Tài liệu Thực trạng nhân lực, trang thiết bị phục vụ công tác vận chuyển cấp cứu nội viện tại khoa cấp cứu chống độc tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2017: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 214
THỰC TRẠNG NHÂN LỰC, TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ
CÔNG TÁC VẬN CHUYỂN CẤP CỨU NỘI VIỆN
TẠI KHOA CẤP CỨU CHỐNG ĐỘC TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
NĂM 2017
Đỗ Mạnh Hùng*, Lê Thanh Hải*, Lưu Thị Mỹ Thục*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng nhân lực, trang thiết bị phục vụ công tác vận chuyển cấp cứu nội viện tại Khoa
cấp cứu chống độc tại bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng kết hợp định tính trên 350
trường hợp vận chuyển cấp cứu nội viện.
Kết quả: đội vận chuyển có bác sỹ đi cùng 61,71%, đội vận chuyển có điều dưỡng đi cùng 94,29%, đội vận
chuyển có cả bác sỹ và điều dưỡng đi cùng 59,14. Được học 03 lớp cấp cứu cơ bản và nâng cao ở bác sỹ chiếm
22,29%, ở điều dưỡng chiếm 38,86%. Tỷ lệ đạt danh mục thiết bị quá trình vận chuyển chiếm 85,14%.
Kết luận: Số lượng, trình độ cán bộ và trang thiết bị t...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng nhân lực, trang thiết bị phục vụ công tác vận chuyển cấp cứu nội viện tại khoa cấp cứu chống độc tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 214
THỰC TRẠNG NHÂN LỰC, TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ
CÔNG TÁC VẬN CHUYỂN CẤP CỨU NỘI VIỆN
TẠI KHOA CẤP CỨU CHỐNG ĐỘC TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
NĂM 2017
Đỗ Mạnh Hùng*, Lê Thanh Hải*, Lưu Thị Mỹ Thục*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng nhân lực, trang thiết bị phục vụ công tác vận chuyển cấp cứu nội viện tại Khoa
cấp cứu chống độc tại bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng kết hợp định tính trên 350
trường hợp vận chuyển cấp cứu nội viện.
Kết quả: đội vận chuyển có bác sỹ đi cùng 61,71%, đội vận chuyển có điều dưỡng đi cùng 94,29%, đội vận
chuyển có cả bác sỹ và điều dưỡng đi cùng 59,14. Được học 03 lớp cấp cứu cơ bản và nâng cao ở bác sỹ chiếm
22,29%, ở điều dưỡng chiếm 38,86%. Tỷ lệ đạt danh mục thiết bị quá trình vận chuyển chiếm 85,14%.
Kết luận: Số lượng, trình độ cán bộ và trang thiết bị tại khoa Cấp cứu –chống độc của bệnh viện chưa đáp
ứng được nhu cầu công tác vận chuyển cấp cứu nội viện.
Từ khóa: Nhân lực, trang thiết bị, vận chuyển cấp cứu nội viện.
ABSTRACT
CURRENT STATUS OF HUMAN RESOURCES AND MEDICAL EQUIPMENTS FOR
INTRAHOSSPITAL TRANSPORT AT EMERGENRY – POISON CONTROL DEPARTMENT,
VIETNAM NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL IN 2017
Do Manh Hung, Le Thanh Hai, Luu Thi My Thuc
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 214 – 220
Objective: Describe the current status of human resources, equipment for emergency transport in the
hospital at Emergency – Poison control department, Vietnam National Children’s Hospital in 2017.
Methodology: A cross-sectional study, we conducted on 350 cases of intrahospital transport.
Result: Transport team accompanied by doctor accounts for 61.71%, transport team accompanied by nurse
accounts for 94.29%, Transport team accompanied by both doctor and nurse accounts for 59.14. 22.29% of
doctors has run 3 basic and advanced pediatric life support courses, 38.86% of nurses has run those courses.
85.14% of equipment items meets the requirement of transport.
Conclusion: Quantity, quanlification and medical equiptment at Emergency – Poison control department
have not met the demand of patient transport inside the hospital.
