Tài liệu Thực trạng kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp xây dựng: chương II
thực trạng kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp xây dựng
2.1 Thực trạng thực hiện kiểm toán nội bộ ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ
ở nước ta, thuật ngữ về kiểm toán được biết đến vào những năm 80, còn kiểm toán nội bộ đến cuối những năm 90 của thế kỷ trước mới được đề cập tới. Bắt đầu từ Luật DNNN năm 1995, có quy định liên quan đến kiểm toán nội bộ là Ban kiểm soát do Hội đồng quản trị thành lập. Tuy nhiên, chức năng và nhiệm vụ chưa rõ ràng, chưa đề cập cụ thể đến hoạt động kiểm toán nội bộ. Năm 1997, Bộ Tài chính ban hành Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT quy định, hướng dẫn về kiểm toán nội bộ cho các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tuy nhiên còn nhiều bất cập. Năm 1998, Bộ Tài chính ban hành thông tư 171/1998/TT-BTC hướng dẫn thực hiện kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước để giải quyết những tồn tại vướng mắc của QĐ832/TC/QĐ/CĐKT. ở Việt Nam, mặc dù luật pháp quy định bắt buộc đối với các DNNN, trong đó có các doanh nghiệp xây dựng nhà nướ...
27 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Thực trạng kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp xây dựng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chương II
thực trạng kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp xây dựng
2.1 Thực trạng thực hiện kiểm toán nội bộ ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ
ở nước ta, thuật ngữ về kiểm toán được biết đến vào những năm 80, còn kiểm toán nội bộ đến cuối những năm 90 của thế kỷ trước mới được đề cập tới. Bắt đầu từ Luật DNNN năm 1995, có quy định liên quan đến kiểm toán nội bộ là Ban kiểm soát do Hội đồng quản trị thành lập. Tuy nhiên, chức năng và nhiệm vụ chưa rõ ràng, chưa đề cập cụ thể đến hoạt động kiểm toán nội bộ. Năm 1997, Bộ Tài chính ban hành Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT quy định, hướng dẫn về kiểm toán nội bộ cho các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tuy nhiên còn nhiều bất cập. Năm 1998, Bộ Tài chính ban hành thông tư 171/1998/TT-BTC hướng dẫn thực hiện kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước để giải quyết những tồn tại vướng mắc của QĐ832/TC/QĐ/CĐKT. ở Việt Nam, mặc dù luật pháp quy định bắt buộc đối với các DNNN, trong đó có các doanh nghiệp xây dựng nhà nước phải có hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Nhưng, do những bất cập của các quy định pháp luật như đã nêu về mô hình tổ chức không phù hợp với thông lệ quốc tế; do nhận thức chưa đầy đủ về sự cần thiết, những lợi ích của hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ nên chất lượng hoạt động của công tác này trong các DNNN nói chung và trong các doanh nghiệp xây dựng nói riêng rất kém hiệu quả.
Thể hiện ở những khía cạnh sau:
Chức năng kiểm soát nội bộ bị đồng nhất với chức năng kiểm toán nội bộ.
Chưa phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp lãnh đạo đối với hệ thống kiểm soát nội bộ.
Công tác tự đánh giá đối với hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được thực hiện và bị xem nhẹ. Hơn nữa, công tác đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của kiểm toán nội bộ không đảm bảo tính độc lập, khách quan, dẫn đến kết quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong suốt thời gian qua mới chỉ dừng lại ở công tác hậu kiểm, những vấn đề phát hiện thường là những sai phạm đã xảy ra, chưa có tác dụng trong việc phát hiện, ngăn ngừa, quản lý rủi ro và nhất là tư vấn cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực hiện có.
2.1.2 Một số mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Sau sự ra đời của các văn bản pháp quy về việc thành lập kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Nhà nước, các Tổng Công ty, đặc biệt là các Tổng Công ty 90, 91 đã bước đầu tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. Thực tế khảo sát một số Tổng Công ty cho thấy việc tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm về quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn cho mình một mô hình tổ chức thích hợp với hoạt động của doanh nghiệp mình. Qua khảo sát thực tế tại một số Tổng Công ty 90, 91 của Việt Nam có các mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ cơ bản sau:
Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tập trung:
Theo mô hình này thì tổ chức phòng (Ban) kiểm toán nội bộ tại đơn vị chính (Tổng Công ty) có đủ biên chế cần thiết để đảm bảo toàn bộ công tác kiểm toán tại đơn vị chính cũng như các đơn vị thành viên. Tổ chức của Ban gồm có trưởng ban, phó ban, các tổ trưởng và các kiểm toán. ở các đơn vị thành viên của Tổng Công ty không tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ riêng mà chỉ có thể chỉ bổ nhiệm kiểm toán viên để giúp đơn vị thực hiện nhiệm vụ kiểm toán thường xuyên theo kế hoạch mà phòng kiểm toán nội bộ đã xây dựng. Kiểm toán viên ở các đơn vị thành viên do Giám đốc doanh nghiệp thành viên và Giám đốc Công ty, Tổng Công ty bổ nhiệm. Về biên chế, các kiểm toán viên nội bộ này thuộc các đơn vị thành viên, về nghiệp vụ họ chịu sự chỉ đạo kiểm tra của Phòng (Ban) kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty.
