Thực trạng hứng thú học tập môn Giáo dục công dân của học sinh Trung học Cơ sở Hà Nội

Tài liệu Thực trạng hứng thú học tập môn Giáo dục công dân của học sinh Trung học Cơ sở Hà Nội: 126 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI THỰC TRẠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ HÀ NỘI Nguyễn Thị Toan, Quách Thu Hà 1 , Đoàn Thị Lan Hương 2 Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Môn Giáo dục công dân không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về thế giới quan, các giá trị và chuẩn mực đạo đức, các quy định cơ bản của pháp luật mà còn giáo dục các em trở thành người công dân tử tế, giúp ích cho xã hội. Đề tài đã cung cấp cơ sở thực tiễn về thực trạng hứng thú của học tập môn Giáo dục công dân của học sinh tại số trường Trung học Cơ sở trên địa bàn Hà Nội nói riêng cũng như hứng thú học tập môn Giáo dục công dân của học sinh Trung học Cơ sở nói chung. Từ đó, nhóm tác giả đề ra một số biện phương hướng và giải pháp để nâng cao hứng thú học tập của học sinh Trung học Cơ sở đối với môn học này. Từ khóa: Hứng thú, hứng thú học tập, môn Giáo dục công dân, cấp Trung học Cơ sở. Nhận bài ngày 20.3.2019; gửi phản biện, ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 949 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng hứng thú học tập môn Giáo dục công dân của học sinh Trung học Cơ sở Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
126 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI THỰC TRẠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ HÀ NỘI Nguyễn Thị Toan, Quách Thu Hà 1 , Đoàn Thị Lan Hương 2 Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Môn Giáo dục công dân không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về thế giới quan, các giá trị và chuẩn mực đạo đức, các quy định cơ bản của pháp luật mà còn giáo dục các em trở thành người công dân tử tế, giúp ích cho xã hội. Đề tài đã cung cấp cơ sở thực tiễn về thực trạng hứng thú của học tập môn Giáo dục công dân của học sinh tại số trường Trung học Cơ sở trên địa bàn Hà Nội nói riêng cũng như hứng thú học tập môn Giáo dục công dân của học sinh Trung học Cơ sở nói chung. Từ đó, nhóm tác giả đề ra một số biện phương hướng và giải pháp để nâng cao hứng thú học tập của học sinh Trung học Cơ sở đối với môn học này. Từ khóa: Hứng thú, hứng thú học tập, môn Giáo dục công dân, cấp Trung học Cơ sở. Nhận bài ngày 20.3.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 15.4.2019. Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Toan; Email: nttoan@hnmu.edu.vn 1. MỞ ĐẦU Hứng thú học tập là thái độ lựa chọn đặc biệt của người học đối với đối tượng hoạt động học tập vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân. Hứng thú học tập nhằm khơi gợi động cơ học tập đúng đắn, thúc đẩy học sinh (HS) tìm tòi, khám phá những kiến thức mới mẻ và áp dụng nó vào thực tế cuộc sống. Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp HS hình thành, phát triển ý thức và hành vi của người công dân. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy, giáo viên (GV) chưa chú trọng đổi mới phương pháp dạy học; nội dung học tập còn khô khan, khó hiểu. Mặt khác, phần lớn HS chưa nhận thức được vai trò của môn học này, từ đó dẫn đến tình trạng học đối phó, thụ động và chưa có hứng thú học tập. Thực trạng này 1, 2 Sinh viên lớp GDCD 2017 - Khoa Giáo dục Chính trị TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 30/2019 127 đã gợi ý cho nhóm tác giả nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập của HS đối với môn GDCD. Nghiên cứu về hứng thú nói chung và hứng thú học tập nói riêng đã và đang ngày càng phổ biến, phát triển ở trong và ngoài nước. Trong đó không thể không kể đến những công trình nổi tiếng thể giới như: “Phát triển hứng thú ở trẻ em” của Ch.Buhler, “Tác dụng của việc giảng dạy, nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của sinh viên” của A.K.Maracôva, “Vấn đề hứng thú nhận thức trong khoa học giáo dục” của G.I.Sukina... Ở Việt Nam, có một số công trình như: “Bước đầu tìm hiểu thực trạng hứng thú đối với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên tại trường của sinh viên khoa tâm lí giáo dục” của Nguyễn Khắc Mai, “Nâng cao hứng thú học toán qua việc điều khiển hoạt động tự học ở nhà của học sinh” của Trần Thị Thanh Hương; “Hứng thú học tập các môn lí luận chính trị của sinh viên hệ chính quy trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Văn Bích... Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú học tập, tuy nhiên việc nghiên cứu về hứng thú học tập môn GDCD nói chung, hứng thú học tập môn GDCD cấp THCS ở Hà Nội hiện nay vẫn một khoảng trống. Đó là lí do mà nhóm tác giả đã thực hiện đề tài “Thực trạng hứng thú học tập môn GDCD của học sinh cấp THCS ở Hà Nội”. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của hứng thú học tập môn GDCD cấp THCS 2.1.1. Vị trí, vai trò môn GDCD cấp THCS Giáo dục công dân (môn Đạo đức ở cấp Tiểu học, môn GDCD ở cấp Trung học cơ sở, môn Giáo dục kinh tế và pháp luật ở cấp Trung học phổ thông) giữ vai trò chủ đạo trong việc giúp HS hình thành, phát triển ý thức và hành vi của người công dân. Thông qua các bài học về lối sống, đạo đức, pháp luật, kinh tế, môn GDCD góp phần bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi của người công dân, đặc biệt là tình cảm, niềm tin, nhận thức, cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật, có kĩ năng sống và bản lĩnh để học tập, làm việc và sẵn sàng thực hiện trách nhiệm công dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Nội dung chủ yếu của môn học xoay quanh 4 trụ cột giáo dục là: giáo dục đạo đức, pháp luật, kĩ năng sống và kinh tế. Những nội dung này định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, quê hương, cộng đồng, nhằm hình thành cho HS thói quen, nền nếp cần thiết trong học tập, sinh hoạt và ý thức tự điều chỉnh bản thân theo các chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật. 128 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Môn Giáo dục công dân cấp THCS trang bị cho HS có hiểu biết về những chuẩn mực đạo đức, pháp luật cơ bản và giá trị, ý nghĩa của các chuẩn mực đó; tự hào về truyền thống gia đình, quê hương, dân tộc; tôn trọng, khoan dung, quan tâm, giúp đỡ người khác; tự giác, tích cực học tập và lao động; có thái độ đúng đắn, rõ ràng trước các hiện tượng, sự kiện trong đời sống; có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội, công việc và môi trường sống 2.1.2. Khái quát đặc điểm tâm sinh lí của học sinh cấp THCS Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11-15 tuổi, các em được vào học ở trường trung học cơ sở (từ lớp 6-9). Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”... Đây là thời kì quá độ từ trẻ con sang người lớn và giai đoạn này tạo nên sự phát triển đặc thù về mọi mặt: thể chất, trí lực, đạo đức... Về sinh lí: Trong độ tuổi này, cơ thể các em đang có sự biến đổi mạnh mẽ về chiều cao, hệ xương, hệ tuần hoàn... điều đó tác động không nhỏ tới tâm lí lứa tuổi thiếu niên. Với chiều cao trung bình phát triển 4-5 cm, các em nam lớn nhanh vào khoảng 13-15 tuổi, còn đối với học sinh nữ quá trình này diễn ra sớm hơn vào khoảng 11-13 tuổi. Bên cạnh đó, trọng lượng mỗi năm tăng từ 2 đến 5 kg; hệ xương phát triển mạnh nhưng lại không đồng đều; tuyến sinh dục phát triển, sự tăng tiết các hormon giới tính lớn dần; hoạt động thần kinh cấp cao có những đặc điểm riêng, điều đó đã dẫn đến những biến đổi về tâm lí của các em. Về tâm lí: Ở độ tuổi này các em nhận được nhiều sự kì vọng từ cha mẹ, thầy cô và xã hội, đó là những mong muốn quá mức về thành tích học tập hay sự so sánh giữa những những đứa trẻ cùng trang lứa tình trạng này đã dẫn đến sự tự tin, mặc cảm, stress của các em. Hơn thế nữa, hệ tim mạch không cân đối dẫn đến biến đổi tâm lí bất thường, học sinh có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, dễ xúc động và bực tức Điều này đã dẫn đến những biểu hiện đặc trưng của khủng hoảng độ tuổi như: bướng bỉnh, lầm lì, bất cần... Hơn thế, các em dễ bị tác động từ sách báo, phim ảnh bạo lực, các văn hóa phẩm đồi trụy Về trí tuệ: Các em bước đầu có khả năng tư duy trừu tượng một cách độc lập. Không những vậy, HS có khả năng tiếp thu kiến thức nhanh, dễ dàng; năng lực phân tích và tổng hợp tri thức; phát triển hơn về trí nhớ, sự tập trung, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo. Mặt khác, các em nhận thức được cái tôi của mình trong hiện tại, khao khát được khám phá, lĩnh hội tri thức mới mẻ... Vì vậy, sự phát triển được định hướng đúng từ GV và phụ huynh thì HS sẽ phát triển và trở thành một cá nhân thành đạt, một công dân tốt, có ích. Và ngược lại, nếu định hướng TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 30/2019 129 sai lệch, bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực thì nhận thức, thái độ, hành động và nhân cách của HS sẽ phát triển một cách lệch lạc. 2.1.3. Về hứng thú, hứng thú học tập, hứng thú học tập GDCD Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Hứng thú thể hiện ở sự tập trung cao độ, sự say mê, nhiệt huyết của chủ thể. Hứng thú làm nảy sinh động cơ, khát vọng hành động từ đó làm tăng hiệu quả của hành động, tăng năng suất, hiệu quả công việc. Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đới với hoạt động học tập của mình, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của não bộ trong quá trình nhận thức và trong đời sống cá nhân. Hứng thú có vai trò quan trọng trong quá trình nghiên cứu học tập của HS, nó thúc đẩy các em khám phá, tìm tòi những kiến thức mới và áp dụng chúng vào thực tế đời sống. Ngược lại, không có hứng thú thì kết quả học tập của các em khó đạt được kết quả cao. Hứng thú học tập môn GDCD của HS là sự yêu thích, say mê tìm kiếm, khám phá, đặt những câu hỏi liên quan đến vấn đề thực tiễn, tham gia tích cực hoạt động trải nghiệm. Thông qua 4 nội dung giáo dục cơ bản của chương trình GDCD cấp THCS (giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, giáo dục kinh tế và giáo dục kĩ năng sống), HS tự giác ý thức về mục đích của môn học, huy động cao độ các chức năng tâm lí để giải quyết các nhiệm vụ học tập. 2.2. Hứng thú học tập môn GDCD của học sinh cấp THCS ở Hà Nội - thực trạng và nguyên nhân 2.2.1. Thực trạng hứng thú học tập môn GDCD của học sinh cấp THCS ở Hà Nội Nhóm tác giả đã thực hiện khảo sát 5 trường THCS nội thành Hà Nội, bao gồm: trường THCS Yên Hòa, trường THCS Minh