Tài liệu Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc - Phan Thị Vóc: TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 9 (6/2017) tr. 48 - 56
48
THỰC TRẠNG NHU CẦU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN SƢ PHẠM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Phan Thị Vóc
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Đánh giá thực trạng nhu cầu nhận thức (NCNT) của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây
Bắc thông qua 120 sinh viên được khảo sát. Kết quả cho thấy, để thỏa mãn NCNT, trước hết, sinh viên chú trọng
đến việc trang bị kiến thức môn học; sau đó đến những kiến thức liên quan đến khả năng dạy học. So sánh
NCNT của sinh viên giữa một số khoa, giữa nam và nữ, giữa các khóa học khác nhau có sự khác nhau.
Từ khóa: Hành động, nhận thức, nhu cầu nhận thức, thái độ.
1. Đặt vấn đề
Nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm là những đòi hỏi của sinh viên về việc tìm tòi
tiếp thu những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo cũng như về những cách thức tiếp cận chúng chưa có
trong kinh nghiệm của họ, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của nghề nghiệp tương lai và
của bản thân sinh viên. Nhu cầu nhận thức l...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Bắc - Phan Thị Vóc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 9 (6/2017) tr. 48 - 56
48
THỰC TRẠNG NHU CẦU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN SƢ PHẠM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Phan Thị Vóc
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Đánh giá thực trạng nhu cầu nhận thức (NCNT) của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây
Bắc thông qua 120 sinh viên được khảo sát. Kết quả cho thấy, để thỏa mãn NCNT, trước hết, sinh viên chú trọng
đến việc trang bị kiến thức môn học; sau đó đến những kiến thức liên quan đến khả năng dạy học. So sánh
NCNT của sinh viên giữa một số khoa, giữa nam và nữ, giữa các khóa học khác nhau có sự khác nhau.
Từ khóa: Hành động, nhận thức, nhu cầu nhận thức, thái độ.
1. Đặt vấn đề
Nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm là những đòi hỏi của sinh viên về việc tìm tòi
tiếp thu những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo cũng như về những cách thức tiếp cận chúng chưa có
trong kinh nghiệm của họ, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của nghề nghiệp tương lai và
của bản thân sinh viên. Nhu cầu nhận thức là thành tố cơ bản của động cơ nhận thức nghề
nghiệp, thúc đẩy sinh viên tích cực học tập, rèn luyện.
Nhu cầu nhận thức được biểu hiện ở tính tích cực nhận thức và được đánh giá cụ thể ở
ba mặt là: sự ý thức của sinh viên về các nhu cầu của bản thân (mặt nhận thức); thái độ của họ
trước những nhu cầu đó và trước một số mặt cơ bản của hoạt động nhận thức; mức độ biểu
hiện hành động thỏa mãn các NCNT đã được nhận thức của sinh viên.
Mỗi mặt biểu hiện của NCNT chúng tôi xây dựng các câu hỏi với hệ thống các tiêu chí
thông qua phiếu điều tra, phiếu phỏng vấn đối với sinh viên để thu thập thông tin đảm bảo
tính khách quan, chính xác cho nội dung nghiên cứu.
Về mặt nhận thức, chúng tôi xây dựng câu hỏi với 18 tiêu chí đặt ra cho sinh viên lựa
chọn và một số câu hỏi để phỏng vấn sinh viên.
Về mặt thái độ, chúng tôi xây dựng câu hỏi với 04 nội dung, mỗi nội dung có hai
phương án cho sinh viên lựa chọn, có kết hợp với phương pháp phỏng vấn.
Về mặt hành động, chúng tôi xây dựng 06 câu hỏi, mỗi câu hỏi có ba mức độ để sinh
viên lựa chọn trong phiếu điều tra và có kết hợp với việc phỏng vấn sinh viên.
Nghiên cứu được thực hiện trên 120 sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc tại
thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, năm 2016. Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng
gồm: Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận; nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn như:
Điều tra viết, phỏng vấn; nhóm phương pháp thống kê toán học.