Mô hình này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp độc lập, các đơn vị thành viên không có tổ chức bộ máy kế toán riêng, hoặc có tổ chức bộ máy kế toán riêng, nhưng có tư cách pháp nhân không đầy đủ. Theo mô hình này thì có thể không bố trí kiểm toán viên ở các đơn vị thành viên mà tăng cường biên chế cho Phòng kiểm toán tại đơn vị chính. Mô hình này thích hợp với Tổng Công ty Dược, Tổng Công ty thiết bị y tế Việt Nam....
Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ theo hình thức tập trung.
Các đơn vị trực thuộc
Cán bộ quản lý cấp trung gian
Bộ phận KTNB
Hội đồng Quản trị
( HĐQT )
Tổng Công ty
( Giám đốc)
Quan hệ trực thuộc
Quan hệ kiểm tra
Luồng thông tin phản hồi
Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phân tán:
Theo mô hình này thì ở đơn vị chính (Tổng Công ty) có tổ chức Phòng kiểm toán nội bộ từ 3-5 người, chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các hoạt động kiểm toán nội bộ trong phạm vi toàn Tổng Công ty và trực tiếp kiểm toán báo cáo tài chính hợp nhất.
Tại các đơn vị thành viên của Tổng Công ty có tư cách pháp nhân độc lập, có quy mô tương đối lớn, có nhiều đơn vị thành viên và tổ chức hạch toán độc lập thì tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tương tự như tại Tổng Công ty, thực hiện kiểm toán tại các đơn vị này và các đơn vị trực thuộc không có tổ chức bộ máy kiểm toán riêng.
Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ theo hình thức phân tán
Tại Tổng Công ty.
Các đơn vị trực thuộc
Cán bộ quản lý cấp trung gian
Bộ phận KTNB
Hội đồng Quản trị
( HĐQT )
Tổng Công ty
( Giám đốc)
Quan hệ trực thuộc
Quan hệ kiểm tra
Luồng thông tin phản hồi
Tại các đơn vị thành viên.
Giám đốc
Phòng (tổ) kiểm toán
Các phòng (tổ) chức năng
Mô hình này thích hợp với các Tổng Công ty như Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà, Tổng Công ty vật liệu xây dựng, Tổng Công ty gốm sứ thuỷ tinh....
Hiện nay, tại Tổng công ty Xây dựng Sông Đà, thực hiện theo QĐ số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ tài chính về ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ Hội đồng quản trị Tổng công ty xây dựng Sông đà đã ra Quyết định số 04TCT/HĐQT ngày 06/01/1998 thành lập bộ máy kiểm toán nội bộ của Tổng công ty.
Năm 1999 Tổng công ty đã tiến hành xây dựng Quy chế kiểm toán nội bộ của riêng mình. Nội dung của Quy chế được soạn thảo căn cứ vào Quy chế kiểm toán nội bộ do Bộ tài chính đã ban hành trong quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT, có tính đến thực tế đa dạng nghành nghề sản xuất, kinh doanh của Tổng công ty trong đó quy định về chức năng, nhiệm vụ của phòng kiểm toán nội bộ.
Ngày 08/11/2003 Hội đồng quản trị của Tổng công ty Sông Đà ra QĐ số 21/TCT-TCĐT thành lập Công ty kiểm toán và dịch vụ tài chính kế toán, đơn vị phụ thuộc Tổng công ty (trên cơ sở sắp xếp và phát triển phòng kiểm toán nội bộ của Tổng công ty) kể từ ngày 01/12/2003.
Hoạt động của công ty kiểm toán và dịch vụ tài chính kế toán: thực hiện kiểm toán, tư vấn (thuế, tài chính, kế toán và quyết toán vốn đầu tư, cổ phần hoá, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán, kiểm toán nội bộ...) theo kế hoạch của Tổng công ty giao cho và yêu cầu của các đơn vị trong và ngoài Tổng công ty.
Kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, trung thực hợp lý của các số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị được kiểm toán; trên cơ sở kết quả kiểm toán đưa ra những kết luận đánh giá hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động điều hành sản xuất kinh doanh, việc tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, kế toán và hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Nhiệm vụ của công ty kiểm toán và dịch vụ tài chính kế toán:
Xây dựng kế hoạch kiểm toán, tư vấn thuế, tài chính, thực hiện quyết toán tài chính và quyết toán vốn đầu tư... Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán cụ thể đối với các đơn vị để thực hiện theo kỳ và đột xuất.
Thực hiện công tác kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán tại các đơn vị thành viên trực thuộc trên cơ sở hợp đồng kinh tế. Thực hiện công tác kiểm toán và tư vấn tài chính kế toán để phục vụ tốt hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên trực thuộc.
Phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Tổng công ty về kết quả, kết luận về công tác kiểm toán và tài chính kế toán. Thực hiện hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi bảo toàn và phát triển vốn được giao. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết công tác kiểm toán và dịch vụ tài chính kế toán trong phạm vi Tổng công ty.
Soạn thảo trình Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị ban hành các quyết định, chỉ thị, quy chế, quy định và các văn bản hướng dẫn để thực hiện công tác kiểm toán nội bộ Tổng công ty.
Kiểm tra tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Kiểm tra và xác nhận độ tin cây của thôg tin kinh tế, tài chính của Báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi trình ký duyệt.
Kiểm tra sự tuân thủ nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ, kế toán tài chính, chính sách nghị định của Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị.
Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, bảo vệ tài chính của các đơn vị thành viên và Tổng công ty.
Đề suất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai phạm (nếu có) và đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của các đơn vị thành viên và Tổng công ty.
Cơ cấu tổ chức Công ty kiểm toán và dịch vụ tài chính kế toán
Giám đốc
Kế toán trưởng
Các phó giám đốc
Phòng nghiệp vụ 1
Phòng nghiệp vụ 2
Phòng quản trị hành chính
Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ theo hình thức hỗn hợp.