Khai, trường THCS Trưng Vương, trường THCS Nguyễn Tri Phương và đặc biệt, nhóm tác giả đã có kì thực tập tại trường THCS Ngô Gia Tự, đó là một trong những thuận lợi của nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài. Đề tài đã khảo sát 110 HS trên tổng số 5 trường ở 4 khối lớp, trong đó có 67 HS nữ, 43 HS nam. Để có hứng thú học tập môn GDCD, HS cần nhận thức được tầm quan trọng của môn học. Qua khảo sát, nhóm tác giả nhận thấy, bên cạnh một số ý kiến cho rằng GDCD có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống vẫn còn một số HS chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của môn học này. Kết quả điều tra được biểu hiện qua bảng sau: 130 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Bảng 1: Ý kiến đánh giá của HS về tầm quan trọng của môn GDCD Tiêu chí đánh giá Số lượng Tỉ lệ % Rất quan trọng 26 23,6% Quan trọng 29 26,4% Bình thường 33 30% Không quan trọng, không cần phải học 22 20% Tổng 110 100% Có 23,6% HS cho rằng GDCD là môn học rất quan trọng, 26,4% HS khẳng định đây là môn học quan trọng. Tuy nhiên, HS cho rằng môn học GDCD có tầm quan trọng bình thường chiếm tỉ lệ 30% và có đến 20% HS cho rằng môn học này không quan trọng, không cần phải học. Có nhiều lí do khác nhau để lí giải, nhưng chủ yếu là do HS quan niệm môn GDCD là môn “phụ”, HS thường học chỉ để có đủ điểm. Việc chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của môn học đã dẫn đến tình trạng học bị động và học đối phó của HS. Một trong những yếu tố tác động đến hứng thú học tập của người học không thể không kể đến việc sử dụng linh hoạt phương tiện dạy học tích cực. Vậy người GV đã sử dụng phương tiện dạy học với mức độ như thế nào? Nhóm tác giả đã khảo sát và thu thập ý kiến đánh giá của HS, cụ thể ở bảng sau: Bảng 2: Ý kiến đánh giá của HS về mức độ sử dụng các phương tiện dạy học trong giờ GDCD Mức độ SD Phương tiện Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ SL % SL % SL % Tivi, video 26 23,7% 47 42,7% 37 33,6% Máy chiếu 30 27,3% 44 40% 36 32,7% Máy vi tính 29 26,3% 40 36,4% 41 37,3% Internet 30 27,3% 40 36,4% 40 36,4% Tranh ảnh 41 37,3% 37 33,6% 32 29,1% Mức độ thường xuyên sử dụng tranh ảnh là cao nhất với tỷ lệ là 37,3%. Tivi và video được sử dụng ở mức độ thỉnh thoảng với phần trăm cao nhất so với phương tiện khác là 42,7%. Tưởng chừng đây là công cụ “đắc lực” của giáo viên dạy GDCD nhưng trên thực tế nó lại không được giáo viên trường THCS thực sự tin dùng. Trong phiếu khảo sát, máy vi tính đứng thứ nhất với tỉ lệ 37,3% và cao hai là Internet với 36,4% với mức độ không bao giờ sử dụng. Qua đó ta nhận thấy, đối với phương tiện dạy học hiện đại, người giáo viên chưa thự sự khai thác tối đa các lợi thế của nó, làm cho TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 30/2019 131 tiết dạy và học môn GDCD trở nên khô khan, không phát huy được tính tích cực và chủ động mà mục tiêu giáo dục đề ra. Bảng 3: Ý kiến đánh giá của HS về mức độ hấp dẫn của môn GDCD Tiêu chí đánh giá Số lượng Tỉ lệ % Hay, hấp dẫn 29 26,4% Bình thường 46 41,8% Khô khan, thiếu sức thuyết phục 35 31,8% Tổng 110 100% Tỉ lệ HS đánh giá hứng thú môn học ở mức độ bình thường là cao nhất với 41,8%. Đứng thứ hai là đánh giá khô khan, thiếu sức thuyết phục với tỉ lệ không nhỏ 31,8%. Cuối cùng chỉ có 26,4% cho rằng môn học này hay, hấp dẫn. Để có thể đánh giá khách quan hơn, hứng thú môn GDCD cần được đặt lên bàn cân so với hứng thú học những môn học khác, từ đó sẽ tìm ra nguyên nhân gây nên