Keywords: human resources, equipment, emergency transport in the hospital.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Beckmann và cộng sự (2004) có đến 61% sự
cố liên quan đến các vấn đề về nhân lực tham gia
bao gồm việc giao tiếp kém hiệu quả và kiểm
soát thiếu chặt chẽ, 39% sự cố xảy ra do vấn đề
về thiết bị, và 31% xảy ra do sức khỏe người
bệnh diễn biến bất thường(1). Kết luận của tác giả:
Việc vận chuyển bệnh nhân trong bệnh viện
tiềm ẩn rủi ro đối với người bệnh. Vì thế, xây
*Bệnh viện Nhi Trung Ương.
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Mạnh Hùng, ĐT: 0913 304075, Email: hungdm.nip@gmail.com
.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 215
dựng các quy định đối với nhân viên y tế, với
thiết bị máy móc và công tác kiểm soát, kiểm tra
liên quan đến vận chuyển người bệnh là rất cần thiết.
Bệnh viện Nhi Trung ương hàng ngày tiếp
nhận hàng trăm ca cấp cứu tại khoa Cấp cứu
chống độc. Quá trình vận chuyển cấp cứu nội
viện do chưa đủ nhân lực, trang thiết bị nên hiện
đang là mối quan tâm của Bệnh viện. Nhằm
đáng giá thực trạng nhân lực, trang thiết bị, qua
đó tìm ra các giải pháp can thiệp kịp thời trong
vận chuyển cấp cứu nội viện chúng tôi tiến hàng
nghiên cứu với đề tài: “Thực trạng nhân lực,
trang thiết bị phục vụ công tác vận chuyển cấp
cứu nội viện tại Khoa cấp cứu chống độc tại
Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2017”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả thực trạng nhân lực, trang thiết bị
phục vụ công tác vận chuyển cấp cứu nội viện
tại Khoa cấp cứu chống độc tại bệnh viện Nhi
Trung ương năm 2017.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các trường hợp vận chuyển cấp cứu nội viện cho
bệnh nhi
Các cán bộ y tế tham gia vận chuyển cấp cứu
nội viện.
Các nhân viên y tế bệnh viện tham gia vào
quá trình vận chuyển nội viện từ khoa cấp cứu
chống độc tới các đơn vị khác trong bệnh viện;
Nhân viên y tế có thể bao gồm các thành
phần: Bác sỹ, Điều dưỡng viên; học viên.
Phương tiện, trang thiết bị, thuốc được sử
dụng trong quá trình vận chuyển nội viện.
Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp thiết kế mô tả cắt ngang có
phân tích, nghiên cứu kết hợp định lượng định tính.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức:
Trong đó:
p = 30% = 0,3 là tỷ lệ các sự cố xảy ra trong
các lần vận chuyển nội viện.
Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z).
d = 0,05 là sai số tuyệt đối, lấy mức 5%.
n = 323: Cỡ mẫu cần nghiên cứu, lấy tròn
khoảng 350 trường hợp bệnh nhi cần vận
chuyển cấp cứu nội viện.
Tiêu chuẩn đánh giá
Dựa vào kết quả nghiên cứu của Brunsveld-
Reinders AH, Arbous MS, Kuiper SG, de Jonge E
(2014)(3).
Vấn đề y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng y
đức của bệnh viện Nhi Trung ương, trong đó:
Nghiên cứu chỉ quan sát và nghi nhận
thực trạng sự cố, không có bất cứ can thiệp
nào lên người bệnh cũng như đến hệ thống
vận chuyển cấp cứu nội viện,
Tất cả bệnh nhân trong các hồ sơ bệnh án,
được giữ kín toàn bộ thông tin cá nhân về độ
tuổi, quê quán và các thông tin cá nhân khác,
Các bảng, biểu số liệu điều tra không ghi
rõ bất cứ một trường hợp cụ thể nào dễ nhận
biết một đối tượng hay trường hợp vận
chuyển.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Thông tin về cán bộ tham gia vận chuyển
trên thực tế
Đặc điểm cán bộ Số lượng Tỷ lệ%
Số lượng cán bộ
01 cán bộ 58 16,57
02 cán bộ 183 52,29
03 cán bộ 99 28,29
04 cán bộ 10 2,86
Bác sỹ đi cùng
Không 134 38,29
Có 216 61,71
Điều dưỡng đi cùng
Không 20 5,71
Có 330 94,29
Cả bác sỹ, điều
dưỡng
Không 143 40,86
Có 207 59,14
Tổng 350 100
Đa số số là có trên 2 cán bộ tham gia VCCC
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 216
nội viện với gần 85% số bệnh nhân, số ca vận
chuyển có bác sỹ là 61,71%, số ca vận chuyển có
điều dưỡng là 83,43%. Đa phần là học viên bao
gồm bác sỹ và điều dưỡng đang thực tập, thử
việc tại bệnh viện thực hiện.
Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy do
lượng cán bộ còn ít, bên cạnh đó tại khoa Cấp
cứu – Chống độc thường xảy ra tình trạng quá
tải, do vậy việc bố trí cán bộ tham gia vận
chuyển cấp cứu thường gặp nhiều khó khăn:
“Những hôm đông bệnh nhân, chúng tôi phải huy
động đến cả các trường hợp học viên đang học tập,
thử việc tại bệnh viện tham gia vận chuyển” (Lãnh
đạo khoa CCCĐ).
Bệnh nhi thở máy hoặc dùng thuốc vận
mạch, suy hô thấp, loạn nhịp tim cần 01 bác sỹ,
01 điều dưỡng VCCC, tỷ lệ không đáp ứng
chiếm 5,71% (Hình 1).
Hình 1. Đạt yêu cầu về số lượng cán bộ vận chuyển
cấp cứu nội viện
Bảng 2. Trình độ điều dưỡng tham gia vận chuyển
cấp cứu
Nội dung Số lượng Tỷ lệ %
Trình độ cao nhất của điều
dưỡng trong đội vận chuyển
Sau đại học 3 0,91
Đại học 137 41,52
Cao đẳng 107 32,42
Trung cấp 83 25,15
Đội vận chuyển có ĐD
được học cấp cứu cơ bản
Không 90 27,27
Có 240 72,73
Đội vận chuyển có ĐD
được học cấp cứu nâng
cao
Không 169 51,21
Có 161 48,79
Đội vận chuyển có ĐD đã
được học về sử dụng trang
thiết bị
Không 4 1,14
Có 346 98,86
Tổng 350 100
Trình độ ĐD tham gia vận chuyển với hơn
60 là đại học, với đa số được học cấp cứu cơ bản
(72,73%), tỷ lệ được học cấp cứu nâng cao chiếm
gần 1 nửa số ĐDV (48,79%).
Bảng 3. Trình độ bác sỹ tham gia vận chuyển (tại
thời điểm thu thập số liệu)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ %
Trình độ cao nhất của Bs
trong đội vận chuyển
Bs Đa khoa 209 96,76
Định hướng nhi 5 2,31
Chuyên khoa I 1 0,46
Thạc sỹ 1 0,46
Đội vận chuyển có Bs học
lớp cấp cứu cơ bản
Không 49 22,69
Có 167 77,31
Đội vận chuyển có Bs học
lớp cấp cứu nâng cao
Không 134 62,04
Có 82 37,96
Đội vận chuyển cấp cứu
có Bs được học về sử
dụng TTB cấp cứu
Không 5 2,31
Có 211 97,69
Tổng 216 100
Tại thời điểm thu thập số liệu, lực lượng bác
sỹ tham gia vận chuyển chủ yếu là các học viên
là bác sỹ mới tốt nghiệp đại học với 96,76%, tỷ lệ
sau đại học chiếm tỷ lệ nhỏ với định hướng nhi
chiếm 2,31%, chuyên khoa I và thạc sỹ đều
chiếm 0,46%.
Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy, việc
bố trí bác sỹ có trình độ cao tham gia vận chuyển
là khó khăn, tuy vậy theo lãnh đạo khoa cấp cứu
thì việc vận chuyển thì với quãng đường ngắn
như trong bệnh viện thì không nhất thiết phải có
bác sỹ có trình độ sau đại học đi cùng.
Tuy vậy, đa số bác sỹ tham gia vận chuyển
còn trẻ, chưa được học đầy đủ các lớp cấp cứu,
điều này do thiếu nhân lực tại khoa. “Các bác sỹ
có thâm niên công tác tại khoa Cấp cứu & chống
độc 3 – 5 năm, Bác sỹ nội trú Nhi, được tập huấn
thì phải trực tại phòng cấp cứu, vì phòng cấp
cứu thường xảy ra quá tải, hơn nữa tại phòng
cấp cứu có nhiều bệnh nhân nặng hơn, do vậy
chúng tôi chỉ có thể cử các bác sỹ đang đi học
tham gia vận chuyển”.
