 16 7,3
25-29 72 32,7
30-34 68 30,9
35-39 54 24,9
Tuổi:
≥ 40 10 4,5
Nghề nghiệp
Nội trợ
Công nhân
Buôn bán
Công nhân viên
61
68
49
42
27,7
30,9
23,3
19
Tình trạng
kinh tế:
Giàu
Khá
Trung bình
6
162
52
2,7
73,6
23,6
Số con
0
1
2
≥ 3
113
79
26
2
51,4
36,3
11,8
0,9
Nhận xét: 63,6% thai phụ trong khoảng tuổi từ 25-
34; về nghề nghiệp, nhiều nhất là làm nghề buôn bán:
30,9%, kế đó là nội trợ:27,7%; về tình trạng kinh tế:
73,6% thuộc lọai khá; vàvề số con: 90% chỉ có 2 con.
Bảng 2: Liên quan giữa tình trạng nhiễm HBsAg và
Rubella
HBsAg Tổng cộng Rubella
+ -
+ 14 166 180
- 5 35 40
χ2 (hiệu chỉnh Yates) = 0,432 p= 0,515
Trong 220 trường hợp kể trên, có 19 trường hợp
HBs Ag (+), chiếm tỉ lệ 8,6%. Phép kiểm ξ2 cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa về phương diện
thống kê giữa tình trạng nhiễm virus viêm gan B
mạn tính và tình trang miễn nhiễm với Rubella.
Tất cả 220 thai phụ nói trên đều có HIV (-) và
VDRL (-)
Bảng 3: Liên quan giữa tình trạng kinh tế và miễn
nhiễm với Rubella
IgG Rubella (+) Tổng cộng Kinh tế
+ -
Giàu 5 1 6
Khá 132 30 162
Trung bình 43 9 52
χ2 (hiệu chỉnh Yates) = 0,33 p= 0,85
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
tình trạng kinh tế và miễn nhiễm với Rubella.
Bảng 4: Liên quan giữa số con và tình trạng miễn
nhiễm với Rubella
IgG Rubella (+) Tổng cộng Số con
+ -
0 87 26 113
1 69 10 79
2 23 3 26
≥ 3 1 1 2
χ2 = 1,81 p= 0,17
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
số con và tình trạng miễn nhiễm với Rubella.
BÀN LUẬN
Khi có thai, đặc biệt trong ba tháng đầu thai kỳ,
một số tình trạng nhiễm siêu vi ở thai phụ có thể dẫn
đến sẩy thai hoặc dị dạng bẩm sinh. Các tác nhân gây
bệnh nói trên phải kể đến: rubella, parvovirus B19,
varicella zoster và cytomegalovirus (CMV).
Như trong phần đặt vấn đề chúng tôi đã có nêu
Sản Phụ Khoa 115
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005 Nghiên cứu Y học
lên sự khó khăn của việc chẩn đoán nhiễm Rubella
trong thai kỳ do bởi tính chất không đặc hiệu của các
triệu chứng, hoặc thậm chí không có triệu chứng vì
vậy nếu không có các xét nghiệm miễn dịch, chúng
ta không thể phân biệt được nhiễm Rubella với cảm
cúm thông thường. Tại một số trung tâm xét nghiệm
ở thành phố Hồ Chí Minh đã có thể định lượng các
kháng thể IgM, IgG của Rubella bằng phương pháp
miễn dịch ức chế ngưng kết hồng cầu.
Nhiễm Rubella sẽ có virus trong máu và sau thời
gian ủ bệnh khỏang một tuần các triệu chứng lâm
sàng sẽ xuất hiện: (phát ban ngoài da, nổi hạch...)(3,4).
IgM xuất hiện sớm khỏang 1-2 tuần sau khi có
triệu chứng lâmsàng và chỉ tồn tại trong 4 đến 5
tuần, IgG xuất hiện muộn hơn nhưng tồn tại suốt đời.
Do đó, nếu IgM (+) đồng nghĩa với nhiễm Rubella
cấp tính. Thông thường khi đã có miễn nhiễm tự
nhiên hay do tiêm chủng, lượng IgG đủ bảo vệ suốt
đời, tái nhiễm rất hiếm xảy ra, thường chỉ xảy ra
trong những trận dịch.
