Tài liệu Thực trạng và biện pháp ứng phó với bắt nạt học đường của học sinh Trung học Cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 138-142
138
Email: thanhhuongdhsg@gmail.com
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP ỨNG PHÓ VỚI BẮT NẠT HỌC ĐƯỜNG
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Thanh Hương - Trường Đại học Sài Gòn
Ngày nhận bài: 15/4/2019; ngày chỉnh sửa: 05/5/2019; ngày duyệt đăng: 22/5/2019.
Abstract: Bullying is meant to be aggressive behavior intended to harm their victims physically
and psychologically. Bullying increases when children enter adolescence, because with
psychological transformation, there will be a change in family power, friendship relationships
become a center, school becomes more more difficult, children think that they need to develop
their own identity. Therefore, in the article, we explore the causes of school bullying and thereby
propose some measures to effectively respond to and reduce school bullying in secondary school
students at Ho Chi Minh city.
Keywords: Response measure, school bully...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 723 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và biện pháp ứng phó với bắt nạt học đường của học sinh Trung học Cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 138-142
138
Email: thanhhuongdhsg@gmail.com
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP ỨNG PHÓ VỚI BẮT NẠT HỌC ĐƯỜNG
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Thanh Hương - Trường Đại học Sài Gòn
Ngày nhận bài: 15/4/2019; ngày chỉnh sửa: 05/5/2019; ngày duyệt đăng: 22/5/2019.
Abstract: Bullying is meant to be aggressive behavior intended to harm their victims physically
and psychologically. Bullying increases when children enter adolescence, because with
psychological transformation, there will be a change in family power, friendship relationships
become a center, school becomes more more difficult, children think that they need to develop
their own identity. Therefore, in the article, we explore the causes of school bullying and thereby
propose some measures to effectively respond to and reduce school bullying in secondary school
students at Ho Chi Minh city.
Keywords: Response measure, school bullying, secondary school student.
1. Mở đầu
Bắt nạt học đường đang trở thành vấn nạn đáng báo
động không chỉ ở Việt Nam mà còn ở rất nhiều nước
trên thế giới. Tại Mĩ, theo kết quả nghiên cứu được công
bố trên tạp chí Journal of Developmental and
Behavioural Pediatrics, có gần 90% học sinh (HS) từ
lớp 3 đến lớp 6 từng ít nhất một lần bị bạn học bắt nạt,
ức hiếp. Ngoài ra, 59% HS thừa nhận đã từng có hành
động bắt nạt những em khác [1]. Từ những hành vi bắt
nạt nếu không được kiểm soát, không giải quyết sẽ
nhanh chóng chuyển thành hành vi bạo lực hoặc nguy
hại hơn là hành vi phạm tội.
Rất nhiều công trình đã nghiên cứu về bạo lực học
đường nhưng các nỗ lực nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập
trung can thiệp và phòng chống bắt nạt học đường theo
xu hướng tập trung vào giảm tỉ lệ bắt nạt công khai
(Cross và cộng sự, 2004; Ananiadou và Smith, 2003;
Tremblay, 2006) bao gồm những hành vi trực tiếp như
đấm, đá, trêu chọc, có thể nhìn thấy được và nhận diện
được sự hung hăng có hại, trong khi giảm bắt nạt quan
trọng hơn là giải quyết triệt để những hình thức bắt nạt
“bí mật” trong HS.
Bài viết nghiên cứu những nguyên nhân mang tính
tiềm ẩn, từ đó đề xuất một số biện pháp phù hợp nhằm
giúp HS ứng phó với các hành động bắt nạt mình ngay
từ lần đầu, tránh để ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần
kéo theo sự ảnh hưởng học tập.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái quát về bắt nạt học đường ở học sinh trung
học cơ sở
“Bắt nạt” được công nhận là một vấn đề nghiêm
trọng, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh
thần, xã hội và cảm xúc của HS (Lester, Cross, Dooley
và Shaw, 2013; Lester, Dooley, Cross và Shaw, 2012)
mà còn ảnh hưởng đến môi trường học đường và nền
giáo dục. Trường học có nhiệm vụ đổi mới nhằm cải
thiện học tập cho HS, xây dựng môi trường an toàn, lành
mạnh. Các chương trình phòng chống bắt nạt ở trường
học đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc giảm
tần suất bắt nạt nạn nhân (Jiménez-Barbero, Ruiz-
Hernández, Llor-Zaragoza, Pérez-García, & Llor-
Esteban, 2016).