Ngày nhận bài: 26/11/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017
Liên lạc: Phan Thị Vóc, e - mail: vocdhtb@gmail.com
49
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên biểu hiện ở mặt nhận thức
Mong muốn được bổ sung kiến thức, kĩ năng cho bản thân của sinh viên được thể hiện ở
Bảng sau:
Bảng 1. Sự ý thức của sinh viên về các nhu cầu của bản thân (tính theo tỉ lệ%)
TT Các việc
Đã làm Chưa làm
SL % SL %
1 Đi học đầy đủ, chuyên cần 84 70 36 30
2 Tích cực suy nghĩ, tự tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề GV đặt ra 53 44,2 67 55,8
3 Vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống học tập khác 50 41,7 70 58,3
4 Nghiên cứu kĩ nội dung các vấn đề đã học 44 36,7 76 63,3
5 Tự cập nhật thông tin mới liên quan đến bài học 34 28,3 86 71,7
6 Bổ sung thêm các kiến thức về tâm lý học sinh phổ thông 15 12,5 105 87,5
7 Tích cực đi thư viện đọc thêm tài liệu 52 43,3 68 56,7
8 Hoàn thành các bài tập, tiểu luận đúng thời hạn 70 58,3 50 41,7
9 Tham gia nghiên cứu khoa học 19 24,2 91 75,8
10 Học ngoại ngữ, tin học 55 45,8 65 54,2
11 Tích cực rèn luyện cách ứng xử sư phạm 43 35,8 77 64,2
12 Bổ sung kiến thức về môi trường (tự nhiên, xã hội) 34 28,3 86 71,7
13 Tích cực rèn luyện phương pháp giảng dạy bộ môn 26 21,7 94 78,3
14 Bổ sung kiến thức về kinh tế, chính trị, xã hội 25 20,8 95 79,2
15 Tích cực tham gia các buổi thảo luận chuyên đề liên quan đến nghề
nghiệp tương lai
29 24,2 81 75,8
16 Không sử dụng tài liệu trong giờ thi, giờ kiểm tra 68 56,7 52 43,3
17 Bổ sung thêm kiến thức rèn luyện sức khỏe 39 32,5 81 67,5
18 Bổ sung thêm kiến thức về văn hóa, nghệ thuật. 35 29,2 85 70,8
NCNT của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc khá đa dạng và phong phú. Tất
cả các NCNT được nêu ra đều xuất phát từ yêu cầu của nghề nghiệp tương lai, nhưng trước
hết xuất phát từ yêu cầu của hoạt động nhận thức nghề nghiệp trong nhà trường. Sinh viên
nhận thức khá rõ sự thiếu hụt kiến thức cũng như những kĩ năng của bản thân trong nhiều vấn
đề có liên quan đến nghề nghiệp sắp tới của họ và họ mong muốn được bổ sung, hoàn thiện.
Điều này phù hợp với xu thế chung hiện nay.
Những công việc được sinh viên cho là bức bách hiện nay cần được thực hiện để thỏa
mãn NCNT là “Đi học đầy đủ, chuyên cần”, “Hoàn thành các bài tập, tiểu luận đúng thời
hạn”, “Không sử dụng tài liệu trong giờ thi, giờ kiểm tra”, “Học ngoại ngữ, tin học”, “Tích
cực suy nghĩ, tự tìm tòi lời giải đáp cho những vấn đề giáo viên đặt ra”. Những nội dung này
khi chúng tôi đưa ra được đa số sinh viên lựa chọn là đã làm để thỏa mãn NCNT.
50
Những nội dung khác khi được nêu ra cũng được sinh viên chú trọng nhưng ở mức thấp
hơn như: “Tích cực đi thư viện đọc thêm tài liệu”, “Vận dụng kiến thức để giải quyết các tình
huống học tập khác”, “Tích cực rèn luyện cách ứng xử sư phạm”, “Bổ sung kiến thức về rèn
luyện sức khỏe, văn hóa, nghệ thuật, về kinh tế, chính trị, xã hội”.