Theo mô hình này thì bộ máy kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty được tổ chức như sau:
Tại Tổng Công ty tổ chức Phòng (Ban) kiểm toán nội bộ có số lượng nhân viên từ 5-7 người, phòng kiểm toán nội bộ tại Tổng Công ty có nhiệm vụ tổ chức và phối hợp hoạt động kiểm toán nội bộ tại các đơn vị thành viên và toàn Tổng Công ty.
Tại các đơn vị thành viên tuỳ thuộc vào đặc điểm về quy mô, nguồn vốn, cơ cấu tổ chức quản lý có hai loại:
Các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân độc lập và có quy mô hoạt động nhỏ, các hoạt động sản xuất kinh doanh đơn giản thì không cần tổ chức thành Phòng (ban) kiểm toán nội bộ mà chỉ cần kiểm toán viên nội bộ trực thuộc Giám đốc hoặc có thể là không cần có kiểm toán viên.
Các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân độc lập, có quy mô tương đối lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng và phức tạp thì phải tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ riêng.
Mô hình tổ chức này thích hợp với các Tổng Công ty có phương pháp hạch toán toàn ngành như các Tổng Công ty than, Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông, Liên hiệp đường sắt Việt Nam...
Ban kiểm soát nội bộ
Hiện nay, ngoài những tổng công ty lớn như Tổng công ty xây dựng Sông Đà, tổng công ty xây dựng Hà Nội là thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ còn những công ty xây dựng có quy mô nhỏ hơn thì phần lớn không có bộ phận này. Khi các công ty chuyển đổi thành các công ty cổ phần thì theo quy định của Luật Doanh nghiệp các công ty đều có bộ phận kiểm soát nội bộ. Ban kiểm soát nội bộ có chức năng nhiệm vụ gần giống với kiểm toán nội bộ. Bộ phận này thường có từ 3-5 người có trách nhiệm
- Thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý điều hành công ty chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao
- Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính.
- Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị.
- Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hằng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên.
- Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật này.
- Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật này, Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội đồng quản trị và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu.
Việc kiểm tra của Ban kiểm soát quy định tại khoản này không được cản trở hoạt động bình thường của Hội đồng quản trị, không gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
- Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
- Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả.
- Thực hiện các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này, Điều lệ công ty và quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
- Ban kiểm soát có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông.
Ban kiểm soát có quyền:
- Thông báo mời họp, phiếu lấy ý kiến thành viên Hội đồng quản trị và các tài liệu kèm theo phải được gửi đến thành viên Ban kiểm soát cùng thời điểm và theo phương thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị.
- Báo cáo của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trình Hội đồng quản trị hoặc tài liệu khác do công ty phát hành được gửi đến thành viên Ban kiểm soát cùng thời điểm và theo phương thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị.
- Thành viên Ban kiểm soát có quyền tiếp cận các hồ sơ, tài liệu của công ty lưu giữ tại trụ sở chính, chi nhánh và địa điểm khác; có quyền đến các địa điểm nơi người quản lý và nhân viên của công ty làm việc.
- Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người quản lý khác phải cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin, tài liệu về công tác quản lý, điều hành và hoạt động kinh doanh của công ty theo yêu cầu của Ban kiểm soát.
Nghĩa vụ của thành viên Ban kiểm soát:
- Tuân thủ đúng pháp luật, Điều lệ công ty, quyết định của Đại hội đồng cổ đông và đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
- Thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty và cổ đông của công ty.
- Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông công ty; không được sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, lạm dụng địa vị, chức vụ và tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
- Trường hợp vi phạm nghĩa vụ đã quy định mà gây thiệt hại cho công ty hoặc người khác thì các thành viên Ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới bồi thường thiệt hại đó.
Bên cạnh một số ít doanh nghiệp có quy mô cấp tổng công ty tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ theo một trong các mô hình nêu trên thì phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ thậm chí cả các tổng công ty ở Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xây dựng nói riêng đều chưa thực hiện công tác này. Đây là một thực trạng chung tại nước ta.
2.2 Sự cần thiết phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc dân
2.2.1 Xu hướng hội nhập nền kinh tế quốc dân
Nắm vững quy luật khách quan để vận động đó là nhân tố quyết định thành công của cá nhân, doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, hội nhập kinh tế trên bình diện khu vực và quốc tế, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên cơ sở quan hệ bình đẳng, hợp tác và cùng có lợi. Chính xu hướng này đã tạo ra nhiều cơ hội song cũng đặt ra không ít thách thức, khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam.
Xu hướng này tác động hầu hết tới các nước trên mọi lĩnh vực. Các quốc gia tham gia vào các khối kinh tế trong khu vực và quốc tế, cùng nhau ký kết các nghị định thư, các hiệp ước với mục đích cùng phát triển. Không chỉ dừng ở sự hợp tác mà tiến tới các khối kinh tế đều muốn có đồng tiền chung cho khối mình, sự ngăn trở hàng rào thuế quan giữa các nước sẽ không còn. Nằm trong khối ASEAN và APECT, tiến tới sẽ hội nhập APTA và WTO, Việt Nam đã có những lợi ích ban đầu và sẽ tiến tới sự lâu dài. Tuy nhiên, chính sự hội nhập đã đặt ra nhiều câu hỏi cho Chính phủ Việt Nam, cho các doanh nghiệp Việt Nam: Làm thế nào để hàng hoá Việt Nam chiếm được thị phần thế giới? Hoạt động như thế nào để không gây an nguy đến tình hình chính trị trong nước?