mất hứng thú học tập môn học này và các giải pháp nâng cao hứng thú học tập môn GDCD. Bảng 4: Ý kiến đánh giá của HS về môn GDCD so với các môn học khác Mức độ Môn học Rất thích Thích Bình thường Không thích Chán học SL % SL % SL % SL % SL % Toán 29 26,4% 29 26,4% 30 27,3% 17 15,5% 5 4,5% Tin học 23 21% 20 18,2% 39 35,4% 14 12,7% 14 12,7% Vật lí 16 14,5% 23 21% 39 35,4% 23 21% 9 8,2% Sinh học 15 13,6% 15 13,6% 48 43,6% 19 17,3% 13 11,9% Ngữ văn 23 21% 25 22,7% 32 29,1% 18 16,4% 12 10,9% Lịch sử 15 13,6% 27 24,5% 32 29,1% 20 18,2% 16 14,5% Địa lí 13 11,9% 20 18,2% 40 36,4% 22 20% 15 13,6% GDCD 14 12,7% 17 15,5% 37 33,6% 21 19,1% 21 19,1% Ngoại ngữ 17 15,5% 30 27,3% 35 31,8% 16 14,5% 12 10,9% Công nghệ 17 15,5% 25 22,7% 34 30,9% 19 17,3% 15 13,6% Âm nhạc 17 15,5% 21 19,1% 37 33,6% 21 19,1% 14 12,7% Mĩ thuật 17 15,5% 24 21,8% 36 32,7% 20 18,2% 13 11,9% Thể dục 28 25,4% 21 19,1% 30 27,3% 17 15,5% 14 12,7% 132 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Có 6,7% HS hứng thú với môn học GDCD, 11,7% HS cảm thấy thích đối với môn học, 45% học sinh trả lời bình thường. Tuy nhiên, tỉ lệ học sinh có cảm nhận không thích đến chán học môn GDCD khá cao, cả hai chiếm 18,3%. So với môn khác, môn GDCD nhận được phản hồi chán học cao hơn hẳn.Số liệu cho thấy các em vẫn chưa có những thái độ tích cực đối với môn học, tuy nhiên, đa số lựa chọn mức bình thường cũng chưa thực sự là tín hiệu xấu, việc hứng thú đến môn học là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của HS và để HS hứng thú với môn học thì đòi hỏi người GV phải có những phương pháp tác động đến nhận thức và thái độ học tập của HS làm cho các em yêu thích môn học. 2.2.2. Nguyên nhân gây ảnh hưởng không tốt đến sự hứng thú học tập của học sinh đối với môn học GDCD 2.2.2.1. Về phía học sinh Về nhận thức: Một số HS đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của môn GDCD. Đây là môn học giúp trang bị những kiến thức, hiểu biết chung về kĩ năng sống, có vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật, ý thức đạo đức của HS. Tuy nhiên, có những HS chưa ý thức được tầm quan trọng của môn học GDCD, từ đó tạo ra ảnh hưởng không tốt đến hứng thú học tập với môn học. Nhiều em còn khá mơ hồ trong việc xác định mục tiêu, yêu cầu, nội dung học tập của môn học. Về thái độ học tập: HS tiếp thu bài còn thụ động, quen với phương pháp học tập truyền thống, chưa tích cực, chủ động trong học tập. Một số em chưa chăm chỉ học tập, đặc biệt với một số môn học bị coi là môn phụ như môn GDCD. Về động cơ học tập: Nhiều HS có động cơ học tập môn GDCD chưa đúng đắn, học môn GDCD không phải vì yêu thích thực sự mà do các yếu tố bên ngoài tác động (vì điểm số, vì sợ GV hay bố mẹ la mắng) 2.2.2.2. Về phía giáo viên Về nội dung kiến thức: Bên cạnh một số GV nắm vững về kiến thức chuyên môn, năng động, linh hoạt trong việc vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại phù hợp với từng nội dung bài dạy, vẫn còn một số GV có sự hạn chế nhất định về kiến thức chuyên môn. Là người GV dạy GDCD nhưng lại không được đào tạo đúng chuyên ngành GDCD. Qua quá trình tìm hiểu nhóm tác giả nhận thấy có một số GV từ chuyên ngành khác lại đảm nhận giảng dạy bộ môn GDCD, từ đó dẫn đến tình trạng GV không nắm vững nội dung kiến thức TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 30/2019 133 Về phương pháp dạy học: Đa phần giáo viên GDCD vẫn sử dụng phương pháp truyền thống thuyết trình là chủ yếu, bởi vậy, giờ dạy thiếu hấp dẫn đối với