Do thiếu hụt nhân lực, nên nhân viên tham
gia vận chuyển cấp cứu chủ yếu là học viên, do
đó tỷ lệ được tập huấn đầy đủ 03 nội dung cấp
cứu cơ bản, nâng cao và sử dụng các thiết bị cấp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 217
cứu khi vận chuyển bệnh nhân ở điều dưỡng
viên chỉ đạt 38,86%, ở bác sỹ là 22,29%.
Hình 2. Tỷ lệ đội vận chuyển có CBYT tham gia vận
chuyển được tập huấn đầy đủ cả 03 lớp cấp cứu cơ
bản, nâng cao (n=350)
Bảng 4. Trang thiết bị quá trình vận chuyển
Danh mục TTB cho VCCC
Số lượng
(n=350)
Tỷ lệ
Canuyn 100 28,57
Ống nội khí quản 212 60,57
Mask thở ôxy 251 71,71
Máy hút đờm dãi 78 22,29
Máy thở di động để vận chuyển 23 6,57
Bình ô xy và dây dẫn 319 91,14
Bóng ambu tự phồng (có túi chứa ô xy) 273 78,00
Máy đo độ bão hòa ô xy trong máu SPO2 320 91,43
Máy truyền 110 31,43
Máy tiêm 119 34,00
Catheter tĩnh mạch (kim luồn) 193 55,14
Ống nghe 207 59,14
Máy đo huyết áp 29 8,29
Túi cấp cứu (thuốc/dụng cụ sử dụng
trong trường hợp khẩn cấp)
310 88,57
Các TTB phục vụ vận vận chuyển cấp cứu
nội viện được sử dụng nhiều nhất là bình oxy,
máu đo độ bão hòa oxy và túi cấp cứu với tỷ lệ
khoảng trên dưới 90% số ca VCCC nội viện.
Đánh giá đạt khi trên xe vận chuyển cấp
cứu đầy đủ các trang thiết bị theo danh mục
theo Bảng 4. Hầu hết các danh mục TTB là đạt
(tức là TTB vận chuyển tương ứng với thiết bị tại
giường bệnh) với tỷ lệ 85,14%.
Hình 4. Tỷ lệ đạt danh mục thiết bị quá trình vận
chuyển (n=350)
Nghiên cứu định tính cho thấy tỷ lệ không
đạt các danh mục TTB là do khoa hiện còn thiếu
và không đáp ứng được. “Máy thở xách tay mới
có 01 cái, chưa nói để dự trù khi hỏng hóc hoặc
bảo dưỡng. Nếu trong trường hợp có khoảng 2
đế 3 bệnh nhân thở máy cùng một lúc mà cần
phải vận chuyển thì không biết nên sử lý thế
nào?” (Lãnh đạo khoa CCCĐ).
Một số trang thiết bị mặc dù đã được đầu tư,
tuy nhiên đã hỏng hóc và không sử dụng được.
“Máy theo dõi đủ 6 chức năng hầu hết không
tham gia vận chuyển được vì chai pin. Chỉ còn
03 máy hai chức năng tham gia vận chuyển
được. Như thế có thể nói là hạn chế” (Lãnh đạo
Khoa CCCĐ).
“Các trang thiết bị như: đèn nội khí quản,
bóng bóp có được trang bị nhưng hiện tại đang
hư, hỏng nhiều” (Lãnh đạo khoa CCCĐ).
Xe điện vận chuyển là một trong những nhu
cầu thiết yếu trong công tác VCCC nội viện:
“Nếu vận chuyển bệnh nhân trong lúc trời nắng,
mưa cần sự linh hoạt thì xe điện, phương tiện
đưa đón bệnh nhân cũng chưa có” (Lãnh đạo
khoa CCCĐ).
BÀN LUẬN
Nhân lực
Vận chuyển cấp cứu nội viện là một quá
trình vận chuyển những bệnh nhân nặng, cần có
những can thiệp để duy trì sự ổn định các chỉ số
sinh tồn tại giường bệnh và trong quá trình vận
chuyển. Do vậy, quá trình vận chuyển đòi hỏi số
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 218
lượng đủ cán bộ với trình độ chuyên môn cao và
kỹ năng xử trí tốt.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
số lượng công tác vận chuyển cấp cứu nội viện
với 01 cán bộ chiếm 16,57%, 02 cán bộ chiếm
52,29%, 03 cán bộ chiếm 28,29% và 04 cán bộ
chiếm. Tỷ lệ có bác sỹ đi cùng là 61,71%, tỷ lệ có
học viên đi cùng là 94,29%, tỷ lệ có bác sỹ và điều
dưỡng tham gia vận chuyển là 59,14%. Đa số
trường hợp chỉ có học viên tham gia vận chuyển
cấp cứu nội viện.