Trong khi Việt Nam có trình độ khoa học công nghệ thấp, gần 80% dân số làm nghề nông, vấn đề cơ cấu lại lao động trong các lĩnh vực và áp dụng khoa học công nghệ đang được đặt ra như một thách thức. Sự hợp tác hoá đang giúp Việt Nam rất nhiều về công nghệ - khoa học và kỹ thuật, xử lý thông tin nhanh qua các thiết bị kỹ thuật của nền văn minh khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho việc ra quyết định nhanh chóng của các nhà kinh doanh. Chính vì xu hướng này mà những nhà kinh doanh rất quan tâm đến việc thiết lập một hệ thống cung cấp, xử lý và kiểm soát thông tin tốt cho doanh nghiệp mình. Thông tin là yếu tố quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp trên thương trường trong thời đại ngày nay.
Không chỉ dừng ở sự hợp tác thông thường, một xu thế của thế giới đó là: phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp trong quá trình phát triển. Sở dĩ như vậy là do sự hợp tác càng chặt chẽ thì sự chuyên môn hoá càng sâu, đầu ra của doanh nghiệp này sẽ là đầu vào của doanh nghiệp kia và nếu như chất lượng đầu ra của doanh nghiệp đó không tốt sẽ ảnh hưởng tới một dây chuyền trong “công nghệ hợp tác”. Quốc gia này có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, quốc gia khác có nguồn lực nhân công phát triển, cùng hợp tác phát triển các nước sẽ tạo ra một khối liên kết chặt chẽ cả về kinh tế kỹ thuật và các nhân tố xã hội khác. Chính sự phụ thuộc chặt chẽ này sẽ đem lại một thể thống nhất, đời sống con người được cải thiện. Tuy có sự phụ thuộc nhưng giữa các quốc gia tính độc lập vẫn luôn được coi trọng, có thể coi đó là hai mặt của một vấn đề mà không thể tách rời nhau được.
Mặc dù có sự phụ thuộc lẫn nhau nhưng để phát triển thực sự các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau một cách gay gắt. Cạnh tranh trên bình diện chất lượng sản phẩm hàng hoá, yêu cầu về chất lượng dịch vụ và cuối cùng là giá thành. ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến cạnh tranh lành mạnh, sự cạnh tranh đem lại lợi thế để phát triển cho nền kinh tế. Với yêu cầu của thị trường sự cạnh tranh đòi hỏi yếu tố đầu vào, quy trình sản xuất và cung cấp sản phẩm đầu ra. Để thích ứng với môi trường cạnh tranh này những nhà kinh doanh phải có đầu óc thật sự, biết nhìn xa trông rộng, biết dùng người, sử dụng khoa học công nghệ phù hợp.... trong môi trường này, con người sẽ năng động hơn, sẽ kích thích nền kinh tế phát triển mạnh hơn.
Chính vì xu hướng cạnh tranh gay gắt sẽ khuyến khích các doanh nghiệp cần thiết có sự liên kết sát nhập để tăng thêm quy mô vốn đầu tư, giảm thiểu những rủi ro kinh doanh. Cạnh tranh sẽ làm cho các doanh nghiệp yếu kém phải giải thể, phá sản nhưng nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp biết kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn. Xu hướng sát nhập các công ty lớn thành những tập đoàn khổng lồ, vươn những chi nhánh trên toàn thế giới là xu hướng của nền kinh tế hiện đại.
Cạnh tranh luôn mang tính chất tiềm tàng, luôn có những mặt hàng thay thế và luôn có những tập đoàn khác sẽ được thành lập. Có được tập đoàn kinh doanh khổng lồ, Ban lãnh đạo sẽ gặp khó khăn nếu không có hệ thống kiểm soát thông tin tốt, và xu hướng mới này đòi hỏi phải xây dựng được hệ thống kiểm soát nội bộ thực sự hiệu quả để có thể đáp ứng được nhu cầu quản lý.
2.2.2 Những yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong xu hướng mới.
Như những phân tích ở trên, thế giới hiện đại với xu hướng mới bắt buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để thích ứng. Các doanh nghiệp phải đón bắt được những thay đổi trong tương lai để chuẩn bị, tạo tiền đề tốt nhằm chớp lấy thời cơ, đối phó với những thách thức mới.
Ngày nay, các doanh nghiệp ở trong một mặt bằng pháp lý như nhau, môi trường cạnh tranh khốc liệt, thị trường đòi hỏi: chất lượng hàng hoá cao, tốc độ phục vụ nhanh... Các doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược để có được vốn và kế hoạch phù hợp, khả năng làm việc của doanh nhân được nâng cao, sự thụ động, ỷ lại đã được kéo lùi trước thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Xu thế mới đòi hỏi những con người biết làm việc thực sự, có kiến thức và thực hành hiệu quả. Xu thế mới gắn liền với khoa học - công nghệ và luôn đặt các doanh nghiệp trước những thách thức mới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm tới hiệu quả của mình nếu không muốn tự mình bị loại ra khỏi cuộc cạnh tranh khắc nghiệt trên thị trường.