Điều này cho thấy, để thỏa mãn NCNT, trước hết, sinh viên chú trọng đến việc trang bị
kiến thức môn học; sau đó đến những kiến thức về khả năng dạy học. Sinh viên chưa nhận
thức đầy đủ được rằng cần thiết phải đảm bảo sự cân đối giữa khả năng được trang bị kiến
thức theo môn học và khả năng dạy học. Thực tế, có nhiều giảng viên rất coi trọng đến
phương pháp giảng dạy, có những giảng viên lại chỉ chú ý đến nội dung tri thức của môn học,
chưa chú ý đến việc rèn khả năng dạy học cho sinh viên. Đặc biệt, trong điều kiện nhà trường
hiện nay càng đòi hỏi mỗi giảng viên không chỉ hướng dẫn nội dung tri thức cho sinh viên,
mà còn cần hướng dẫn cho sinh viên cả khả năng dạy học để đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn. Khi các giảng viên định hướng, tác động đến sinh viên bao gồm cả tri thức và kĩ năng sẽ
giúp sinh viên có sự nhận thức cân đối cả về tri thức và các kĩ năng khác.
Yêu cầu của nghề dạy học đòi hỏi cả nội dung kiến thức môn học và phương pháp,
không được coi nhẹ yếu tố này hay yếu tố kia trong đào tạo ban đầu. Hơn nữa, ngày nay thế
giới đang phát triển mạnh mẽ đến nỗi giảng viên cũng như phần lớn những người làm nghề
khác phải đối mặt với thực tế là kiến thức được trang bị ban đầu không đủ để giúp họ làm việc
trong suốt quãng đời còn lại. Chính vì vậy, việc nâng cao kiến thức là cần thiết, nhưng có
được phương pháp để tự nâng cao kiến thức, tự nâng cao trình độ cho bản thân còn quan trọng
hơn rất nhiều. Đối với nghề giáo thì điều này lại càng quan trọng vì họ còn phải trang bị điều
này cho học sinh của mình. Một trong những biểu hiện là phải thường xuyên cập nhật thông
tin không chỉ về kiến thức, kĩ năng, phương pháp thuộc chuyên ngành họ giảng dạy, mà cả
các kiến thức xã hội khác. Tuy nhiên số liệu thống kê cho thấy, các nội dung đó đa số sinh
viên cho là chưa làm, số ít đã thực hiện để thỏa mãn NCNT của mình. Có một vấn đề chúng
tôi rất quan tâm ở đây là khi được hỏi về việc bổ sung kiến thức về tâm lý học sinh phổ thông
thì rất ít sinh viên đã làm (số lượng sinh viên đã làm để bổ sung thêm kiến thức về tâm lý học
sinh phổ thông ở mức thấp nhất trong 18 nội dung mà chúng tôi đưa ra, chỉ chiếm 12,5%).
Đây là đối tượng giáo dục của sinh viên trong tương lai, nhưng họ lại chưa quan tâm đến việc
bồi bổ thêm kiến thức cho bản thân để sau khi ra trường, tham gia vào giảng dạy có thể hiểu
được đối tượng giáo dục của giúp cho việc giảng dạy, giáo dục được tốt. Thực ra, kiến thức và
các kĩ năng có liên quan đến vấn đề này cũng quan trọng không kém những kiến thức chuyên
ngành của họ.
Khi được phỏng vấn, sinh viên bộc lộ mong muốn được bổ sung khá nhiều kiến thức và
kĩ năng khác ngoài kiến thức chuyên môn như: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống, kĩ năng làm
việc theo nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin, hiểu biết về tình
hình chính trị, kiến thức chung về văn hóa - xã hội. Trong các nội dung mà sinh viên đưa ra,
trong đó đa số sinh viên mong muốn được bổ sung kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống, kiến thức
chung về văn hóa - xã hội.
Sinh viên Giàng A Gỳ (sinh viên năm thứ nhất) khi được hỏi: “Ngoài kiến thức chuyên
môn được học trên lớp, em mong muốn được bổ sung thêm vốn kiến thức, kĩ năng nào khác
51
nữa?”. Em trả lời: “Em là sinh viên dân tộc thiểu số ở huyện xa đến trường học tập, em còn
yếu kém nhiều thứ nên em mong muốn bổ sung thêm kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống, kĩ năng
sử dụng công nghệ thông tin”.