So sánh với kết quả nghiên cứu của
Brunsveld-Reinders AH (2014) cho thấy trong
503 ca vận chuyển nội viện đến khoa chụp X-
Quang tỷ lệ điều dưỡng và bác sỹ là 66%, và tỷ lệ
vận chuyển chi với cán bộ khoa cấp cứu là 27%,
điều dưỡng khoa cấp cứu và bác sỹ khoa cấp
cứu là 3%.
Thực tế các trường hợp vận chuyển cấp nội
viện cứu đều có những biểu hiện về suy giảm
các chỉ số sinh tồn. Số lượng cán bộ tham gia vận
chuyển cấp cứu là không đạt so với tiêu chuẩn
theo C Waydhas (1999) và BF Mazza quá trình
vận chuyển cần có 02 cán bộ y tế hộ tống(5,10).
Sự thiếu hụt nguồn nhân lực tại khoa Cấp
cứu & chống độc cũng như của bệnh viện hiện
đang là vấn đề đã được giám đốc bệnh viện rất
qua tâm, tuy nhiên việc bổ sung nhân lực đặc
biệt nhân lực có trình độ, kỹ năng thì đòi hỏi cần
có thời gian và cần có cơ chế thu hút nhân lực.
Việc bố trí nhân lực tham gia vận chuyển cấp
cứu nội viện tùy thuộc vào nhu cầu bệnh nhân.
Ở những bệnh nhân nhẹ hơn, ít hoặc không phải
can thiệp thì không cần thiết đầy đủ cả bác sỹ lẫn
điều dưỡng. Theo Brunsveld-Reinders AH,
Arbous MS, Kuiper SG, de Jonge E (2014) ở các
trường hợp bệnh nhân thở máy hoặc dùng thuốc
vận mạch, suy hô thấp và loạn nhịp tim cần 01
bác sỹ và 01 điều dưỡng VCCC [2], Nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy tỷ lệ không đáp ứng
chiếm 5,71% số bệnh nhân.
Theo VW Stevenson, CF Haas, and WL
Wahl (2002) và DW Chang và cộng sự (2002),
thì quá trình vận chuyển cần có điều dưỡng
chuyên trách có chứng chỉ cấp cứu nâng cao,
và kinh nghiệm ứng phó với các tình huống
cấp cứu(4,8). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
trình độ điều dưỡng thiếu chuyên môn chiếm
tỷ lệ cao. Kết quả cho thấy đại học và sau đại
học chiếm 42,43%, cao đẳng và trung cấp
chiếm 57,57%. Điều dưỡng được học về cấp
cứu cơ bản chiếm 72,73%, điều dưỡng được
học về cấp cứu nâng cao chiếm 48,79%, điều
dưỡng được học về cách sử dụng thiết bị vận
chuyển cấp cứu chiếm 98,86%.
Đội vận chuyển đa số là bác sỹ đa khoa và
mới tốt nghiệp ra trường chiếm 96,76%, bác sỹ
được học lớp cấp cứu cơ bản chiếm 77,31%,
bác sỹ được học lớp cấp cứu nâng cao chiếm
37,96%, bác sỹ được học về sử dụng TTB cấp
cứu chiếm 97,69%.
Theo VW Stevenson, CF Haas and WL Wah
bệnh nhân thở máy cần một bác sĩ chuyên khoa
hô hấp(8). Nghiên cứu của các tác giả C Waydhas
(1999), BB Pope (2003) và nghiên cứu của J.
Warren và cộng sự (2004) cho thấy bệnh nhân có
tình trạng huyết động không ổn định cần bác sĩ
có kinh nghiệm chăm sóc tích cực(6,9,10). Tuy vậy,
hiện khoa chưa thực hiện được việc này vì chưa
đáp ứng đủ về nhân lực để tham gia vận chuyển
bệnh nhân đặc biệt bệnh nhân nặng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ điều
dưỡng được học đầy đủ cấp cứu cơ bản, nâng
cao và sử dụng trang thiết bị là 38,86% số ca
vận chuyển và bác sỹ được học đầy đủ cấp
cứu cơ bản, nâng cao và sử dụng thiết bị y tế
chiếm 22,29%.
