Tài liệu Thực trạng trầm cảm trong sinh viên Đại học: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 166
THỰC TRẠNG TRẦM CẢM TRONG SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Lê Minh Thuận*, Trần Thị Hồng Nhiên**, Trần Quí Phương Linh**
TÓM TẮT
Mở đầu: Trầm cảm là một trong những vấn đề tâm lí phổ biến, ảnh hưởng đến tất cả mọi người thông
qua trải nghiệm của cá nhân. Việt Nam nằm trong những nước được quan tâm về trầm cảm ở cộng đồng
trong khối các nước đang phát triển, 1 trong 10 ưu tiên để đối phó với những vấn đề bất bình đẳng nghiêm
trọng toàn cầu trong chăm sóc sức khỏe tâm lí.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở sinh viên đại học tại thành phố Hồ Chí
Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tại một thời điểm được tiến
hành tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh trên 830 sinh viên được chọn ngẫu nhiên chia làm 3
nhóm ngành: Ngành Khoa học tự nhiên – Kỹ thuật, ngành khoa học Xã hội và nhân văn, và ngành Y tế.
...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 1096 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng trầm cảm trong sinh viên Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 166
THỰC TRẠNG TRẦM CẢM TRONG SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Lê Minh Thuận*, Trần Thị Hồng Nhiên**, Trần Quí Phương Linh**
TÓM TẮT
Mở đầu: Trầm cảm là một trong những vấn đề tâm lí phổ biến, ảnh hưởng đến tất cả mọi người thông
qua trải nghiệm của cá nhân. Việt Nam nằm trong những nước được quan tâm về trầm cảm ở cộng đồng
trong khối các nước đang phát triển, 1 trong 10 ưu tiên để đối phó với những vấn đề bất bình đẳng nghiêm
trọng toàn cầu trong chăm sóc sức khỏe tâm lí.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở sinh viên đại học tại thành phố Hồ Chí
Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tại một thời điểm được tiến
hành tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh trên 830 sinh viên được chọn ngẫu nhiên chia làm 3
nhóm ngành: Ngành Khoa học tự nhiên – Kỹ thuật, ngành khoa học Xã hội và nhân văn, và ngành Y tế.
Trầm cảm được đánh giá qua thang đo PHQ-9 và điểm ≥ 10 được dùng làm mốc gợi ý có trầm cảm. Phương
pháp Baysian Models Average dùng để lựa chọn các yếu tố đưa vào phân tích đa biến xác định các yếu tố
liên quan.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 23,73% sinh viên bị trầm cảm trong khoảng tin
cậy 95% từ 20,9% đến 26,8%. Trầm cảm ở sinh viên liên quan tới hộ khẩu, ngành học, năm học, và kết quả
học tập.Phân tích đa biến cho thấy những sinh viên có kết quả học tập thấp và là sinh viên năm 2 trở lên có
nhiều khả năng bị trầm cảm hơn.
Kết luận: Cần phát hiện sớm những sinh viên trầm cảm và cần có kế hoạch can thiệp kịp thời nhằm
giảm thiểu trầm cảm ở sinh viên, như tham vấn tâm lí, trị liệu tâm lí.Trong đó, chú trọng các sinh viên có
các đặc điểm góp phần làm tăng nguy cơ trầm cảm mà chúng tôi phát hiện được.
Từ khóa: Trầm cảm, sinh viên đại học, yếu tố liên quan
ABSTRACT
DEPRESSION IN COLLEGE STUDENTS
Le Minh Thuan, Tran Thi Hong Nhien, Tran Qui Phuong Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 166 - 171
Background: Depression is one of the most common psychological problems, affecting everyone
through personal experience. Vietnam is among the countries that are most concerned about community-
based depression in developing countries, one of 10 priorities for dealing with serious global inequalities in
mental health care.
Objective: To estimate prevalence of depression and to identify correlates of depression among college
students.
Methods: A cross sectional study was conducted at universities in Ho Chi Minh City on 830 students
was randomly assigned to three groups: Natural Sciences - Engineering, Social Sciences and the
humanities, and the health sector. Depression was measured by the PHQ-9 scale and a score of ≥10 was
used as a marker for depression. The Baysian Models Average method is used to select the factors that are
included in the multivariate analysis to determine the relevant factors.
*Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP.HCM, **Bệnh viện Quận 2 TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS Lê Minh Thuận ĐT: 0902055150 Email: leminhthuan@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 167
Results: Our results show that 23.73% of students have depression in the 95% confidence interval
from 20.9% to 26.8%. Depression in students is related to household registration, field of study, school
year, and academic performance. Multivariate analysis indicates that students with low academic
performance and 2 or more students are more likely more depressed.
Conclusions: Early diagnosis of depression should be identified and intervention plans should be
planned in time to minimize depression in students, such as psychological counseling and psychotherapy,
taking into account correlates of depression identified in this study.
Keywords: Depression, college students, related factors.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một trong những vấn đề tâm
lí phổ biến, ảnh hưởng đến gần như tất cả mọi
người thông qua trải nghiệm của cá nhân.
Trầm cảm trong sinh viên được ghi nhận từ
10% đến 85% với trung bình là 30,6%(5).
Trường đại học là một giai đoạn sống thoáng
qua nhưng rất quan trọng, với áp lực học tập,
tài chính và mối quan hệ giữa các cá nhân.
Trải qua các quá trình chuyển đổi có thể dẫn
đến tăng nguy cơ trầm cảm.
Việt Nam nằm trong những nước được
quan tâm về trầm cảm ở cộng đồng trong khối
các nước đang phát triển, trong 10 ưu tiên để
đối phó với những vấn đề bất bình đẳng
nghiêm trọng toàn cầu trong chăm sóc sức
khỏe tâm lí(14,15). Tuy nhiên, những kết quả
nghiên cứu mới đây tại Việt Nam chỉ quan
tâm đến một số vấn đề như stress trong việc
nuôi nấng con cái(11), yếu tố nguy cơ chấn
thương tâm lí và nguồn vốn xã hội, làm việc
trong môi trường y tế, cũng chỉ ra yếu tố nguy
cơ ảnh hưởng đến trầm cảm, có rất ít nghiên
cứu về trầm cảm trong sinh viên đại học.
Nghiên cứu của chúng tôi có mục tiêu nhằm
ước tính tỉ lệ trầm cảm ở sinh viên đại học và
các yếu tố liên quan. Chúng tôi khảo sát các
yếu tố liên quan và không liên quan đến trầm
cảm ở sinh viên trên y văn, bao gồm các đặc
điểm dân số xã hội, ngành học, năm học, điểm
học tập và làm thêm ở sinh viên đại học tại
thành phố Hồ Chí Minh.
PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tại một thời điểm được
tiến hành tại các trường đại học ở thành phố
Hồ Chí Minh từ tháng 6/2013 tới tháng 12/2014
trên 830 sinh viên chia làm 3 nhóm ngành:
Ngành Khoa học tự nhiên – Kỹ thuật, ngành
khoa học Xã hội và nhân văn, và ngành Y tế,
với kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện.
Công cụ thu thập thông tin
Nghiên cứu sử dụng thang đo PHQ-9 đã
được chuyển ngữ để đánh giá tình trạng trầm
cảm của sinh viên. Trầm cảm ở sinh viên là
biến nhị giá gồm 2 giá trị có (khi điểm thang
đo PHQ-9 ≥ 10) và không (khi điểm thang đo
PHQ-9 < 10). Theo đề nghị của Manae (2012)
điểm ngưỡng xác định định trầm cảm theo
thang đo PHQ-9, giá trị và tính tin cậy đã
được xác định, có thể chấp nhận để phát hiện
trầm cảm chủ yếu ở sinh viên đại học với điểm
cắt giữa 8 và 11(6).