Sinh viên Quách Thị Chi (sinh viên năm thứ ba) lại chia sẻ: “Ngoài kiến thức chuyên
môn, em mong muốn được bổ sung thêm rất nhiều kiến thức và kĩ năng khác nữa như: Kĩ
năng sống, kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin, hiểu biết về
tình hình chính trị, kiến thức chung về văn hóa - xã hội. Vừa đi kiến tập về, em thấy những
kiến thức, kĩ năng thuộc các lĩnh vực này em còn rất kém và đã ảnh hưởng đến kết quả thực
tập của em”.
Tất cả những điều sinh viên liệt kê ra trên đây, mặc dù được xem xét là ngoài kiến thức
chuyên môn, nhưng lại rất cần thiết cho nghề nghiệp tương lai của họ. Một giáo viên muốn
giảng dạy đạt hiệu quả cao, không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn mà còn phải có kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng sống, kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng sử
dụng công nghệ thông tin, hiểu biết về tình hình chính trị, kiến thức chung về văn hóa - xã hội
mới. Xã hội ngày càng phát triển, sự đòi hỏi của xã hội đối với mỗi giáo viên ngày càng cao.
Để nội dung bài giảng sinh động, học sinh tiếp thu bài giảng nhanh và giáo viên tạo ra uy tín
đối với học sinh, giáo viên không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn mà cần phải có nhiều
kiến thức liên quan.
Đi vào so sánh giữa các khoa, giới tính và khóa học cho thấy:
Giữa Khoa Ngữ văn và Khoa Toán - Lý - Tin có sự chênh lệch rõ rệt trong từng tiêu
chí mà sinh viên đã làm hoặc chưa làm để thoả mãn NCNT. Khi thực hiện các nội dung chúng
tôi đưa ra, sinh viên Khoa Ngữ văn về cơ bản lựa chọn đã làm cao hơn so với khoa Toán - Lý
- Tin. Tiêu chí đầu tiên “Đi học đầy đủ, chuyên cần”, có 83,3% sinh viên Khoa Ngữ văn đã
làm, 16,7% là chưa làm; trong khi đó với sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin chỉ có 60% sinh
viên đã làm và 40% là chưa làm. Cũng tương tự như vậy, “Học ngoại ngữ, tin học”, có 63,3%
sinh viên Khoa Ngữ văn đã làm, 36,77% chưa làm, sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin có 25% đã
làm và 75% chưa làm. “Không sử dụng tài liệu trong giờ thi, giờ kiểm tra”, sinh viên Khoa
Ngữ văn có 70% đã làm, 30% chưa làm; sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin 45% đã làm, 55%
chưa làm. Tuy nhiên, có một số tiêu chí sinh viên của cả hai khoa có sự đồng nhất về thứ bậc
lựa chọn. Tiêu chí đi học đầy đủ, chuyên cần cả sinh viên Khoa Ngữ văn và khoa Toán - Lý -
Tin đều lựa chọn đã làm ở mức cao nhất; hay nội dung “Bổ sung thêm các kiến thức về tâm lí
học sinh phổ thông” sinh viên cả hai khoa đều lựa chọn đã làm ở mức thấp nhất.
Như vậy, biểu hiện và mức độ NCNT của sinh viên giữa hai khoa có một vài nội dung
đồng nhất, về cơ bản là có sự khác biệt. Sinh viên Khoa Ngữ văn hay Khoa Toán - Lý - Tin
đều có đặc trưng nghề nghiệp là giống nhau. Họ học để trở thành những giáo viên tham gia
giảng dạy ở các trường phổ thông. Đối với mỗi giáo viên, muốn dạy tốt phải có tri thức vững
vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, khả năng giao tiếp phù hợp với từng giai đoạn lứa tuổi, phải
tổ chức tốt các hoạt động. Chính đặc trưng nghề nghiệp này mà cả sinh viên Khoa Ngữ văn và
Khoa Toán - Lý - Tin có những điểm tương đồng trong mức độ lựa chọn cho từng tiêu chí.
Bên cạnh những điểm tương đồng thì sự chọn của sinh viên hai khoa trong từng tiêu chí có sự
52
khác biệt rõ rệt, điều này là do đặc điểm của hai khoa khác nhau nên lựa chọn có sự khác
nhau. Sinh viên Khoa Ngữ văn chủ yếu là nữ, sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin chủ yếu là nam.