học sinh. Nhận thức về tầm quan trọng của môn học: Giáo viên vẫn còn có tâm lí coi GDCD là môn học phụ nên còn hiện tượng cắt xén giờ học, lấy giờ môn GDCD để dạy môn học khác. Khi người giáo viên có cách nhìn nhận chưa đúng về tầm quan trọng của bộ môn thì đó chính là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng không tốt đến hứng thú học tập của học sinh đối với môn học. Về việc sử dụng trang thiết bị dạy học: Do coi GDCD là môn phụ nên giáo viên chưa chú trọng nhiều tới việc sử dụng trang thiết bị dạy học. Về phía nhà trường: Nhìn chung, một số trường đã chú trọng tổ chức các buổi tập huấn về phương pháp, kĩ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Tuy nhiên, việc coi GDCD là môn phụ đã hạn chế tới việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và chỉ đạo, quản lí giờ lên lớp chưa sát sao. Bên cạnh đó, chương trình GDCD trước đổi mới còn hàn lâm, khô khan, nặng về kiến thức lí thuyết chính trị, thiếu hoạt động trải nghiệm thực tế. Chính vì vậy, người học chỉ dừng lại ở mức học thuộc lòng, học đối phó mà khó áp dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, khó tìm thấy hứng thú, sự hấp dẫn trong việc học tập môn GDCD. 2.3. Đề xuất biện pháp để nâng cao hứng thú học tập môn GDCD của học sinh cấp THCS theo định hướng phát triển năng lực Đối với học sinh: Cần xác định động cơ học tập môn GDCD một cách đúng đắn, ý thức được đây là môn học quan trọng trang bị cho các em các kĩ năng sống cần thiết, các kiến thức cơ bản về pháp luật, đạo đức để học sinh trở thành các công dân tốt trong tương lai. Trong quá trình học, khi gặp những vấn đề khó hiểu, trừu tượng mà bản thân không hiểu nên mạnh dạn bày tỏ ý kiến với bạn và thầy cô để được giải đáp. Không nên nản chí, bỏ qua những tình huống có vấn đề vì lâu dần sẽ không còn yêu thích với môn học. Cần có ý thức học tập hết các môn học trong chương trình. Không có tâm lí phân biệt môn chính, môn phụ, môn phải thi tốt nghiệp, môn không thi tốt nghiệp. Cần đầu tư nhiều thời gian, công sức để tìm tòi, nghiên cứu tài liệu nhằm mở rộng hiểu biết của bản thân để vận dụng vào việc giải quyết vấn đề trong quá trình học tập và trong cuộc sống thực tiễn. Từ mong muốn cải thiện hiệu quả học tập của học sinh, nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát lấy ý kiến, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD và kết quả khảo ý kiến của học sinh được thể hiện qua bảng sau: 134 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Bảng 5: Đánh giá ý kiến của HS về các biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn GDCD TT Biện pháp Đồng ý Phân vân Không đồng ý SL % SL % SL % 1 Tăng cường hoạt động trải nghiệm 89 80,9 21 19,1 0 0 2 Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại 77 70 30 27,3 3 2,7 3 Đổi mới nội dung dạy học 78 71 28 25,4 4 3,6 4 Đổi mới phương pháp dạy học 56 51 49 44,5 5 4,5 5 Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá 55 50 35 31,8 20 18,2 Kết quả khảo sát từ bảng 5 cho thấy, biện pháp mà học sinh đồng ý nhất là tăng cường hoạt động trải nghiệm chiếm tỉ lệ 80,9%; thứ hai là biện pháp đổi mới nội dung dạy học với tỉ lệ 71% HS đồng ý; thứ ba là biện pháp sử dụng phương tiện dạy học hiện đại chiếm tỉ lệ 70% HS đồng ý; tiếp theo là có 51% HS đồng ý với biện pháp đổi mới phương pháp dạy học và cuối cùng 50% HS đồng ý với biện pháp đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá. Những con số trên cho thấy, phần lớn học sinh đồng ý với