Nhận biết những thay đổi đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chuẩn bị như thế nào? Việc thành lập các Tổng Công ty 90, 91 để bước đầu tạo lập cơ sở cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế lớn về sau này, việc tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho việc kinh doanh là của Chính phủ. Trong doanh nghiệp vấn đề nhận thức các chức năng đã được khẳng định rõ ràng hơn. Việc đào tạo và sử dụng nhân viên đã được khẳng định vị trí quan trọng của nó, bởi vì con người sẽ luôn là chủ thể của mọi hoạt động. Việc đổi mới trong tỷ trọng tài sản cố định, vấn đề khấu hao là những vấn đề các doanh nghiệp nhằm tìm đến để có được chất lượng sản phẩm, dịch vụ tốt nhất và phù hợp với nhu cầu thị trường. Vấn đề thiết lập hệ thống thông tin nội bộ nhằm tăng cường chức năng kiểm soát đánh giá được các doanh nghiệp hết sức coi trọng. Những vấn đề này xuất phát từ nhu cầu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nhưng để nâng cao được khả năng hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp phải nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh và hiệu năng về quản lý hoạt động công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó hiệu năng liên quan đến việc hình thành các mục tiêu đề ra, còn hiệu quả đề cập đến chi phí để thực hiện các mục tiêu đó, hay nhằm tối thiểu hoá chi phí để có kết quả tối đa. Nỗ lực của mỗi doanh nghiệp đều nhằm đạt tới các mục tiêu do mình đề ra và các doanh nghiệp phải đi tìm cho mình một bộ phận trợ giúp nhằm đạt tới các mục tiêu trên. Các doanh nghiệp cần thiết lập cho mình một hệ thống kiểm soát tốt nhằm có thể truyền đạt và xử lý thông tin một cách nhanh nhất và chính xác nhất. Để đáp ứng nhu cầu trên thì bản thân doanh nghiệp phải làm gì?
Từ những phân tích về nhiệm vụ và chức năng của kiểm toán nội bộ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chúng ta có thể khẳng định rằng kiểm toán nội bộ là một nhân tố quan trọng để nâng cao khả năng đáp ứng kịp thời cho sự phát triển của doanh nghiệp trong giai đoạn phát triển, đồng thời việc thành lập kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp là rất cần thiết.
2.2.3 Các văn bản, chế định liên quan đến việc tổ chức hoạt động của kiểm toán nội bộ tại Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc thành lập kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ trương định hướng cho việc tổ chức kiểm toán nội bộ. Cùng với quy định về việc thành lập kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nước, kiểm toán nội bộ đã bước đầu hình thành và phát triển.
Sự hình thành và quá trình hoạt động phát triển của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam được khởi đầu bằng việc ra đời các văn bản pháp lý, hành lang khuôn khổ luật pháp do cơ quan quản lý nhà nước về kiểm toán nội bộ ban hành.
Đứng trước những nhu cầu biến đổi có tính chất cách mạng trong cơ chế quản lý kinh tế khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, năm 1989 Bộ Tài chính đã kết hợp với một số ban ngành hữu quan ban hành Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước và Điều lệ kế toán trưởng kèm theo Nghị định số 26 - HĐBT ngày 18/03/1989 của Hội đồng bộ trưởng.
Theo Nghị định số 07/CP Ngày 29/01/1994 của Chính phủ ban hành quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân.
Tiếp đó, ngày 03/10/1996 Nghị định 59/ CP về “ Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước” ra đời. Thi hành Nghị định 59/CP của Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản hướng dẫn trong đó có Thông tư 73 TC/TCDN ngày 12/11/1996 về “Hướng dẫn lập, công bố công khai và kiểm tra báo cáo tài chính, kiểm tra kế toán các doanh nghiệp Nhà nước”. Theo tinh thần của các văn bản trên, Bộ Tài chính ra các quyết định liên quan tới kiểm toán nội bộ bao gồm:
Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT về quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Thông tư số 52/1998-TT-BTC ngày 16/04/1998 hướng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Nhà nước.
Thông tư số 171-TT-BTC ngày 22/12/1998 hướng dẫn kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Nhà nước.
Công văn số 287-TC-TCDN ngày 03/08/1998 về việc bổ nhiệm kiểm toán viên nội bộ.
Các văn bản trên tuy là đã có từ lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào cao hơn thay thế. Có thể nói rằng việc ra đời của các văn bản trên là cơ sở đầu tiên cho việc thiết lập và tổ chức hoạt động của kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước, cụ thể ta thấy:
Về bộ máy kiểm toán nội bộ:
Tại chương 4 - Quyết định 832 khoản 1 Điều 16 - Bộ máy kiểm toán nội bộ quy định “Các doanh nghiệp phải tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ để thực hiện công tác kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp. Bộ máy kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp được tổ chức thành phòng, ban hoặc nhóm, tổ công tác trực thuộc (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp”.
Cụ thể hoá vấn đề này, trong mục 1 - A Quy định chung trong Thông tư 52 có nêu: “Tất cả các doanh nghiệp Nhà nước bao gồm: Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động công ích, các Tổng Công ty, xí nghiệp, doanh nghiệp hạch toán độc lập khác nhau đều phải tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ đủ năng lực để thực hiện công tác kiểm toán nội bộ theo quy định tại Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính”.