Chính do yếu tố giới tính này làm cho sinh viên nam và nữ lựa chọn các tiêu chí khác nhau có
sự khác nhau.
Tiếp tục so sánh giữa nam và nữ về biểu hiện và mức độ NCNT chúng tôi cũng thấy có
sự khác biệt. Trong hầu hết các tiêu chí, sinh viên nữ lựa chọn đã làm cao hơn hẳn so với sinh
viên nam. Trong các nghiên cứu cho thấy, nữ sinh viên mang những nét đặc trưng của người
phụ nữ Việt Nam là hay lam hay làm, chịu thương chịu khó, cần cù, sáng tạo. Chính đặc trưng
này làm cho NCNT của các nữ sinh viên cao hơn hẳn so với nam sinh viên.
Để làm rõ hơn về bức tranh chung NCNT của sinh viên, chúng tôi tiến hành so sánh
giữa sinh viên năm thứ nhất và sinh viên năm thứ ba. NCNT của sinh viên ở hai khóa khác
nhau là có sự khác nhau nhưng không đáng kể. Về cơ bản, việc lựa chọn các nội dung ở mức
đã làm có sự tương đồng giữa hai khóa. Tuy nhiên, có một số nội dung lại có sự khác biệt cơ
bản trong việc lựa chọn đã làm hay chưa làm của sinh viên như: Tham gia nghiên cứu khoa
học, tích cực rèn luyện phương pháp giảng dạy bộ môn. Sự khác nhau này phù hợp thực tiễn.
Sinh viên K56 là sinh viên năm thứ nhất, các em chưa được tham gia làm đề tài nghiên cứu
khoa học cấp khoa hay cấp trường, chưa được học các học phần liên quan đến phương pháp
giảng dạy bộ môn nên lựa chọn đã làm ở hai nội dung này thấp hơn hẳn sinh viên K54.
Ngược lại sinh viên K54 là sinh viên năm thứ ba, các em đã được tham gia làm đề tài nghiên
cứu khoa học cấp khoa hoặc cấp trường, đã được học một học phần về phương pháp giảng
dạy bộ môn, đã đi thực hành phổ thông, kiến tập nên đã tích cực rèn luyện phương pháp giảng
dạy cao hơn hẳn so với sinh viên K56 là điều dễ hiểu.
NCNT của sinh viên giữa các khoa khác nhau, giới tính khác nhau, khóa học khác nhau
là có sự khác nhau. Sự khác nhau đó là do đặc trưng của từng khoa, từng giới và từng
khóa học.
Ghi chú:
1- Nhóm nhu cầu nhận thức về trang bị kiến thức chuyên môn;
2- Nhóm nhu cầu nhận thức về kiến thức liên quan đến khả năng dạy học;
3- Nhóm những nhu cầu nhận thức về các lĩnh vực khác
0
10
20
30
40
50
60
70
80
1 2 3
Biểu đồ: NCNT của sinh viên sƣ phạm Trƣờng ĐHTB
Đã làm
Chưa làm
53
2.2. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên biểu hiện ở mặt thái độ
Bảng 2. Thực trạng nhu cầu nhận thức biểu hiện ở mặt thái độ của sinh viên
TT Các việc A1 A2 A1 (%) A2 (%)
1 Tham gia vào các hoạt động học tập Tích cực Thụ động 33 67
2 Hoàn thành nhiệm vụ học tập Tự giác Bắt buộc 37 63
3 Ý chí vượt khó trong học tập Nỗ lực Thiếu nỗ lực 54 46
4 Thái độ đối với việc thi cử Nghiêm túc Thiếu nghiêm túc 52 48
Kết quả khảo sát qua phiếu điều tra cho thấy: Khi tham gia vào các hoạt động học tập và
khi hoàn thành các nhiệm vụ học tập, đa số sinh viên còn thụ động, do giảng viên bắt buộc,
tính tích cực và tinh thần tự giác chưa cao. Tuy nhiên ý chí vượt khó trong học tập và thái độ
với việc thi cử lại được nhiều sinh viên cho là nỗ lực và nghiêm túc nhưng cũng không cao
hơn đáng kể so với số sinh viên thiếu nỗ lực trong học tập và thiếu nghiêm túc trong thi cử.