các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Điều này khẳng định tầm quan trọng của người GV, đòi hỏi sự đầu tư cao độ của GV trong việc thiết kế nội dung, phương pháp, kế hoạch giảng dạy. Vậy để giúp đáp ứng được những yêu cầu của người dạy học trong thời đại mới, người giáo viên cần làm gì? Đối với giáo viên: Bằng chính tâm huyết của mình, người dạy luôn là những người chủ động khơi gợi hứng thú học tập, là người nâng cao tinh thần, ý thức, trách nhiệm trong dạy học môn GDCD theo hướng lấy người học làm trung tâm thông qua những phương pháp dạy học hiện đại, thiết thực đặc biệt như phương pháp nêu gương; chủ động xây dựng mối quan hệ thân thiện gần gũi với học sinh, tạo cơ hội cho học sinh bày tỏ ý kiến, tương tác lẫn nhau trong quá trình học tập, để tự nâng cao kiến thức, tích hợp nhiều nội dung khác làm cho tiết học sôi nổi, hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó người GV cần nắm vững các nội dung sau: Thứ nhất, về kiến thức: Giáo viên cần đánh giá đúng nội dung trọng tâm mà bài học muốn truyền tải tới người học. Thông qua kiến thức, người học rút ra được ý nghĩa bài học nhằm định hướng cho bản thân học sinh đưa ra những cách giải quyết các vấn đề diễn ra trong thực tiễn cuộc sống; Thứ hai, về phương pháp dạy học: Người dạy cần đổi mới theo hướng thuyết trình nêu vấn đề, đàm thoại, thảo luận nhóm, tăng cường hoạt động trải TẠP CHÍ KHOA HỌC  SỐ 30/2019 135 nghiệm theo chủ đề như đẩy mạnh tổ chức các buổi tham quan tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, Làng trẻ SOS, Viện dưỡng lão hoặc triển khai các buổi tọa đàm theo chủ đề tình bạn, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước nhằm rèn luyện các kĩ năng cơ bản, xây dựng tinh thần đoàn kết, hòa nhập, yêu thương con người và môi trường xung quanh cho học sinh. Tuy nhiên, phải tùy vào nội dung bài giảng để người GV áp dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học linh hoạt phù hợp với môn học, bài học cụ thể nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Thứ ba, về đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá: Thay vì hình thức kiểm tra đánh giá truyền thống chủ yếu cho học sinh học thuộc lòng nội dung, người GV cần xây dựng ngân hàng đề thi với phương châm phát triển năng lực người học theo định hướng tiếp cận năng lực. Ví dụ: Có ý kiến cho rằng, hiện tượng có một bộ phận giới trẻ thần tượng “Khá Bảnh” là biểu hiện của sự lệch chuẩn trong giá trị sống của xã hội hiện nay. Em suy nghĩ như thế nào về ý kiến này? Bằng phương châm dạy học theo định hướng tiếp cận năng lực, học sinh có thể sử dụng sách giáo khoa nhưng phải biết liên hệ vận dụng kiến thức vào việc giải quyết tình huống thực tiễn. Từ đó, học sinh phát triển năng lực phản biện, tư duy phê phán, đánh giá, khả năng sáng tạo trong việc nêu và giải quyết vấn đề. Tiếp theo, trong thời kì ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ 4.0, việc trang bị thiết bị học tập hiện đại như máy tính, Internet không phải là vấn đề quá khó đối với mỗi GV và HS, nhất là ở các trường nội thành Hà Nội. Chính vì thế, người GV cần biết tận dụng tối đa hiệu quả của phương tiện dạy học hiện đại để giúp HS tìm kiếm thông tin phục vụ mục đích học tập một cách dễ dàng, từ đó người học sẽ phát triển, hoàn thiện kĩ năng tổng hợp, đánh giá, giải quyết vấn đề. Để trở thành người GV giỏi, bên cạnh có phương pháp dạy học lôi cuốn HS, người GV cần luôn phải tích cực học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, biết