Với kết quả này cho thấy bệnh viện cần đẩy
mạnh công tác tập huấn nâng cao trình độ cho
cán bộ tham gia vận chuyển cấp cứu, mặt khác
cần bổ sung nguồn nhân lực phục vụ công tác
vận chuyển cấp cứu nhằm đảm bảo VCCC nội
viện tính an toàn cao.
Trang thiết bị, thuốc
Ở những bệnh nhân suy giảm các chỉ số sinh
tồn thì TTB trong quá trình vận chuyển đóng vai
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 219
trò quan trọng trong việc duy trì tình trạng ổn
định các chỉ số sinh tồn ở bệnh nhân. Đảm bảo
được các TTB là đảm bảo được tính mạng và sự
phục hồi sức khỏe cho người bệnh. Do vậy, việc
tổ chức, xây dựng kế hoạch và sử dụng tốt các
TTB trong quá trình vận chuyển cấp cứu đóng
vai trò hết sức quan trọng.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ các
thiết bị sử dụng trong các ca vận chuyển như
sau: Canuyn 28,57%, ống nội khí quản 60,57%,
Mask thở oxy 71,71%, máy hút đờm dãi 22,29%,
máy thở di động để vận chuyển 6,57%, bình oxy
và dây dẫn 91,14%, bóng ambu tự phồng (có túi
chứa oxy là 78%, máy đo độ bãi hòa oxy trong
máu SPO2 là 91,43%, máy truyền dịch là 31,43%,
máy tiêm là 34%, Catheter tĩnh mạch 55,14%;
Ống nghe 59,14%; máy đo huyết áp 8,29%, túi
cấp cứu 88,57%.
Thực tế thì mỗi ca vận chuyển cấp cứu có
những biểu hiện suy giảm chức năng sống là
khác nhau và nguyên nhân gây bệnh cũng khác
nhau. Do vậy đòi hỏi những TTB riêng biệt. Điều
quan trọng là các vật dụng kèm theo không
thừa, không thiếu. Điều kiện tối thiểu là bệnh
nhân cần được chăm sóc với tiêu chuẩn giống
như tại khoa Cấp cứu & chống độc(4). Theo C
Waydhas và cộng sự (1999) việc mang quá nhiều
thiết bị không cần thiết có thể ảnh hưởng đến sự
an toàn của người bệnh bởi vì nhiều hơn không
đồng nghĩa với tốt hơn nếu các thiết bị này xảy
ra sự cố khiến cho nhân viên y tế xao nhãng
người bệnh(10).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy danh mục
TTB là đạt (tức là TTB vận chuyển tương ứng với
thiết bị tại giường bệnh) với tỷ lệ là 85,14%, trong
khi tỷ lệ không đạt còn chiếm tớ 14,86%. Thực tế
tại bệnh viện, nghiên cứu định tính cũng chỉ ra
sự thiếu hụt về trang thiết bị cho đội vận chuyển
cấp cứu nội viện. Sự thiếu hụt TTB có nhiều
nguyên nhân như hỏng hỏng, quá tải bệnh nhân
và các thiết bị không phù hợp với mỗi bệnh
nhân. Bệnh viện Nhi Trung ương cần có các
phương án và dự báo về tình hình bệnh tật, qua
đó có kế hoạch mua sắm các TTB phù hợp phục
vụ công tác vận chuyển là hết sức quan trọng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu định tính cho thấy
mặc dù bệnh viện đã có các xe đẩy/ giường đẩy
phục vụ bệnh nhân cấp cứu, tuy vậy xe
đẩy/giường đẩy hiện nay là không phù hợp với
thiết kế các khoa phòng trong khuân viên bệnh
viện. Do có nhiều dãy nhà khác nhau, việc vận
chuyển bệnh nhân ngoài trời đòi hỏi phải có sự
che mưa, che nắng và chắn gió. Với khoảng cách
vận chuyển có khi lên đến 2km (tính cả lượt đi
lượt về), việc đầy tư các xe điện chuyên dụng
trong việc vận chuyển nội viện bệnh nhân là hết
sức quan trọng.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu cho thấy thực trạng nhân lực,
trang thiết bị tại bệnh viện còn chưa đáp ứng
được nhu cầu công tác vận chuyển cấp cứu nội
viện. Trong đó số lượng và trình độ qua kết quả
cho thấy:
Số lượng: Đội vận chuyển có từ 2 cán bộ
chiếm 83,43%, có bác sỹ đi cùng 61,71%, điều
dưỡng đi cùng 94,29%, có cả bác sỹ và điều
dưỡng 59,14%, đạt về số cán bộ theo sức khỏe
người bệnh 94,29%.