Lí thuyết về hành vi lập kế hoạch cho thấy xu hướng
can thiệp vào hành vi bắt nạt phụ thuộc vào nhận thức
của giáo viên trước khi hiểu về mức độ nghiêm trọng của
bắt nạt. Nghiên cứu trước đây cho thấy các giáo viên chủ
yếu nhận thức về bắt nạt qua hành vi bạo lực về thể chất
hơn, tuy nhiên các hình thức bắt nạt bí mật, ngầm ảnh
hưởng nghiêm trọng cả về thể chất và tinh thần thì giáo
viên chưa nhận thấy. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các
giáo viên từng bị bắt nạt trong quá khứ thường cảm thấy
đồng cảm với cá nhân bị bắt nạt.
Các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng, giáo viên là
thành phần quan trọng trong các chương trình phòng
chống bắt nạt ở trường (Kallestad & Olweus, 2003), giáo
viên với kiến thức, kinh nghiệm của mình ảnh hưởng rất
lớn tới việc hỗ trợ HS hình thành cách ứng phó tích cực
với bắt nạt học đường.
Bản thân HS phải nỗ lực không ngừng thay đổi về
nhận thức và hành vi của cá nhân để giải quyết các yêu
cầu đặt ra trong hành vi ứng phó được thể hiện thông qua
những phản ứng cụ thể về mặt nhận thức, cảm xúc, hành
vi trước các tình huống, những phản ứng cụ thể này được
gọi là cách ứng phó. Ứng phó là cách phản ứng đáp lại
của con người trước những khó khăn, sự kiện căng thẳng
hay kĩ thuật ứng phó trong bối cảnh cụ thể.
Chúng ta đều biết rằng môi trường văn hóa học
đường ảnh hưởng đáng kể đến hành vi và học tập của
HS. “Văn hóa nhà trường” được định nghĩa là niềm tin
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 138-142
139
và mục tiêu rõ ràng trong các hoạt động tại trường, trong
đó có cả cách các đồng nghiệp tương tác với nhau. Không
khí của một trường học được mô tả là “trái tim và linh
hồn của một trường học”, những thuộc tính ban đầu về
bản chất của một đứa trẻ được hình thành chuyển tiếp
qua từng ngày đi học. Một môi trường học tập tích cực,
nơi HS và giáo viên có thể tin cậy, HS được đối xử tôn
trọng và các quy tắc được nhìn nhận là công bằng, tạo
nên môi trường lành mạnh và không có tình trạng bắt nạt
học đường (Guerra, Williams và Sadek, 2011).
Với những cơ sở lí thuyết đã nêu, để có cơ sở đưa ra
những biện pháp giúp HS trung học cơ sở ứng phó tích
cực với bắt nạt học đường, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trên số lượng mẫu ngẫu nhiên là 600 em HS và 293
giáo viên tại các trường trung học cơ sở trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh, mục tiêu là tìm ra những nguyên nhân có
thể dẫn tới trẻ dễ bị các bạn bắt nạt, từ đó đề ra các biện
pháp ứng phó tích cực với bắt nạt học đường.
2.2. Thực trạng nguyên nhân học sinh thường bị bắt
nạt học đường ở các trường trung học cơ sở tại Thành
phố Hồ Chí Minh
Chúng tôi sử dụng một bảng hỏi theo thang likert với
18 item (độ tin cậy Cronbach’s alpha 0,873) cho phép các
item có sự đồng nhất với nhau để tìm ra những nguyên
nhân có thể trẻ sẽ rơi vào tình trạng bị các bạn bắt nạt,
các mức độ lựa chọn như sau: 1) Không bao giờ; 2) Hiếm
khi; 3) Thỉnh thoảng; 4) Thường xuyên; 5) Rất thường
xuyên.