Xử lý và phân tích
Số liệu được nhập liệu bằng phần mềm
Epidata 3.1 và xử lý, phân tích bằng phần
mềm R. Thống kê mô tả bao gồm: tần số và tỉ
lệ % cho biến định tính; trung bình và độ lệch
chuẩn cho biến định lượng. Thống kê phân
tích bao gồm: Phân tích các yếu tố liên quan
bằng việc phân tích về tỉ số tỉ lệ hiện mắc
(Prevalence Ratio), khoảng tin cậy 95% (KTC
95%). Sử dụng phương pháp Baysian Models
Average đưa ra mô hình tiên lượng, chọn các
yếu tố đưa vào phân tích đa biến.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 168
KẾT QUẢ
Trong tổng số 830 sinh viên đưa vào phân
tích, tuổi trung bình là 20,3 tuổi với độ lệch
chuẩn 1,5 tuổi. Đa số là nam giới (59,4%), là
sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai (38,4%
và 54,1). Tỉ lệ sinh viên có hộ khẩu thành phố
cao hơn ở nhóm sinh viên ngành KHTN, trong
khi ở nhóm sinh viên ngành KHXH và ngành
Y tế đa số là hộ khẩu nông thôn. Theo đó, tỉ lệ
sinh viên làm thêm ở nhóm ngành KHTN thấp
hơn so với hai ngành còn lại. Có 11% sinh viên
có uống rượu và 0,8% hút thuốc lá, trong đó
đa số là sinh viên ngành KHTN và KHXH
(Bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm của 830 sinh viên tham gia vào
nghiên cứu phân theo ngành học
Đặc điểm Chung Ngành học
KHTN KHXH Y+YHCT
N 830 307 317 206
Nam giới
(n; %)
493 (59,4) 186 (60,6) 178(56,2) 129(62,6)
Tuổi (TB ±
ĐLC)
20,3 ± 1,5 19,7± 1,2 20,8±1,7 20,5±0,9
Năm học (n; %)
1 289 (34,8) 255 (83,1) 20 (6,3) 14(6,8)
2 449 (54,1) 48 (15,6) 232 (73,2) 169(82,0)
3-4 92 (11,1) 4 (1,3) 65 (20,5) 23(11,2)
Hộ khẩu
Thành phố 315 (38,0) 147 (47,9) 98 (30,9) 70(34,0)
Thị trấn 147 (17,7) 55 (17,9) 58 (18,3) 34(16,5)
Trung tâm xa 45 (5,4) 24 (7,8) 15 (4,7) 6(2,9)
Nông thôn 323 (38,9) 81 (26,4) 146 (46,1) 96(46,6)
Làm thêm
(có)
149 (18,0) 33 (10,8) 76 (24,0) 40(19,4)
Uống rượu
(có)
91 (11,0) 36 (11,7) 35 (11,0) 20(9,7)
Hút thuốc lá
(có)
7 (0,8) 4 (1,3) 3 (0,9) 0
Bảng 2 thể hiện mối liên hệ giữa các đặc
điểm của sinh viên và trầm cảm. Kết quả cho
thấy hộ khẩu, năm học, ngành học và điểm
học có liên quan với trầm cảm. Những sinh
viên có hộ khẩu nông thôn có tỉ lệ trầm cảm
cao hơn so với sinh viên có hộ khẩu thành
phố. Sinh viên năm 3-4 thì có khả năng trầm
cảm hơn so với sinh viên năm nhất. Sinh viên
các ngành KHXH, Y và YHCT trầm cảm nhiều
hơn sinh viên ngành KHTN. Điểm học cứ tăng
lên 1 điểm thì tỉ lệ trầm cảm giảm 39%. Tuy
nhiên, trầm cảm không có liên quan với tuổi,
giới tính và làm thêm.
