Tài liệu Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên trường Đại học Hồng Đức: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
158
Email: lethithuha@hdu.edu.vn
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
Lê Thị Thu Hà - Trường Đại học Hồng Đức
Ngày nhận bài: 02/5/2019; ngày chỉnh sửa: 17/5/2019; ngày duyệt đăng: 25/5/2019.
Abstract: The study was conducted on 90 managers, 145 lecturers and 250 students of Hong Duc
University to study the current status of life skill education for students; The method used includes
observation, interview and data was processed by using SPSS software version 20.0. Research
results showed that the surveyed people are aware of the necessity of life skill education activities,
but this work still has some limitations that needs to be overcome in the coming time.
Keywords: Life skill, life skill education, Hong Duc University.
1. Mở đầu
Tuổi sinh viên (SV) là lứa tuổi đẹp nhất cả về thể chất
và tinh thần, luôn có khát vọng vươn lên, mong muốn
khám phá những điều...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên trường Đại học Hồng Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
158
Email: lethithuha@hdu.edu.vn
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
Lê Thị Thu Hà - Trường Đại học Hồng Đức
Ngày nhận bài: 02/5/2019; ngày chỉnh sửa: 17/5/2019; ngày duyệt đăng: 25/5/2019.
Abstract: The study was conducted on 90 managers, 145 lecturers and 250 students of Hong Duc
University to study the current status of life skill education for students; The method used includes
observation, interview and data was processed by using SPSS software version 20.0. Research
results showed that the surveyed people are aware of the necessity of life skill education activities,
but this work still has some limitations that needs to be overcome in the coming time.
Keywords: Life skill, life skill education, Hong Duc University.
1. Mở đầu
Tuổi sinh viên (SV) là lứa tuổi đẹp nhất cả về thể chất
và tinh thần, luôn có khát vọng vươn lên, mong muốn
khám phá những điều mới lạ và tự khẳng định mình. SV
được học tập, rèn luyện trong môi trường đại học để trở
thành những người lao động có trình độ cao, đáp ứng yêu
cầu của mọi lĩnh vực nghề nghiệp, đóng góp quan trọng
vào sự phát triển KT-XH của quốc gia. Bối cảnh phát
triển của xã hội hiện đại đang có những tác động đa chiều
đến SV và đặt nhà trường trước yêu cầu phải tăng cường
giáo dục kĩ năng sống (KNS) để chuẩn bị tốt hành trang
cho các em bước vào cuộc sống tự chủ, độc lập sau khi
ra trường và ứng phó một cách chủ động với các tình
huống bất thường của cuộc sống.
Hồng Đức là Trường đại học đa ngành, có sứ mệnh
đào tạo nhân lực chất lượng cao và cung cấp nguồn nhân
lực khoa học - công nghệ tiên tiến phục vụ cho phát triển
KT-XH của tỉnh Thanh Hóa và các vùng lân cận. Trong
những năm qua, sau khi tốt nghiệp, SV Trường Đại học
Hồng Đức đã trở thành lực lượng lao động có trình độ
cao trong nhiều lĩnh vực ngành nghề, đóng góp không
nhỏ cho sự phát triển KT-XH của địa phương. Tuy nhiên,
trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi nhanh chóng về
kinh tế, khoa học, công nghệ do ảnh hưởng tiêu cực của
mặt trái nền kinh tế thị trường, sự va đập văn hóa của
toàn cầu hóa, yêu cầu ngày càng cao về mục tiêu giáo
dục đại học, có rất nhiều thách thức đang được đặt ra
đối với việc giáo dục nói chung và giáo dục KNS nói
riêng cho SV Trường Đại học Hồng Đức.
2. Nội dung nghiên cứu
Để nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi để trưng cầu ý kiến
trên 90 cán bộ quản lí (CBQL), 145 giảng viên (GV) và
250 SV Trường Đại học Hồng Đức; sử dụng phương
pháp quan sát, phỏng vấn và phần mềm SPSS phiên bản
20.0 để xử lí kết quả thu được. Nghiên cứu được tiến
hành vào tháng 3/2019. Kết quả thu được như sau:
2.1. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết của hoạt
động giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên
Sử dụng câu hỏi để khảo sát, chúng tôi thu được kết
quả như sau (bảng 1):
Bảng 1 cho thấy, hầu hết CBQL, GV và SV có nhận
thức đúng đắn về sự cần thiết của hoạt động giáo dục
KNS cho SV ở Trường Đại học Hồng Đức (CBQL:
82,20% cho rằng rất cần thiết, 17,8% cho rằng cần thiết;
GV: 68,3% cho rằng rất cần thiết, 31,7% cho rằng cần
thiết; SV: 15,6% cho rằng rất cần thiết, 70,0% cho rằng
cần thiết). Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận nhỏ SV cho
rằng, hoạt động giáo dục KNS là ít cần thiết (14,4%).