Bảng 1. Thực trạng nguyên nhân HS bị bắt nạt học đường
Nguyên nhân
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Mức độ (%) Thứ
bậc 1 2 3 4 5
Học giỏi được thầy, cô ưu ái 2,21 1,34 42,4 20,9 17,2 9,5 9,5 3
Là người nổi tiếng trong các đội
nhóm
1,79 1,16 59,2 18,5 10,8 6,7 4,7 15
Là người chủ động trong công
việc
1,76 1,11 58,3 21,8 10,6 4,6 4,7 16
Hay được thầy, cô coi là tấm
gương để bạn khác noi theo
2,06 1,29 48,0 22,4 12,9 8,8 7,9 6
Có năng lực trong học tập được
công nhận bởi những người khác
có vị trí mà kẻ bắt nạt ghen tị
2,06 1,28 48,6 20,6 14,6 8,8 7,4 7
Hay giúp đỡ bạn bè 2,06 1,40 55,3 14,1 9,7 11,3 9,7 4
Chăm chỉ và sẵn sàng làm các
công việc được giao
2,03 1,36 53,7 17,3 9,5 10,8 8,7 8
Hay quan tâm đến người khác,
khoan dung
1,96 1,32 56,6 16,2 9,2 10,6 7,4 9
A dua, đua đòi 2,06 1,38 52,5 17,2 12,1 7,7 10,5 5
Thích thể hiện với người khác 2,44 1,55 44,2 14,1 11,9 12,8 17,0 2
Kiêu căng, ích kỉ 2,46 1,56 43,5 14,4 13,3 10,1 18,7 1
Bạn khờ khạo 1,93 1,29 55,6 19,0 10,3 7,0 8,0 10
Bạn học hòa nhập 1,92 1,30 56,6 18,2 9,0 8,7 7,5 11
Để ý bạn khác phải mình thích 1,88 1,24 56,5 19,3 11,9 4,6 7,7 12
Được bạn khác phái mình thích
quan tâm
1,81 1,17 57,1 21,1 10,5 5,9 5,4 14
Sợ các bạn tẩy chay không cho
chơi chung
1,86 1,23 57,8 18,2 10,6 7,4 6,1 13
Bạn chấp nhận bị bắt nạt 1,74 1,26 67,3 12,6 7,4 4,6 8,2 17
Do bạn là nữ 1,62 1,10 67,4 16,9 7,2 3,1 5,4 18
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 138-142
140
Kết quả nghiên cứu ở bảng 1 cho thấy, sự lựa chọn
của các em phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi là thích
được chơi với bạn, thích được bạn bè hỗ trợ, đặc biệt là
các bạn học yếu hay muốn nhờ các bạn học giỏi cho xem
bài khi kiểm tra, nhưng nhiều bạn học giỏi không thích
vậy và thường không cho các bạn học yếu, trung bình
xem bài. Điều này dẫn đến các em bị các bạn cho là “ích
kỉ, kiêu căng” và bị các bạn tìm cách bắt nạt, hù dọa... tạo
tâm lí căng thẳng, qua số liệu điều tra tỉ lệ chọn ở nội
dung này là cao nhất với điểm trung bình là 2,46. Chỉ số
trung bình cao thứ 2 là 2,44, cũng gắn liền với đặc điểm
tâm lí lứa tuổi của HS trung học cơ sở là thích thể hiện,
muốn khẳng định mình có bản sắc riêng và cần thiết phải
phát triển một bản sắc riêng. Khi các em đạt được một
thành tích thì thường thích các bạn tung hê mình, ngưỡng
mộ mình vì vậy phải thể hiện sao cho các bạn nhận ra
mình tài giỏi, những bạn khác không đạt được thành tích
thì thể hiện qua quyền lực bằng cách bắt nạt bạn.