Khi tham gia vào các hoạt động học tập, sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin và sinh viên
Khoa Ngữ văn có tính tích cực và thụ động ngang nhau (tích cực: 33%, thụ động: 67%); giữa
nam và nữ sự chênh lệch đáng kể, sinh viên nam tích cực học tập cao hơn so với sinh viên nữ
(42% so với 29%); sinh viên năm thứ nhất cũng biểu hiện tính tích cực trong học tập cao hơn
hẳn so với sinh viên năm thứ ba (47% so với 20%).
Sinh viên nữ thường hay lam hay làm, chịu thương chịu khó nhưng khi tham gia vào
hoạt động học tập ít mang tính chủ động như sinh viên nam. Điều này có thể lí giải: Sinh viên
nữ thường có sức ì lớn, chịu khó học nhưng lại thường chờ đợi giảng viên nhắc nhở mới học.
Sinh viên nam thường ham chơi hơn nhưng khi đã tham gia vào hoạt động học tập là tích cực,
chủ động lĩnh hội kiến thức, kĩ năng.
Sinh viên năm thứ nhất mới bước vào môi trường đại học, với kiến thức rộng lớn, với
cách học hoàn toàn khác biệt với cách học ở phổ thông là đòi hỏi tính tích cực, tự giác cao, tự
học, tự nghiên cứu. Chính vì vậy, sinh viên phải tích cực học tập mới có thể làm quen được
với môi trường học tập ở đại học. Sinh viên năm thứ ba đã quen với môi trường học tập, với
cách học ở đại học, quen với yêu cầu của các giảng viên nên thường chủ quan, thụ động hơn
so với sinh viên năm thứ nhất.
Việc hoàn thành nhiệm vụ học tập, thái độ của sinh viên cũng tương tự như khi tham gia
vào các hoạt động học tập khác đó là: Ở mức tự giác sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin cao hơn
sinh viên Khoa Ngữ văn, sinh viên nam cao hơn sinh viên nữ, sinh viên năm thứ nhất cao hơn
sinh viên năm thứ ba. Sinh viên nam tích cực tham gia vào hoạt động học tập nhiều hơn thì tự
giác hoàn thành nhiệm vụ học tập cũng nhiều hơn. Tương tự như vậy, sinh viên năm thứ nhất
tích cực tham gia vào hoạt động học tập nhiều hơn thì tự giác hoàn thành nhiệm vụ học tập
cũng nhiều hơn.
Hai nội dung: Ý chí vượt khó trong học tập và thái độ đối với việc thi cử thì sinh viên
giữa các khoa, giữa nam và nữ, giữa năm thứ nhất và năm thứ ba có sự chênh lệch nhưng
không đáng kể. Đặc biệt, thái độ đối với việc thi cử, sinh viên năm thứ nhất có số sinh viên
54
lựa chọn mức độ nghiêm túc là 57% bằng với sinh viên năm thứ ba. Sinh viên năm thứ nhất
mới vào trường, hoạt động thi cử mới chỉ diễn ra một học kì nhưng đã có rất nhiều sinh viên
có thái độ thiếu nghiêm túc trong thi cử. Đây là điều đáng lo ngại đối với sinh viên, đặc biệt là
sinh viên sư phạm. Nhà trường, giảng viên, các tổ chức chính trị xã hội cần nâng cao nhận
thức cho sinh viên về vấn đề này.
Qua quá trình phân tích trên cho thấy: Trong các sinh viên được nghiên cứu, đa số sinh
viên còn thụ động trong việc tham gia hoạt động học tập, chưa tự giác trong việc hoàn thành
nhiệm vụ học tập, nhiều sinh viên thiếu nỗ lực ý chí trong học tập, đặc biệt có tới 48% sinh
viên có thái độ thiếu nghiêm túc trong việc thi cử. Điều này cũng phù hợp với NCNT biểu
hiện ở mặt nhận thức và phương thức thoả mãn NCNT của sinh viên. Nếu sinh viên thực sự
có NCNT cao và NCNT đã trở nên bền vững, ổn định thì sẽ sẵn sàng tham gia mọi hoạt động
học tập do nhà trường, lớp học tổ chức vì thông qua các hoạt động đó, họ sẽ bổ sung, hoàn
thiện được nhiều những thiếu hụt về kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, để phát
triển bản thân đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nghề nghiệp.