Bảng 2: Tỉ lệ trầm cảm phân nhóm theo đặc tính
sinh viên và được phân tích đơn biến
Đặc điểm PHQ9 ≥ 10 PR
Trầm cảm
(N=197;
23,7%)
n (%)
Không trầm
cảm
(N= 633;
76,3%) n (%)
Tuổi (mean, SD) 20,25(1,27) 20,31 (1,51) 0,90
(0,54–1,50)a
Giới tính (n; %)
Nam 111 (22,5) 382 (77,5) 1,00
Nữ 86 (25,5) 251 (74,5) 1,13
(0,86–1,50)
Hộ khẩu (n; %)
Thành phố 61 (19,4) 254 (80,6) 1,00
Thị trấn 33 (22,5) 114 (77,5) 1,16
(0,76–1,77)
Trung tâm xa 11 (24,4) 34 (75,6) 1,26
(0,66 – 2,40)
Nông thôn 92 (28,5) 231 (71,5) 1,47
(1,06 – 2,03)
Năm học (n; %)
1 54 (18,7) 235 (81,3) 1,00
2 114 (25,4) 335 (74,6) 1,36
(0,98 – 2,13)
3-4 29 (31,5) 63 (68,5) 1,69
(1,07 – 2,65)
Làm thêm (n; %)
Có 41 (27,5) 108 (72,5) 1,00
Không 156 (22,9) 525 (77,1) 0,83
(0,59 – 1,17)
Ngành học (n; %)
KHTN 49 (16,0) 258 (84,0) 1,00
KHXH 85 (26,8) 232 (73,2) 1,68
(1,18 – 2,39)
Y + YHCT 63 (30,6) 143 (69,4) 1,92
(1,32 – 2,78)
a:tính trên +5 tuổi; b:tính trên +1 điểm
Bằng phương pháp BMA chúng tôi lựa
chọn được 3 mô hình tối ưu, trong đó mô hình
1 gồm 3 yếu tố tuổi, năm học và điểm học tập
là tối ưu nhất, với xác suất xuất hiện mô hình
là 50%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 169
Models selected by BMA
Model #
1 2 3 4 6
hokhau
lamthem
diem
namthu
nganh
gioi
tuoi
Biểu đồ 1. Mô hình tiên lượng sinh viên bị trầm
cảm theo mô hình BMA (Bayesian Model
Average).
Bảng 3. Các mô hình tiên lượng
Mô hình Yếu tố Xác suất xuất
hiện
Mô hình 1 tuổi, năm học, điểm 0,5
Mô hình 2 năm học, điểm 0,24
Mô hình 3 năm học, điểm, hộ
khẩu
0,13
Bảng 4 thể hiện kết quả phân tích đa biến
của các yếu tố có liên quan lựa chọn từ mô
hình tiên lượng. Kết quả phân tích đa biến cho
thấy, điểm học thấp, năm học lớn hơn thì có
nhiều khả năng trầm cảm hơn.
Bảng 4. Các yếu tố nguy cơ trầm cảm: Phân tích
đa biến
Yếu tố PR (KTC 95%) Giá trị p
Tuổi 0,83 (0,70 – 0,98) 0,033
Điểm 0,58 (0,51 – 0,67) <0,0001
Năm học (2) 1,71 (1,18 – 2,45) 0,004
Năm học (3-4) 3,00 (1,68 – 5,33) 0,0001
BÀN LUẬN
Chúng tôi sử dụng điểm cắt xác định trầm
cảm PHQ-9 ≥ 10(6). Qua kết quả nghiên cứu
chúng tôi ghi nhận trầm cảm trong sinh viên
đại học trong khoảng 20,9 % – 26,8 %, trung
bình là 23,7 %. Tỉ lệ trầm cảm dường như bị
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm: dân số
nghiên cứu, các yếu tố nhân kinh tế - xã hội(12),
nơi sống và phụ thuộc cách lấy mẫu, phụ
thuộc thang đo được sử dụng(13). Thang đo
PHQ-9 được sử dụng trên nhiều đối tượng
khác nhau, không phải thang đo dành riêng
cho đối tượng sinh viên đại học, do đó chưa
đánh giá được một cách chính xác về tỉ lệ trầm
cảm ở sinh viên. Bằng chứng về sự gia tăng số
lượng sinh viên đại học chán nản, buồn bã
như Vazquez và cs (2006, 2008) tỉ lệ cao từ 40
% và 84 %, Ceyhan và cs (2009), Goebert và cs
(2009), Bayati và cs (2009), Garlow và cs (2008),
Khan và cs (2006). Nếu so với tỉ lệ trầm cảm
chung của sinh viên thế giới trên 48.650 sinh
viên (mẫu nhỏ nhất là 102 và lớn nhất là
17.348), trầm cảm trung bình là 30,6% (10 đến
85%), có thể kết luận rằng trầm cảm sinh viên
đại học Việt Nam (23,7%) không khác biệt với
các nghiên cứu khác trên thế giới(5). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ việc sàng lọc
phát hiện sớm những sinh viên trầm cảm và
cần có kế hoạch can thiệp kịp thời nhằm giảm
thiểu trầm cảm ở sinh viên.
Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện một số
yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên và
thống nhất với các nghiên cứu đã có trước
đây. Có nhiều minh chứng cho thấy hội chứng
trầm cảm có liên quan đến việc giảm điểm
trung bình học tập của sinh viên, sinh viên bỏ
học(4), với việc sinh viên lập kế hoạch học tập,
với những môn học mà sinh viên yêu thích
hay không, sinh viên trãi nghiệm nhiều thì ít
bị trầm cảm hơn(3,7,8,9,10). Học tập ở đại học là cơ
hội tốt để sinh viên được trải nghiệm bản
thân, vì thế, sinh viên biết khám phá, tìm tòi
cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những thế
mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi,
trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối
mặt với thử thách để khẳng định mình. Tuy
nhiên, những đặc điểm trên cũng có thể góp
phần vào trầm cảm ở sinh viên. Việc đặt ra
những mục tiêu trong học tập, mong muốn
thể hiện bản thân, bên cạnh tác động thúc đẩy
bản thân phát triển, nó cũng sẽ tạo ra những
áp lực về mặt tâm lí, khi áp lực đó vượt qua
sức chịu đựng của mỗi cá nhân thì khả năng bị
trầm cảm là không thể tránh khỏi. Hơn nữa,
khi không đạt được những mục tiêu, mong
muốn đặt ra sẽ gây tâm lí chán nản, thất vọng,
là một trong các dấu hiệu của trầm cảm. Một
số công trình nghiên cứu khác cũng chỉ ra
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 170
ngành học có liên quan đến trầm cảm. Những
sinh viên ngành y tế có nguy cơ trầm cảm
nhiều và ở mức độ nặng hơn hơn sinh viên các
ngành khác. Điều này có thể được giải thích
bởi áp lực học tập, áp lực từ sự kỳ vọng của xã
hội. Kết quả tương tự, Steinhardt M. và cs
(2008), phát hiện sinh viên năm thứ nhất trầm
cảm nhiều hơn năm 2 và 3 về tỉ lệ và các mức
độ trầm cảm(1,2). Thay đổi đáng kể trong điều
kiện sống, nhu cầu mới của môi trường học
đại học, và sự thay đổi lớn trong môi trường
xã hội chỉ là một vài trong số các nguồn có khả
năng căng thẳng cho sinh viên đại học. Kết
quả trong nghiên cứu chúng tôi ngược với kết
quả của tác giả Arslan và cs 2009, El-Gendawy
và cs 2005, Goebert cs 2009, Mancevska cs
2008, Mehanna và Richa 2006, Roh và cs 2010,
các tác giả này cho rằng sinh viên năm nhất
trầm cảm cao hơn các năm sau. Ngược lại các
tác giả Roberts và cs (2010), Tjia và cs (2005)
ghi nhận qua kết quả không có sự khác biệt về
trầm cảm ở các năm học trong sinh viên đại
học. Tác giả Chen L. (2013) đã kết luận không
tìm thấy liên kết năm học, hoặc phân loại
trường đại học. Trầm cảm sinh viên đại học do
tính chất chuyển tiếp của cuộc sống đại học. Ví
dụ nhiều sinh viên đại học di chuyển ra khỏi
nhà lần đầu tiên, có thể đòi hỏi phải để lại tất
cả các hệ thống hỗ trợ học trước đó như cha
mẹ, anh chị em và bạn bè trung học. Sinh viên
có thể cần phải phát triển quan hệ xã hội hoàn
toàn mới và dự kiến sẽ chịu trách nhiệm cho
các nhu cầu riêng của họ. Họ có thể gặp khó
khăn trong việc điều chỉnh kỳ vọng học tập
nghiêm ngặt hơn và sự cần thiết phải học để
đối phó với các cá nhân của nền văn hóa và tín
ngưỡng khác nhau. Vì vậy, rối loạn tâm lý có
thể dẫn đến bị tách ra khỏi nhà lần đầu tiên,
sự chuyển đổi từ một cá nhân đến một môi
trường học tập vô cảm, và cấu trúc của các
kinh nghiệm học tập ở cấp độ đại học.