Như chúng ta đã biết, kiểm toán nội bộ ra đời là một nhu cầu tất yếu, tự thân và vai trò của nó trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp là rất quan trọng. Mặt khác, kiểm toán nội bộ ra đời là do nhu cầu tự thân của doanh nghiệp. Việc thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ phụ thuộc vào một số tiêu chuẩn nhất định trong đó có quy mô của doanh nghiệp; sự phân cấp quản lý, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhân viên; đặc thù về hoạt động sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp là những nhân tố chủ yếu. Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng kiểm toán nội bộ là cần thiết đối với các doanh nghiệp lớn, có nhiều đơn vị hạch toán độc lập (đặc biệt là các tổng Công ty). Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp nhỏ, vấn đề tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ có thực sự đem lại hiệu quả trong công tác quản lý hay không là một vấn đề cần được xem xét và cân nhắc. Như đối với các doanh nghiệp có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh không thường xuyên, số lượng cán bộ làm công tác tài chính, kế toán ít, các công việc chính về kế toán hoạt động trong phòng tài vụ đều liên quan tới việc quyết toán tài chính nội bộ, việc thành lập một bộ phận kiểm toán chuyên trách sẽ có thể là không cần thiết vì ở đay ban lãnh đạo doanh nghiệp có thể yên tâm với tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các công cụ quản lý đang tồn tại trong đơn vị.
Mặt khác, trong Điều 36, chương V của NĐ 59/CP ngày 03/10/1996 đã quy định “Doanh nghiệp có thể tự tổ chức kiểm toán nội bộ báo cáo tài chính của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết”. Bản thân nội dung của Nghị định 59 đã tạo cho doanh nghiệp Nhà nước cơ hội lựa chọn có nên tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp hay không? Nếu quy định tất cả các doanh nghiệp Nhà nước đều phải tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ thì hiệu quả mang lại cho các doanh nghiệp đó có thực sự là cao nhất và thiết thực hay không so với việc thuê kiểm toán bên ngoài?
Để giải quyết những bất cập đặt ra, Thông tư 71/1998/TT-BTC ra đời nhằm sửa đổi bất cập trên. ở mục 3 - Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ - A các quy định về kiểm toán nội bộ có ghi “Việc tổ chức kiểm toán nội bộ là không bắt buộc đối với các doanh nghiệp”.
Như vậy thông tư này đã tạo cho doanh nghiệp Nhà nước một cơ hội để vận dụng tính linh hoạt của mình trong tổ chức bộ máy, theo đó các doanh nghiệp có thể tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của mình để xem xét có nên thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ hay không, nhờ đó có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Khoản 2 - Điều 16 - NĐ 832 chỉ rõ: “Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ chức độc lập với cán bộ quản lý, điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp (kể cả phòng kế toán - tài chính) và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp”.
Mô hình Hội đồng quản trị của các Tổng Công ty thành lập theo Nghị định 90/CP và 91/CP ở nước ta có khác so với các nước trên thế giới. Đó là trong mỗi Tổng Công ty nhà nước còn có sự tồn tại của Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị với nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các hoạt động của Tổng Công ty theo Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty và những quy chế mà Hội đồng quản trị ban hành. Ngoài các thành viên chuyên trách, Hội đồng quản trị còn có một số thành viên kiêm nhiệm. Trong Ban kiểm soát, ngoài trưởng Ban kiểm soát, phần lớn các uỷ viên là các thành viên kiêm nhiệm, có thành viên không thuộc Tổng Công ty. Với bộ máy như vậy, Ban kiểm soát khó lòng mà thực hiện được tốt chức năng của mình. Do vậy, sự ra đời của kiểm toán nội bộ, trước hết là giúp cho Tổng Công ty điều hành và quản lý mọi hoạt động. Hiện thời có một số quan điểm cho rằng nên chăng tổ chức kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị mà trực tiếp là chịu sự chỉ đạo của Ban kiểm soát, tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” nhưng lại gặp một vấn đề đó là với một Hội đồng quản trị gồm nhiều thành viên kiêm nhiệm như thế thì liệu sự độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ có tính hiện thực hay không?
Cơ cấu bộ máy kiểm toán nội bộ.
“Bộ máy kiểm toán nội bộ gồm trưởng phòng kiểm toán nội bộ, phó trưởng phòng kiểm toán nội bộ (nếu có) và kiểm toán viên nội bộ. Số lượng các đơn vị thành viên, tính chất phức tạp của công việc, yêu cầu quản lý kinh doanh và trình độ, năng lực nghề nghiệp kiểm toán viên quyết định số lượng kiểm toán viên nội bộ...” (Khoản 1 Điều 16 - Chương 4 - QĐ 832).
Vấn đề này được cụ thể hoá trong Thông tư số 52 như sau:
Đối với Tổng Công ty: “Phòng kiểm toán nội bộ của Tổng Công ty phải được tổ chức độc lập với các phòng (ban) chức năng khác của Tổng Công ty và chịu sự chỉ đạo,lãnh đạo trực tiếp của Tổng giám đốc, biên chế của phòng từ 3-5 người” - (Điểm 1 mục I).
Đối với các doanh nghiệp là thành viên của Tổng Công ty: “ Tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh, khối lượng công việc cần kiểm toán tại các đơn vị có thể tổ chức thành tổ kiểm toán nội bộ hoặc nhóm kiểm toán nội bộ với biên chế từ 2-3 người” (Điểm 2 mục I).
“Đối với các doanh nghiệp độc lập (không phải là thành viên của Tổng Công ty) phải tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ theo hình thức tổ (nhóm) kiểm toán nội bộ trực thuộc Giám đốc như các thành viên của Tổng Công ty quy định tại điểm 2 mục I nói trên” (Mục II).
Tại mỗi doanh nghiệp khác nhau sự đòi hỏi về quy mô của kiểm toán nội bộ là rất khác nhau, không nên quy định cứng nhắc về vấn đề này.