Khảo sát trên mẫu giáo viên, các thầy/cô cũng đồng
quan điểm với các em HS là những bạn thường bị các
bạn khác bắt nạt do “Có năng lực trong học tập được
công nhận bởi những người khác có vị trí mà kẻ bắt nạt
ghen tị” (trung bình là 2,78), đứng thứ 2 là “Giỏi về công
việc của họ, thường được đánh giá cao hơn các bạn
khác” với trung bình là 2,43.
Có một điều đặc biệt trong nghiên cứu nhận thấy là
hầu như bắt nạt chỉ diễn ra với những hoạt động bộc lộ,
nhìn thấy được và chủ yếu diễn ra trong lớp học, còn các
hoạt động bí mật như thể hiện về cảm xúc quan tâm bạn
bè, chủ động trong công việc hoặc nhiệt tình, nổi tiếng
trong hoạt động đội nhóm, câu lạc bộ thì chưa được các
bạn quan tâm, điều này cho thấy rằng các hành vi bắt nạt
bạn ở các trường trung học cơ sở hiện nay vẫn còn kiểm
soát được nếu kịp thời dạy cho HS cách ứng phó tích cực
với bắt nạt học đường. Trên thế giới, các công trình
nghiên cứu đã phát hiện ra rằng hành vi bắt nạt học
đường hiện nay không bộc lộ rõ ràng mà đã bắt nạt theo
hình thức âm thầm, bí mật, có cả hình thức trực tuyến.
Những kẻ bắt nạt biết cách chọn những nạn nhân không
có khả năng chiến đấu và tìm nạn nhân ở những nơi
không được giám sát, không thể tìm một người lớn để
giúp đỡ. Những giọt nước mắt của nạn nhân thường phục
vụ để củng cố quyền lực và địa vị của kẻ bắt nạt.
2.3. Biện pháp ứng phó với bắt nạt học đường của học
sinh trung học cơ sở trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh
Kẻ xâm phạm có thể ngụy biện cho hành vi bắt nạt
người khác, để tránh bị trừng phạt, trong khi những HS
bị bắt nạt cảm thấy ít được trao quyền, người lớn phản
ứng chậm hoặc bỏ lơ nên HS đã không tìm kiếm sự giúp
đỡ từ người lớn (Bauman và Del Rio, 2006); điều này
dẫn đến các em thu mình, chấp nhận, bị căng thẳng, trầm
cảm hoặc tìm cách phản kháng.
Căn cứ trên lí luận về khái niệm bắt nạt, ứng phó, lí
luận xây dựng văn hóa nhà trường, xây dựng trường học
an toàn và kết quả nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi khảo
nghiệm một số biện pháp ứng phó tích cực với bắt nạt
học đường dành cho HS trung học cơ sở. Chúng tôi sử
dụng một bảng hỏi theo thang likert với 16 biện pháp
được đề xuất (hệ số tin cậy là 0,94), cho thấy các biện
pháp đồng nhất với nhau và có tính hệ thống với các mức
độ lựa chọn như sau: 1) Không cần thiết; 2) Cần thiết;
3) Rất cần thiết.