KẾT LUẬN
Cần phát hiện sớm những sinh viên trầm
cảm và cần có kế hoạch can thiệp kịp thời
nhằm giảm thiểu trầm cảm ở sinh viên, như
tham vấn tâm lí, trị liệu tâm lí. Tổ chức khám
tâm lí theo định kỳ cho sinh viên nhằm phát
hiện sớm sinh viên bị trầm cảm. Khi trạng thái
tâm lí nhận thức, cảm xúc, hay hành vi bị suy
giảm theo chiều hướng tiêu cực kéo dài trên 2
tuần, dấu hiệu bị trầm cảm được xác định,
sinh viên nên tham vấn tâm lí, nhằm ngăn
ngừa trầm cảm có thể xảy ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cukrowicz KC, Schlegel EF, Smith PN, Jacobs MP, Van
Orden KA, Paukert AL, Pettit JW and Joiner TE (2011).
Suicide ideation among college students evidencing
subclinical depression. J Am Coll Health, 59 (7): 575-81.
2. Cukrowicz KC, Smith PN, Hohmeister HC and Joiner TE
(2009). The moderation of an early intervention program
for anxiety and depression by specific psychological
symptoms. Journal of Clinical Psychology, 65 (4): 337–351.
3. Goto A, Nguyen Q. V, Nguyen T. T, Pham N. M, Chung
T. M, Trinh H. P, Yabe J, Sasaki H and Yasumura S (2010).
Associations of Psychosocial Factors with Maternal
Confidence Among Japanese and Vietnamese Mothers. J
Child Fam Stud, 19 (1): 118-127.
4. Heiligenstein E, Guenther G, Hsu K and Herman K (1996).
Depression and academic impairment in college students.
Journal of American college health : J of ACH, 45 (2): 59-64.
5. Ibrahim AK, Kelly SJ, Adams CE and Glazebrook C
(2013). A systematic review of studies of depression
prevalence in university students. J Psychiatr Res, 47 (3):
391-400.
6. Manea L, Gilbody S and McMillan D (2012). Optimal cut-
off score for diagnosing depression with the Patient
Health Questionnaire (PHQ-9): a meta-analysis. CMAJ,
184 (3): 191-196.
7. Park M, Katon WJ and Wolf FM (2013). Depression and
risk of mortality in individuals with diabetes: a meta-
analysis and systematic review. Gen Hosp Psychiatry, 35
(3): 217-25.
8. Reavley N and Jorm AF (2010). Prevention and early
intervention to improve mental health in higher education
students: A review Early Intervention in Psychiatry, 4 (2):
132–142.
9. Sajjadi H, Mohaqeqi Kamal S. H, Rafiey H, Vameghi M,
Forouzan A. S and Rezaei M (2013). A Systematic Review
of the Prevalence and Risk Factors of Depression among
Iranian Adolescents. Glob J Health Sci, 5 (3): 16-27.
10. Sexton CE, Mackay CE and Ebmeier KP (2013). A
systematic review and meta-analysis of magnetic
resonance imaging studies in late-life depression. Am J
Geriatr Psychiatry, 21 (2): 184-95.
11. Shin J, Nhan NV, Crittenden KS, Hong HTD, Flory M and
Ladinsky J (2006). Parenting stress of mothers and fathers
of young children with cognitive delays in Vietnam.
Journal of Intellectual Disability Research, 50 (10): 748-760.
12. Steptoe A, Tsuda A, Tanaka Y and Wardle J (2007).
Depressive symptoms, socio-economic background, sense
of control, and cultural factors in university students from
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 171
23 countries. International journal of behavioral medicine, 14
(2): 97-107.
13. Weissman MM, Bland RC, Canino GJ, Faravelli C,
Greenwald S, Hwu HG, Joyce PR, Karam EG, Lee CK,
Lellouch J, Lepine JP, Newman SC, Rubio-Stipec M, Wells
JE, Wickramaratne PJ, Wittchen H and Yeh EK (1996).
Cross-national epidemiology of major depression and
bipolar disorder. JAMA : the journal of the American Medical
Association, 276 (4): 293-9.
14. WHO (2009). Human papillomavirus vaccines: WHO
position paper. Biologicals, 37 (5): 338-44.
15. Whooley MA and Simon GE (2000). Managing depression
in medical outpatients. N Engl J Med, 343 (26): 1942-50.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 166_3_1406_2164493.pdf