2.3. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên biểu hiện ở mặt hành động
Trong phần trình bày về những NCNT của sinh viên đã được họ ý thức, kết quả cho
thấy hệ thống nhu cầu này khá phong phú và đa dạng về sự cần thiết và mong muốn thỏa mãn.
Sinh viên trước hết có NCNT về hệ thống tri thức khoa học, sau đó đến các tri thức về kĩ năng
dạy học. Tuy nhiên những nhu cầu đó đã được động cơ hóa đến mức nào? Kết quả thu được
thể hiện ở Bảng 3.
Bảng 3. Biểu hiện nhu cầu nhận thức của sinh viên về mặt hành động
TT Các việc Điểm TB Thứ hạng
1 Dành thời gian để nghiên cứu môn học 2,0 3
2 Giải quyết một vấn đề khó 2,2 1
3 Đọc thêm tài liệu tham khảo 1,9 4
4 Trong giờ học giảng viên đưa ra tình huống có vấn đề và kích thích
sự sáng tạo của tập thể
2,1 2
5 Đặt câu hỏi về nội dung bài học 1,8 5
6 Trao đổi ý kiến với thầy/cô và nội dung ngoài kiến thức chuyên môn 1,7 6
Kết quả thống kê ở Bảng 3 cho thấy: Sinh viên thường xuyên đưa ra ý kiến trong những
giờ học, những nội dung môn học mà giảng viên đưa ra tình huống có vấn đề và kích thích sự
sáng tạo của tập thể. Những giờ học như vậy, sinh viên thường thích, hào hứng và trăn trở suy
nghĩ để tìm ra câu trả lời đúng. Ở trên lớp cũng như ngoài giờ học trên lớp, sinh viên hiếm khi
đặt câu hỏi hay trao đổi với giảng viên về nội dung môn học. Lý do chủ yếu mà sinh viên đưa
ra là sợ các thầy/cô giáo quá bận, có ít thời gian rảnh rỗi hoặc không biết cách tiếp cận với
thầy/cô như thế nào cho đúng.
55
Biểu hiện NCNT của sinh viên về mặt hành động giữa Khoa Ngữ văn và Khoa Toán -
Lý - Tin có sự chênh lệch không đáng kể về mặt định lượng và thứ hạng. Sinh viên cả hai
khoa đều thích giải quyết những vấn đề đòi hỏi sự thông minh, nhanh trí và những giờ học đòi
hỏi phải có sự động não. Như vậy, sinh viên thích sự khám phá, tìm tòi tri thức để thỏa mãn
NCNT của bản thân.
So sánh giữa nam và nữ cũng cho kết quả tương tự. Tuy nhiên, sinh viên nam thích những
vấn đề đòi hỏi sự thông minh, nhanh trí và những giờ học đòi hỏi có sự động não cao hơn so với
sinh viên nữ. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm tâm lý của hai giới. Nữ sinh viên thường cần
cù, chịu khó, tập trung làm tốt những yêu cầu do giáo viên đặt ra. Sinh viên nam thường thích
làm những việc thể hiện khả năng của bản thân, thích khám phá, sáng tạo. Bên cạnh đó, NCNT
biểu hiện ở mặt hành động của hai giới có sự tương đồng là: Cả hai giới đều hiếm khi trao đổi
hay hỏi ý kiến giảng viên về nội dung bài học cả trong và ngoài giờ lên lớp.
NCNT biểu hiện ở mặt hành động của sinh viên năm thứ nhất và sinh viên năm thứ ba có
điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt. Khi được hỏi “Theo bạn, sinh viên sư
phạm hiện nay có đành nhiều thời gian để nghiên cứu môn học hay không?” thì sinh viên cả hai
khóa có điểm số tương đương nhau (2,0), nhưng thứ hạng hoàn toàn khác nhau (năm thứ nhất
xếp tiêu chí này ở vị trí thức tư, năm thứ ba xếp tiêu chí này ở vị trí thứ hai). Sinh viên cả hai
khóa đều có nhu cầu giải quyết những vấn đề đòi hỏi sự thông minh, nhanh trí. Nhu cầu này
được xếp ở vị trí cao nhất với số điểm tương đương nhau là 2,2. Ở các tiêu chí còn lại, sinh viên
giữa hai khóa khác nhau có NCNT ở mức độ khác nhau nhưng không đáng kể.