Bảng 2. Thực trạng khảo nghiệm các biện pháp ứng phó với bắt nạt học đường
Nội dung
Trung
bình
Độ
lệch
chuẩn
Mức độ cần thiết (%)
Thứ
bậc 1 2 3
Thầy, cô tương tác thân thiện với nhau 2,25 0,76 19,3 36,3 44,4 8
Thầy, cô tương tác thân thiện với HS, phụ huynh
HS
2,42 0,73 14,2 29,6 56,1 1
HS tương tác thân thiện với HS 2,36 0,77 18,3 27,5 54,2 2
Dạy HS kĩ năng khẳng định bản thân 1,96 0,80 33,6 36,7 29,7 15
Dạy HS kĩ năng chống lại kẻ bắt nạt 2,04 0,81 30,9 34,5 34,6 13
Dạy HS kĩ năng tránh đối đầu kẻ bắt nạt 1,94 0,83 37,5 31,4 31,1 16
Dạy HS kĩ năng tránh xa những kẻ bắt nạt 2,03 0,81 31,4 33,7 34,9 14
Nhà trường cần dạy HS kỹ năng ứng phó với bắt
nạt học đường
2,35 0,80 20,9 23,4 55,6 3
Nhà trường cần dạy HS kĩ năng giải quyết xung
đột
2,32 0,79 20,6 27,0 52,4 5
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 138-142
141
Nhà trường xây dựng quy tắc ứng xử bạn bè
trong phạm vi lớp học, trường học
2,33 0,77 18,7 29,8 51,6 4
Nhà trường phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để
kiểm soát hành vi của trẻ
2,30 0,78 20,1 29,3 50,6 6
Nhà trường xây dựng và công khai các biện
pháp, hình thức phòng chống bắt nạt
2,31 0,78 19,6 29,6 50,7 7
Nhà trường xây dựng đường dây nóng phòng
chống bắt nạt trong trường học
2,14 0,80 25,7 34,5 39,8 12
Nhà trường xây dựng mạng lưới HS tích cực kịp
thời báo cáo, khoanh vùng trẻ có hành vi bắt nạt bạn
2,21 0,77 21,1 36,7 42,2 9
Nhà trường xây dựng mạng lưới HS tích cực kịp
thời báo cáo những bạn có nguy cơ bị bạn bắt nạt
2,14 0,79 24,9 36,0 39,1 11
Nhà trường xây dựng phòng tham vấn học
đường để tụi em có nơi để tâm sự
2,20 0,81 24,5 30,4 45,0 10
Kết quả ở bảng 2 cho thấy, HS lựa chọn biện pháp
mà các em cho là cần thiết nhất là “Thầy, cô tương tác
thân thiện với HS, phụ huynh HS” với điểm trung bình là
2,42; biện pháp thứ 2 là “HS tương tác thân thiện với
HS” với điểm trung bình là 2,42 cho thấy một điều rằng
các em rất cần môi trường học đường thân thiện, lành
mạnh, học tập tích cực, nơi HS và giáo viên có thể tin
cậy, HS được đối xử tôn trọng, các quy tắc được nhìn
nhận là công bằng, tạo nên môi trường lành mạnh, cải
thiện tình trạng bắt nạt học đường. Tuy nhiên, cũng phải
nhìn nhận lại về phía giáo viên, cần nâng cao năng lực,
phẩm chất nghề nghiệp để xây dựng những giá trị tốt đẹp
trong lòng HS bởi vì giáo viên với kiến thức, kinh
nghiệm của mình ảnh hưởng rất lớn tới việc hỗ trợ HS
hình thành cách ứng phó tích cực với bắt nạt học đường.
Kết quả khảo sát giáo viên cho thấy, biện pháp cần
thiết nhất là “Dạy HS kĩ năng ứng phó với bắt nạt học
đường” với điểm trung bình 2,62; thứ 2 là, “Dạy HS kĩ
năng giải quyết xung đột” (điểm trung bình là 2,58); bên
cạnh đó cần phải “Xây dựng quy tắc ứng xử bạn bè trong
phạm vi lớp học, trường học” với điểm trung bình là 2,57
và thứ tư là “Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để kiểm
soát hành vi của trẻ” với điểm trung bình là 2,50.