Trình độ: ĐD có trình độ đại học, sau đại học
chiếm 42,43%; ĐD được học cấp cứu cơ bản
72,73%, ĐD được học cấp cứu nâng cao 48,79%,
ĐD được học về sử dụng TTB chiếm 98,86%. Bác
sỹ chủ yếu là bác sỹ đa khoa đại học với 96,76%,
bác sỹ được học cấp cứu cơ bản chiếm 22,69%,
bác sỹ học cấp cứu nâng cao 37,96%. Tỷ lệ được
học đầy đủ cấp cứu cơ bản, nâng cao và sử dụng
TTB ở ĐD là 22,29%, Bác sỹ là 38,86%.
TTB vận chuyển: Tỷ lệ đạt danh mục thiết bị
(tương đương với giường bệnh) là 85,14%.
Bệnh viện cần đảm bảo nhân lực tham gia
vận chuyển cấp cứu được đào tạo cấp cứu cơ
bản, nâng cao và sử dụng thành thạo TTB vận
chuyển. Cần có chính sách thu hút cán bộ tham
gia thực hiện công tác vận chuyển cấp cứu, cần
có đủ các bác sỹ có chuyên môn tham gia vào các
ca vận chuyển bệnh nhân nặng. Bên cạnh đó,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 220
bệnh viện cần bổ sung mua sắm TTB, phương tiện
đầy đủ cho công tác vận chuyển cấp cứu nội viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Beckmann U, Gillies DM., Berenholtz SM, Wu AW and
Pronovost P (2004), “Incidents relating to the intra-hospital
transfer of critically ill patients. An analysis of the reports
submitted to the Australian Incident Monitoring Study in
Intensive Care,” Intensive Care Med., vol. 30, no. 8, pp. 1579–
1585.
2. Braxton CC, Reilly PM and Schwab CW (2000), “The traveling
intensive care unit patient. Road trips,” Surg. Clin. North Am, vol.
80, no. 3, pp. 949–956.
3. Brunsveld-Reinders H, Arbous MS, Kuiper SG and de Jonge E
(2015), “A comprehensive method to develop a checklist to
increase safety of intra-hospital transport of critically ill
patients,” Crit. Care Lond. Engl, vol. 19, p. 214.
4. Chang DW and American Association for Respiratory Care
(AARC) (2002), “AARC Clinical Practice Guideline: in-hospital
transport of the mechanically ventilated patient--2002 revision &
update,” Respir. Care, vol. 47, no. 6, pp. 721–723.
5. Mazza F et al (2008), “Safety in intrahospital transportation:
evaluation of respiratory and hemodynamic parameters. A
prospective cohort study,” Sao Paulo Med. J. Rev. Paul. Med, vol.
126, no. 6, pp. 319–322.
6. Pope BB (2003), “Provide safe passage for patients,” Nurs. Manag
(Harrow), vol. 34, no. 9, pp. 41–46.
7. Rice DH, Kotti G and Beninati W (2008), “Clinical review:
critical care transport and austere critical care,” Crit. Care Lond.
Engl, vol. 12, no. 2, p. 207.
8. Stevenson VW, Haas CF and Wahl WL (2002), “Intrahospital
transport of the adult mechanically ventilated patient,” Respir.
Care Clin. N. Am, vol. 8, no. 1, pp. 1–35.
9. Warren J, Fromm RE, Orr RA, Rotello LC, Horst HM. and
American College of Critical Care Medicine (2004), “Guidelines
for the inter- and intrahospital transport of critically ill patients,”
Crit. Care Med, vol. 32, no. 1, pp. 256–262.
10. Waydhas C (1999), “Intrahospital transport of critically ill
patients,” Crit. Care Lond. Engl, vol. 3, no. 5, pp. R83-89.
Ngày nhận bài báo: 10/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_nhan_luc_trang_thiet_bi_phuc_vu_cong_tac_van_chuy.pdf