3. Kết luận
NCNT của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc khá đa dạng và phong phú. Tất
cả các NCNT được nêu ra đều xuất phát từ yêu cầu của nghề nghiệp tương lai, nhưng trước
hết xuất phát từ yêu cầu của hoạt động nhận thức nghề nghiệp trong nhà trường. Sinh viên
nhận thức khá rõ sự thiếu hụt kiến thức cũng như những kĩ năng của bản thân trong nhiều vấn
đề có liên quan đến nghề nghiệp sắp tới của họ và họ mong muốn được bổ sung, hoàn thiện.
Biểu hiện của NCNT thông qua mặt nhận thức, mặt thái độ và mặt hành vi.
Mặt nhận thức: Nhóm NCNT về kiến thức chuyên môn được sinh viên coi trọng hơn cả,
sau đó đến nhóm NCNT về các lĩnh vực khác có liên quan và cuối cùng là nhóm các NCNT
về trang bị kiến thức cho khả năng dạy học. Sinh viên chưa nhận thức đầy đủ được rằng cần
thiết phải đảm bảo sự cân đối giữa khả năng được trang bị kiến thức theo môn học và khả
năng dạy học. Sinh viên Khoa Ngữ văn có biểu hiện cao hơn sinh viên Khoa Toán - Lý - Tin,
sinh viên nữ có biểu hiện cao hơn sinh viên nam; sinh viên K54 có biểu hiện cao hơn sinh
viên K56.
Mặt thái độ: Đa số sinh viên còn thụ động khi tham gia các hoạt động học tập và hoàn
thành các nhiệm vụ học tập khi có sự bắt buộc từ phía giảng viên, tính tích cực và tinh thần tự
giác chưa cao. Tuy nhiên, ý chí vượt khó trong học tập và thái độ với việc thi cử lại được
nhiều sinh viên cho là có sự nỗ lực và nghiêm túc. Sinh viên giữa các khoa, giữa nam và nữ,
giữa năm thứ nhất và năm thứ ba có sự chênh lệch nhưng không đáng kể.
56
Mặt hành động: Ở mặt này, sinh viên Khoa Ngữ văn biểu hiện sự tương đồng với sinh
viên Khoa Toán - Lý - Tin, sinh viên nam có biểu hiện cao hơn sinh viên nữ, khóa 56 có biểu
hiện cao hơn sinh viên khóa 54.
Nhìn chung, có sự khác nhau về NCNT giữa các khoa, giới tính và khóa học khi được
nghiên cứu. Sự khác nhau đó là do đặc trưng của từng khoa, từng giới và từng khóa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Ngọc Bích (2001). Tâm lý học nhân cách một số vấn đề lí luận. Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[2] Lê Thị Bừng (Chủ biên) (2017). Các thuộc tính tâm lý điển hình của nhân cách. Nhà
xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.
[3] I.X Con (GS. Phạm Minh Hạc, Ngô Hào Hiệp dịch) (1987). Tâm lý học thanh niên. Nhà
xuất bản Trẻ TP HCM.
[4] Phan Thị Vóc (2012). Nhu cầu thành đạt trong học nghề của sinh viên Trường Đại học
Tây Bắc. Luận văn Thạc sĩ.
[5] Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên) (2003). Tâm lý học đại cương. Nhà xuất bản Đại học
Sư phạm.
TAY BAC UNIVERSITY STUDENTS’ NEEDS IN KNOWLEDGE ACQUISITION
Phan Thi Voc
Tay Bac University
Abstract: After assessing 120 Tay Bac University students about their needs in knowledge acquisition, the
result shows that in order to satisfy their needs, students should focus on equipping them with certain knowledge
of their specific major. There are some differences in the needs of knowledge acquisition between male and
female students; among faculties; and among different courses.
Keywords: Attitude, awareness, behavior, cognitive demand.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 17_8096_2135959.pdf