Bảng 1. Nhận thức về sự cần thiết của hoạt động giáo dục KNS cho SV
Mức độ
CBQL GV SV
SL % SL % SL %
Rất cần thiết 74 82,20 99 68,3 39 15,6
Cần thiết 16 17,8 46 31,7 175 70,0
Ít cần thiết 0 0 0 0 36 14,4
Không cần thiết 0 0 0 0 0 0
Tổng 90 100 145 100 250 100
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
159
Tìm hiểu lí do của thực trạng trên, chúng tôi đã phỏng
vấn một số SV, đa số các em cho rằng: việc tham gia vào
hoạt động GD-ĐT ở trường chủ yếu là học tập tri thức nghề
nghiệp, còn việc rèn luyện KNS chỉ là yêu cầu phụ mà thôi.
Bởi vì, thời gian học tập ở trường nhiều, họ học theo học
chế tín chỉ đã chiếm hầu hết thời gian biểu trong ngày nên
không có nhiều thời gian tham gia các hoạt động giáo dục
KNS do Đoàn Thanh niên, Hội SV tổ chức. Bên cạnh đó,
một bộ phận SV cũng nhận định, việc tham gia vào các hoạt
động giáo dục KNS ở trường chưa mang lại hiệu quả cao,
không tạo được hứng thú cho họ trong quá trình tham gia
nên hoạt động này đối với một số SV là không cần thiết.
Một bộ phận SV mải đi làm thêm nên ít nhiều cũng ảnh
hưởng đến quá trình đào tạo trong nhà trường. Từ sự nhận
thức của SV về mức độ cần thiết của giáo dục KNS đã ảnh
hưởng đến mức độ tham gia của SV trong các hoạt động
giáo dục do Nhà trường và Khoa tổ chức.
2.2. Thực trạng mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho
sinh viên
Kết quả xử lí số liệu thu được ở bảng 2.
Bảng 2 cho thấy, mục tiêu giáo dục KNS cho SV
được CBQL, GV và SV đánh giá ở mức tốt với điểm
trung bình (ĐTB) chung lần lượt là 2,82; 2,79 và 2,64.
Trong đó, nội dung được đánh giá tốt nhất theo CBQL
và GV là “Hình thành cho SV những hành vi, thói quen
lành mạnh, tích cực” với ĐTB là 3,07 và 3,02; theo đánh
giá của SV là “Phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh
thần và đạo đức của SV” với ĐTB là 2,82. Nội dung
được đánh giá kém nhất theo CBQL và GV là giúp SV
“có khả năng tự lập thân, lập nghiệp” với ĐTB là 2,46 và
2,43, theo đánh giá của SV là “Tạo cơ hội thuận lợi để
SV thực hiện tốt quyền và trách nhiệm của mình” với
ĐTB là 2,42.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, giáo dục KNS cho SV
đại học nhằm đạt những mục tiêu nhất định, trong đó có
các mục tiêu như: Trang bị cho người học những kiến
thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó
hình thành cho người học những hành vi, thói quen lành
mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực
trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng
ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để người học thực hiện tốt
quyền, bổn phận của mình và phát triển hài hoà về thể
chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức Các mục tiêu trên
được thực hiện trong giáo dục KNS cho SV Trường Đại
học Hồng Đức chưa đạt được như mong muốn. Mục tiêu
giúp SV có khả năng tự lập thân lập nghiệp xếp bậc 2.
Đây là vấn đề cần được quan tâm và khắc phục trong thời
gian tới để SV Trường Đại học Hồng Đức được đào tạo
đáp ứng cả về chuyên môn và kĩ năng nghề nghiệp do
nhà sử dụng lao động yêu cầu. Đồng thời, cần đề xuất
biện pháp phù hợp để thực hiện các mục tiêu giáo dục
KNS đạt hiệu quả cao hơn.
2.3. Thực trạng nội dung giáo dục kĩ năng sống cho
sinh viên
Kết quả khảo sát thu được ở bảng 3.