Về phía giáo viên thì cho rằng, HS cần chủ động ứng
phó với bắt nạt học đường, nhà trường cần phối hợp với phụ
huynh để kiểm soát và dạy các em các kĩ năng, ngược lại
HS lại không thích bị kiểm soát và không quan tâm nhiều
đến hình thành hệ thống kĩ năng, vì vậy các em lựa chọn dạy
HS “kĩ năng khẳng định bản thân” và “kĩ năng tránh đối đầu
kẻ bắt nạt”. Các biện pháp xây dựng mạng lưới thông tin để
kiểm soát bắt nạt học đường thì cả giáo viên và HS đều cho
là cần thiết nhưng sự chú ý vào các biện pháp này chưa cao,
trong khi đây lại là những biện pháp rất cần được quan tâm
vì hiện tượng bạo lực học đường đáng báo động trong thời
gian gần đây qua các trang mạng, là khởi điểm của những
lần bắt nạt bí mật trước đó.
3. Kết luận
Bắt nạt học đường hiện nay không chỉ còn là việc của
học đường mà là của từng cá nhân có trách nhiệm. Về phía
HS, các em có trách nhiệm bảo vệ mình, duy trì tinh thần
tích cực để học tập có hiệu quả. Về phía giáo viên, các
thầy, cô là một nhân tố tích cực và quan trọng trong việc
giúp HS ứng phó tích cực với bắt nạt học đường. Với kiến
thức và kinh nghiệm của mình, giáo viên tạo ảnh hưởng
tích cực đến HS. Về phía nhà trường, cần xây dựng các
biện pháp cụ thể và thực hiện đồng bộ nhằm xây dựng
trường học an toàn, lành mạnh. Về phía phụ huynh, cần
phối hợp với nhà trường trong giáo dục con cái, không để
hiện tượng nhà trường giáo dục theo khoa học, gia đình
giáo dục theo tự nhiên, kinh nghiệm. Về phía Bộ GD-ĐT
cần ban hành những chính sách, quy định đi trước đón đầu,
không nên đi sau giải quyết hậu quả.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Chiến (2015). Thế giới đau đầu với bạo lực
học đường. Báo điện tử Chính phủ, truy cập tại
voi-bao-luc-hoc-duong/222245.vgp.
[2] Cross, D. - Pintabona, Y. - Hall, M. - Hamilton, G. -
Erceg, E. (2004). Validated guidelines for school-
based bullying prevention and management.
International Journal of Mental Health Promotion,
Vol. 6 (3), pp. 34-42, doi:10.1080/14623730.2004.
9721937.
[3] Ananiadou, K. - Smith, P.K. (2002). Legal
requirements and nationally circulated materials
against school bullying in European countries.
Criminology and Criminal Justice, Vol. 2, pp. 471-
491, doi:10.1177/17488958020020040501.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 138-142
142
[4] Tremblay, R. (2006). Prevention of youth violence:
Why not start at the beginning? Journal of Abnormal
Child Psychology, Vol. 34, pp. 480-486,
doi:10.1007/s10802-006-9038-9037.
[5] Lester, L. - Cross, D. S. - Dooley, J. J. - Shaw, T. M.
(2013). Bullying victimisation and adolescents:
Implications for school-based intervention
programs. Australian Journal of Education, Vol. 57
(2), pp. 107-123, doi:10.1177/0004944113485835.
[6] Lester, L. - Cross, D. S. - Shaw, T. M. - Dooley, J. J.
(2012). Adolescent Bully-victims: Social health and
the transition to secondary school. Cambridge
Journal of Education, Vol. 42 (2), pp. 213-233,
doi:10.1080/0305764X.2012.676630.
[7] José Antonio Jiménez-Barbero - José Antonio Ruiz-
Hernández - Laura Llor-Zaragoza - María Pérez-
García - Bartolomé Llor-Esteban (2016).
Effectiveness of anti-bullying school programs: A
meta-analysis. Children and Youth Services
Review, Vol. 61, issue C, pp. 165-175.
[8] Kallestad, J. H., - Olweus, D. (2003). Predicting
Teachers’ and Schools’ Implementation of the
Olweus Bullying Prevention Program: A Multilevel
Study. Prevention & Treatment, 6(1). Article ID 21,
doi:10.1037/1522-3736.6.1.621a.
[9] Guerra N.G. - Williams K.R. - Sadek S. (2011).