nắm bắt đặc điểm lứa tuổi, nhu cầu của HS để có sự quan tâm giúp đỡ kịp thời, đó là điều kiện đảm bảo để hội tụ đầy đủ yếu tố của một người GV “vừa hồng vừa chuyên” trong thời đại mới. Đối với nhà trường: Để tăng cường hứng thú học tập của HS với môn GDCD, nhà trường cần quan tâm nhiều hơn tới môn GDCD, đặt môn GDCD ở vị trí xứng đáng trong các môn học; tạo những điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết hỗ trợ GV trong công tác giảng dạy; khuyến khích GV đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng chuyên môn; tổ chức thường xuyên các hoạt động ngoại khóa giúp GV và HS có cơ hội tiếp xúc, gần gũi nhau và gần gũi với các vấn đề trong cuộc sống thực tiễn. 3. KẾT LUẬN Hứng thú học tập môn GDCD là sự yêu thích, say mê nội dung của môn GDCD, từ đó HS có ý thức tự giác học tập, tìm ta những giải pháp tối ưu nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập của môn học do GV đề ra một cách có hiệu quả. 136 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Nâng cao hứng thú học tập ở HS là việc làm rất cần thiết, có ích cho bản thân HS, gia đình và toàn xã hội. Chính vì vậy, thông qua công trình nghiên cứu, nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế và chỉ ra được thực trạng, nguyên nhân tác động tới thực trạng hứng thú học tập môn học GDCD ở học sinh THCS Hà Nội hiện nay, đồng thời đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục nguyên nhân gây ảnh hưởng không tốt tới hứng thú học tập ở học sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Văn Bích (2010), “Hứng thú học tập các môn lí luận chính trị của sinh viên hệ chính quy trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh”, - Luận văn Thạc sĩ. 2. Ch.Buher (1938), Phát triển hứng thú ở trẻ em, - Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Macarencô (1967), Tác dụng của việc giảng dạy, nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của sinh viên, - Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. G.I.Sukina (1972), Vấn đề hứng thú nhận thức trong khoa học giáo dục, - Nxb Giáo dục, Hà Nội. 5. Nguyễn Khắc Mai (1987), “Bước đầu tìm hiểu thực trạng hứng thú đối với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên tại trường của sinh viên khoa Tâm lí giáo dục”, - Luận án Tiến sĩ. 6. J.Piaget (1986), Tâm lý học và giáo dục học, - Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Trần Thị Thanh Hương (1984), “Nâng cao hứng thú học toán qua việc điều khiển hoạt động tự học ở nhà của học sinh”, - Luận văn Thạc sĩ. 8. Lưu Thu Thủy - Lê Thị Lí - Nguyễn Thị Thanh Mai (đồng chủ biên) (2008), Phương pháp dạy học GDCD ở Trung học cơ sở, - Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. THE INTEREST IN LEARNING CIVIC EDUCATION AT THE SECONDARY SCHOOL IN HANOI Abstract: Civic Education does not only equip students with basic knowledge of worldview, moral values and standards and basic legal rules but also educates them to become kind and helpful citizens for society. This paper provides a practical basis for the current situation of interest in learning Civic Education at Secondary schools, particularly at Secondary schools in Hanoi. Thereby, the authors set out a number of measures and solutions to enhance the interest in learning this subject for students at Secondary schools. Keywords: Interest, interest in learning, Civic Education, Secondary school.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf28_9697_2203356.pdf
Tài liệu liên quan