Để giải quyết bất cập trên, tại điểm 3 mục I trong Thông tư 171 quy định “Tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể và trình độ năng lực của đội ngũ kế toán doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Đây là sự sửa đổi kịp thời, thể hiện sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước trong công tác tổ chức thực hiện kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Nhà nước.
Các quy định về kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ với tư cách là chủ thể tiến hành kiểm toán, là nhân tố chính quyết định chất lượng hoạt động của bộ máy kiểm toán. Do vậy, kiểm toán viên phải tiến hành công việc nghiệp vụ theo những chuẩn mực chuyên ngành phù hợp với công việc tiến hành.
Tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ.
Theo quy định của Nhà nước Việt Nam tại Điều 12 QĐ 832 TC-CĐKT:
Người được bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ làm kiểm toán viên nội bộ phải có những điều kiện sau:
Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tổ chức, kế toán;
Đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh;
Đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó ít nhất 3 năm kinh nghiệm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ làm kiểm toán viên.
Đã qua huấn luyện nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo chương trình thống nhất của Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ”.
Riêng đối với tiêu chuẩn của trưởng phòng kiểm toán nội bộ trong Tổng Công ty quy định tại điểm 1 mục I trong Thông tư 52 như sau:
- Có đủ tiêu chuẩn là kiểm toán viên nội bộ quy định tại Điều 12 quy chế kiểm toán viên ban hành theo QĐ 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Có khả năng tổ chức, điều hành hoạt động kiểm toán nội bộ của Công ty.”
Điều đó có nghĩa là kiểm toán nội bộ phải thực sự là người có kỹ năng, đạt trình độ chuẩn mực về chuyên môn, nghiệp vụ và được tổ chức có thẩm quyền cấp chứng chỉ kiểm toán viên, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng. Các điều kiện này nhằm đảm bảo cuộc kiểm toán được thực hiện bởi những người có chuyên môn cao. Quy định này hoàn toàn đúng về mặt lý thuyết nhưng tính khả thi lại chưa cao bởi lẽ những nhân viên kế toán đạt được các yêu cầu trên tại các doanh nghiệp là rất ít.
Tuy nhiên, những bất cập này đã sớm được khắc phục trong Thông tư 171. Tại điểm 4 mục I có nêu: “Bổ sung thêm tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và thời gian công tác của kế toán viên nội bộ quy định tại Điều 12 Quy chế kiểm toán viên nội bộ ban hành kèm theo QĐ 832/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ Tài chính như sau:
“Trường hợp kiểm toán viên nội bộ chưa có bằng đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh, đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính kế toán ít nhất 5 năm, đã làm tại doanh nghiệp ít nhất 3 năm trở lên nhưng không thấp hơn trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kiểm toán viên tại doanh nghiệp đó”.
Tóm lại, thông qua Quyết định số 832/QĐ/CĐKT và Thông tư số 171 thay thế cho Thông tư số 52, hành lang pháp lý cho sự ra đời, hoạt động của kiểm toán nội bộ bước đầu đã được hình thành và là cơ sở để các doanh nghiệp tổ chức và vận hành. Mặc dù còn nhiều bất cập, còn có sự chồng chéo giữa các văn bản luật và xa rời thực tế nhưng nó cũng đánh dấu một bước tiến trong công tác quản lý kinh tế tài chính nước ta.
Với việc ban hành các quy định trên Nhà nước đã đưa ra được những quy định cơ bản về tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp. Các quy định trên trong quá trình thực tế tổ chức và hoạt động sẽ có thể gặp những bất cập và khó khăn cần được tiếp tục hoàn thiện, trên cơ sở đó đưa ra được đạo luật về kiểm toán nội bộ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Với những luận cứ đã trình bày ở trên là cơ sở khoa học cho việc xem xét việc hình thành và tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm của mỗi một đơn vị kinh tế, theo nhu cầu bản thân, bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ được xây dựng có những đặc tính riêng phù hợp với đặc điểm kinh doanh và cơ cấu tổ chức của đơn vị.
2.3 Nhận xét về thực trạng thực hiện công tác kiểm toán nội bộ hiện nay
Mặc dù đã có những kết quả bước đầu trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ trên phạm vi cả nước nhưng hoạt động này vẫn chưa phát huy đầy đủ tác dung và chưa thực sự thâm nhập vào “đời sống” của các doanh nghiệp. Cùng với sự bất cập về nội dung, việc tổ chức kiểm toán nội bộ cũng có nhiều vướng mắc lúng túng. Nguyên nhân chủ yếu do:
ở các doanh nghiệp đã thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ do không đi đúng hướng nội dung lại thực hiện quy trình kiểm toán không đầy đủ nên công việc trùng lặp với kiểm tra kế toán, làm giảm đáng kể vai trò của kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, với các quy định hiện hành, việc bố trí nhân lực cho đội ngũ kiểm toán viên nội bộ vừa khó lại gây xáo trộn cho công tác kế toán của doanh nghiệp.