Tùy vào thời điểm nhiễm bệnh, tỉ lệ con bị Hội
chứng Rubella bẩm sinh rất thay đổi: 80% khi thai ≤
12 tuần, 54% khi thai được 13-14 tuần, 35% ở tuổi
thai 13-16 tuần, 10% khi thai 16 tuần và sau 20 tuần
tỉ lệ này không đáng kể. Một bé sơ sinh bị nhiễm
Rubella bẩm sinh có thể có một hoặc nhiều tổn
thương của Hội chứng Rubella bẩm sinh sau đây(2,5,6):
-Tổn thương ở mắt: cườm, glaucom, mắt nhỏ.
-Bệnh tim: còn ống động mạch, teo động mạch
phổi, bất toàn các vách tim
-Điếc do tổn thương thần kinh
-Tổn thương hệ thần kinh trung ương: viêm não,
viêm màng não.
-Thiếu máu, thiếu tiểu cầu
-Viêm gan, gan lách to, vàng da.
-Thai giới hạn phát triển.
Một đứa bé nhiễm Rubella có thể mang trong
người virus kéo dài nhiều tháng do đó nó là nguồn lây
nhiễm cho những người tiếp xúc với nó.
Qua phần trên, chúng tôi trình bày những tác hại
của tình trạng nhiễm Rubella trong thai kỳ, do đó các
nước phát triển đều có chương trình tiêm chủng
Rubella (thường kết hợp với dự phòng sởi, quai bị)
cho những bé gái trước tuổi dậy thì. Theo một nghiên
cứu tại Mỹ, cho đến năm 1999, dù đã có chiến dịch
tiêm chủng, vẫn còn 15% phụ nữ mang thai bị không
có miễn nhiễm với Rubella, và để tận diệt chứng
bệnh này người ta đã tiêm phòng cho họ ngay trong
thời kỳ hậu sản. Theo khuyến cáo của CDC vì vaccin
Rubella là virus sống được làm yếu đi nên chỉ được
phép có thai ít nhất 1 tháng sau khi tiêm chủng.
Qua kết quả nghiên cứu cả chúng tôi, tỉ lệ thai
phụ đã có miễn nhiễm với Rubella là 81,8%. Tỉ lệ
miễn nhiễm này không thay đổi có ý nghĩa thống kê
theo tình trang kinh tế hoặc số con, và tình trạng
nhiễm virus viêm gan B mãn tính. Và tuy thiết kế
nghiên cứu là cắt ngang mô tả, nhưng để biết được
kết cuộc thai kỳ, chúng tôi đã theo dõi các thai phụ
nói trên cho đến khi sanh. Toàn bộ 220 ca nói trên
khi sanh con đều bình thường, không dị tật bẩm
sinh, không bị thai chậm phát triển trong tử cung.
KẾT LUẬN
Qua xét nghiệm định lượng kháng thể kháng
Rubella cho 220 thai phụ tại Bệnh Viện Đại Học Y
Dược TP Hồ Chí Minh, chúng tôi có các kết quả sau:
-Tỉ lệ thai phụ có miễn nhiễm với Rubella là
81,8%
-Tỉ lệ này không thay đổi có ý nghĩa thống kê
theo tình trạng kinh tế, theo số con, theo tình trạng
nhiễm virus viêm gan B mãn tính.
Đây là một nghiên cúu có tính cách mở đầu, đề
tài sẽ còn được tiếp tục mở rộng cho những đối tượng
khác để có thể có thể ứớc lượng tình hình miễn
nhiễm với Rubella.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Department of Microbiology, Baylor College of
Medicine, Houston, Texas, USA. A step ahead. Infant
protection through maternal immunization. Pediatr
Clin North Am. 2000 Apr; 47(2):449-63.
2 Obstetrics & Gynecology, Mosby: 110-112,2001
3 Onyenekwe, Kehinde-Agbeyangi TA, Ofor US, Arinola
OG. Prevalence of rubella-IgG antibody in women of
childbearing age in Lagos, Nigeria. West Afr J Med.
2000 Jan-Mar;19(1):23-6
Chuyên đề Ngoại Sản 116
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
4 Reef SE, Frey TK, Albernathy E, Burnett CL, Icenogle
J, et all. The changing epidemoilogy of rubella in the
1990s: on the verge of elimination and new challenges
for control and prevention. JAMA 2002; 287:464-72.
5 Revised ACPI recommendation for avoiding pregnancy
after receiving a rubella-cotaining vaccine. MMWR
Morb Mortal Wkly Rep 2001;50:1117.
6 Williams obstetrics, 21st Edition, McGraw Hill: 1467-
1469. 2001
Sản Phụ Khoa 117
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ti_le_nhung_phu_nu_mang_thai_co_mien_nhiem_voi_rubella.pdf