Understanding bullying and victimization during
childhood and adolescence: A mixed methods study.
Published in Child development,
doi:10.1111/j.1467-8624.2010.01556.x.
[10] Sheri A Bauman - Adrienne Del Rio (2006).
Preservice teachers’ responses to bullying
scenarios: Comparing physical, verbal, and
relational bullying. Disability and Psychoeducation
Studies, Vol. 98 (1), pp. 219-231, doi:10.1037/0022-
0663.98.1.219.
[11] Phan Mai Hương (2009). Thực trạng bạo lực học
đường hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế
“Nhu cầu, định hướng và đào tạo tâm lí học đường
tại Việt Nam” (Needs, Direction and Training of
School spychology in VietNam). Viện Tâm lí học.
[12] Albert D.Farrell, et al (2001). Evaluation of
Responding in Peaceful and Positive Ways (RIPP):
A School-Based Prevention Program for Reducing
Violence Among Urban Adolescents. Journal of
Clinical Child & Adolescent Psychology, Vol. 30
(4), pp. 451-463, doi:10.1207/
S15374424JCCP3004_02.
[13] Amy Barnes, et al (2012). The Invisibility of Covert
Bullying Among Students: Challenges for School
Intervention, Australian Journal of Guidance and
Counselling. Vol. 22 (2), pp. 206-226,
doi:10.1017/jgc.2012.27.
QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
(Tiếp theo trang 87)
3. Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng về hoạt
động GDKNS, quản lí hoạt động GDKNS ở các trường
THPT huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong những
năm gần đây, chúng tôi đã đề xuất các biện pháp quản lí
hoạt động này và có thể sử dụng để tham khảo cho các
trường THPT nói chung. Mỗi biện pháp được nêu trên có
những ưu điểm và thế mạnh riêng, có vai trò tác động
khác nhau, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lí
hoạt động GDKNS cho HS trong nhà trường. Các biện
pháp có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau,
là cơ sở, tiền đề cho biện pháp khác. Vì vậy, không thể
coi nhẹ biện pháp nào mà cần phải thực hiện các biện
pháp một cách đồng bộ. Tùy vào điều kiện thực tế của
mỗi nhà trường để có sự ưu tiên, xác định trọng tâm,
trọng điểm, linh hoạt, sáng tạo để phát huy được tính đột
phá về hiệu quả GDKNS của mỗi biện pháp.
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
[2] Bộ GD-ĐT (2014). Thông tư số 04/2014/TT-
BGDĐT ngày 28/02/2014 về Ban hành quy định
quản lí hoạt động giáo dục kĩ năng sống và hoạt
động giáo dục ngoài giờ chính khóa.
[3] Bộ GD-ĐT (2014). Chỉ thị số 3008/CT-BGDĐT
ngày 18/8/2014 về việc hướng dẫn triển khai giáo
dục kĩ năng sống tại các cơ sở giáo dục.
[4] Nguyễn Thị Thanh Hồng (2016). Giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh phổ thông theo quan điểm dạy học
tích hợp. Tạp chí Khoa học giáo dục, Viện Khoa học
giáo dục Việt Nam, số 126, tr 22-24.
[5] Nguyễn Thanh Bình - Lê Thị Thu Hà - Đỗ Khánh
Năm - Nguyễn Thị Quỳnh Phương (2017). Giáo
trình chuyên đề Giáo dục kĩ năng sống. NXB Đại
học Sư phạm.
[6] Đỗ Thanh Tâm (2017). Một số biện pháp quản lí
hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở các
trường trung học phổ thông thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai. Tạp chí Giáo dục, số 414, tr 14-19.
[7] Cao Hồng Nam (2018). Biện pháp quản lí hoạt động
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các trường trung
học cơ sở quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Tạp
chí Giáo dục, số đặc biệt kì 2 tháng 5, tr 27-33.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27phan_thi_thanh_huong_5855_2164592.pdf