Tại những doanh nghiệp chưa thực hiện kiểm toán nội bộ thì có hai thái cực: Một số doanh nghiệp phân vân với câu hỏi: Có thực sự cần kiểm toán nội bộ hay không? Khi nào nên thành lập kiểm toán nội bộ và bộ phận đó sẽ hoạt động như thế nào? Hiệu quả ra sao?... Một số doanh nghiệp khác hoàn toàn không có ý niệm gì về kiểm toán nội bộ. Trong số đó, các doanh nghiệp ngành xây dựng nói chung đều chưa hề tổ chức công tác này. Ngành xây dựng mới chỉ có một vài Tổng công ty như Tổng công ty xây dựng Sông Đà, Tổng công ty xây dựng Hà Nội ... đã thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Hoạt động kiểm toán nội bộ ở nước ta bắt đầu triển khai có vẻ rầm rộ, nhưng nhanh chóng dừng lại và thời điểm này đã có chiều hướng rơi dần vào im lặng. Thực trạng đáng buồn này có hai nguyên nhân:
Một là: Sự không đồng bộ của các văn bản pháp lý. Rõ ràng với một hoạt động độc lập một công cụ quản lý quan trọng thì thiết chế về kiểm toán nội bộ hiện tại là quá nghèo nàn. Cho đến nay, Bộ tài chính mới chỉ cố gắng xây dựng được một số chuẩn mực kiểm toán độc lập. Lĩnh vực kiểm toán nội bộ hoàn toàn chưa có quy định cụ thể về nội dung, quy trình và phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ... điều này tạo nên hạn chế đáng kể cho hoạt động kiểm toán nội bộ. Mặt khác sự thành lập kiểm toán nội bộ tại nhiều doanh nghiệp có nguồn gốc do quy định, quá cứng nhắc chứ không xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi từ chính bản thân doanh nghiệp (QĐ 832/TC/QĐ/CĐKT và thông tư 52/1998-TT-BTC) lúc lại có xu hướng quá “mềm” (thông tư 171/1998-TT-BTC) khiến cho các doanh nghiệp thực sự lúng túng. Thực trạng này tạo ra sự lệch lạc, méo mó trong nhận thức của nhiều đối tượng về bản chất và vai trò của kiểm toán nội bộ.
Hai là: Nhận thức của các nhà quản trị doanh nghiệp. Một khó khăn nổi bật trong quá trình tổ chức thực hiện kiểm toán nội bộ tại nhiều doanh nghiệp nước ta thời gian qua là sự nhận thức không đầy đủ của các nhà quản lý đối với hoạt động kiểm toán. Có tình trạng này một phần do sự hiểu biết về kiểm toán nội bộ còn ít ỏi bởi tính mới mẻ của nó. Tuy nhiên một nguyên nhân chủ yếu nữa là tiến trình đổi mới ở các doanh nghiệp Việt Nam – trong đó có phần quan trọng là sự đổi mới về cách nghĩ, về phương thức và phong cách quản lý của các nhà quản trị doanh nghiệp là quá chậm. Tất cả những điều đó khiến họ không đánh giá đầy đủ được tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ càng không thể khai thác hết lợi ích của công cụ quản lý hữu ích này. Thậm chí có nơi còn cho rằng kiểm toán nội bộ là một bộ máy thừa trong khi xu hướng hiện đại là tính giảm biên chế. Có không ít người nghĩ rằng bộ phận kiểm toán nội bộ là bộ phận “nhòm ngó” mọi hoạt động của bộ phận khác... Tất cả những nhận thức này làm cho các nhà quản lý thấy không thực sự cần thiết phải có kiểm toán nội bộ để soi xét hoạt động của chính mình và doanh nghiệp mình.
Ngay cả tại các đơn vị đã tổ chức kiểm toán nội bộ có tình trạng các bộ phận trong doanh nghiệp không có con mắt nhìn thiện cảm, không có tinh thần hợp tác khiến hiệu quả hoạt động của kiểm toán nội bộ không cao. Thực tế đó càng làm giảm vai trò, tác dụng của kiểm toán nội bộ vốn đã bị đánh giá không đúng đắn và kết quả công tác kiểm toán nội bộ như hiện nay ở phần đông các doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu.
Như vậy, từ thực tế khảo sát tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xây dựng nói riêng hiện nay cho ta cái nhìn thực tế về những điều kiện và những điểm hay cần học hỏi và vận dụng trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại một Tổng Công ty nào đó, đồng thời góp phần làm phong phú thêm lý luận về tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Tóm lại: Qua các luận cứ trên và những nghiên cứu thực tế ta có thể khẳng định một số điểm cơ bản sau:
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang dịch chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, chỉ đạo, điều tiết của Nhà nước theo xu hướng hội nhập, hợp tác và phát triển thì việc thành lập các tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tổ chức kinh tế và xã hội là tất yếu khách quan và cần thiết.
Kiểm toán nội bộ là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo trong việc kiểm soát đánh giá, phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá và điều chỉnh chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả cao nhất. Kiểm toán nội bộ cũng là công cụ để phân tích, đánh giá chất lượng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, đồng thời kiểm toán nội bộ cung cấp các căn cứ để lãnh đạo doanh nghiệp điều hành sản xuất và chiếm lĩnh thị trường kinh doanh.
Các nhân tố đảm bảo cho hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả đó là:
+ Kiểm toán nội bộ phải có một cơ sở pháp lý để ra đời và hoạt động.
+ Có mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp với quy mô và đặc điểm tổ chức hoạt động và quản lý của doanh nghiệp đồng thời đảm bảo những nguyên tắc cơ bản về kiểm tra kiểm soát trong doanh nghiệp.
+ Trong quá trình thực hiện kiểm toán cần có được những quy trình nội dung, phương pháp kiểm toán phù hợp với đặc điểm tổ chức hoạt động của mỗi đơn vị.
Trong quá trình tổ chức và hoạt động của mình thì bộ phận kiểm toán nội bộ cần có được sự giúp đỡ và ủng hộ của các nhà quản lý lãnh đạo cũng như các bộ phận khác trong cơ cấu của đơn vị.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6luan vanII.doc