Bảng 3. Thực trạng nội dung giáo dục KNS cho SV
TT Nội dung giáo dục KNS cho SV
CBQL GV SV
X Thứ bậc X
Thứ
bậc X
Thứ
bậc
1 Nhóm kĩ năng nhận thức bản thân và quản lí bản thân
Bảng 2. Thực trạng mục tiêu giáo dục KNS cho SV
TT Mục tiêu giáo dục KNS cho SV
CBQL GV SV
X Thứ bậc X Thứ bậc X Thứ bậc
1
Trang bị cho SV những kiến thức, thái độ và kĩ
năng phù hợp
3,01 2 2,85 3 2,53 4
2
Hình thành cho SV những hành vi, thói quen
lành mạnh, tích cực
3,07 1 3,02 1 2,68 3
3
Tạo cơ hội thuận lợi để SV thực hiện tốt quyền
và trách nhiệm của mình
2,62 4 2,72 4 2,42 5
4
Phát triển hài hoà về thể chất, trí tuệ, tinh thần
và đạo đức của SV
2,94 3 2,93 2 2,82 1
5 Có khả năng tự lập thân, lập nghiệp 2,46 5 2,43 5 2,75 2
X chung 2,82 2,79 2,64
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
160
1.1 Kĩ năng tự nhận thức 2,82 1 2,78 1 2,56 3
1.2 Kĩ năng xác định giá trị 2,63 4 2,68 2 2,49 4
1.3 Kĩ năng đặt mục tiêu 2,78 2 2,48 5 2,68 1
1.4 Kĩ năng quản lí thời gian 2,71 3 2,62 3 2,62 2
1.5 Kĩ năng ứng phó với căng thẳng 2,59 5 2,53 4 2,44 5
1.6 Kĩ năng kiểm soát cảm xúc 2,55 6 2,45 6 2,39 6
X chung nhóm 1 2,68 2,59 2,53
2 Nhóm kĩ năng liên nhân cách
2.1 Kĩ năng ứng xử 2,70 2 2,66 3 2,71 1
2.2 Kĩ năng giao tiếp có hiệu quả 2,78 1 2,70 2 2,64 2
2.3 Kĩ năng lắng nghe tích cực 2,64 3 2,76 1 2,51 4
2.4 Kĩ năng thương lượng 2,46 6 2,50 6 2,43 6
2.5 Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn 2,60 4 2,56 5 2,45 5
2.6 Kĩ năng kiên định 2,54 5 2,60 4 2,56 3
X chung nhóm 2 2.62 2,63 2,55
3 Nhóm kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề
3.1 Kĩ năng tư duy sáng tạo 2,64 1 2,58 2 2,51 1
3.2 Kĩ năng tư duy phê phán 2,58 2 2,54 3 2,36 4
3.3 Kĩ năng ra quyết định 2,48 4 2,62 1 2,45 2
3.4 Kĩ năng giải quyết vấn đề 2,54 3 2,46 4 2,40 3
X chung nhóm 3 2,56 2,55 2,43
X chung 2,62 2,59 2,5
Bảng 3 cho thấy, việc thực hiện giáo dục KNS cho
SV đã được thực hiện thường xuyên với ĐTB đánh giá
của CBQL, GV là SV lần lượt là 2,62; 2,59 và 2,5. Cụ
thể như sau:
- Nhóm kĩ năng nhận thức bản thân và quản lí bản
thân:
Kĩ năng được thực hiện thường xuyên nhất theo đánh
giá của CBQL và GV là “Kĩ năng tự nhận thức” với ĐTB
là 2,68 và 2,59. Kĩ năng thực hiện thường xuyên nhất
theo đánh giá của SV là “Kĩ năng đặt mục tiêu” với ĐTB
là 2,53.
Kĩ năng được giáo dục ít thường xuyên nhất là “Kĩ
năng kiểm soát cảm xúc” theo đánh giá của CBQL, GV
và SV với ĐTB là 2,56, 2,55 và 2,43.
Thông qua kết quả điều tra và quan sát thực tiễn hoạt
động giáo dục KNS cho SV ở Trường Đại học Hồng
Đức, chúng tôi thấy rằng, nhận thức, đặt mục tiêu, quản
lí thời gian là những kĩ năng đầu tiên được giáo dục cho
SV khi họ mới bước chân vào trường đại học thông qua
hoạt động sinh hoạt tuần công dân học sinh SV đầu khoa
học. SV được giáo dục về kĩ năng nhận thức, đặt mục
tiêu, quản lí thời gian sẽ giúp SV tự nhận thức được về
bản thân mình, những mặt mạnh, mặt yếu, biết đặt mục
tiêu cho quá trình học tập, cho cuộc sống của mình, biết
sắp xếp thời gian biểu hợp lí để tham gia hoạt động học
tập, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác.
Kĩ năng ít được giáo dục thường xuyên nhất là “kĩ
năng kiểm soát cảm xúc” với ĐTB đánh giá của CBQL,
GV và SV là 2,55; 2,45 và 2,39. Kĩ năng kiểm soát cảm
xúc cần được rèn luyện trong quá trình SV tham gia hoạt
động, trong quá trình học tập, nghiên cứu giúp SV
hình thành và phát triển những tình cảm tích cực, hạn chế
những xúc cảm tiêu cực trong quá trình tham gia hoạt
động. Tuy nhiên, kĩ năng này chưa được tổ chức giáo dục
đúng mức.
- Nhóm kĩ năng liên nhân cách:
Kĩ năng được tổ chức giáo dục thường xuyên nhất
theo đánh giá của CBQL là “Kĩ năng giao tiếp có hiệu
quả” với ĐTB là 2,78; theo đánh giá của GV là “Kĩ năng
lắng nghe tích cực” với ĐTB là 2,76, theo đánh giá của
SV là “Kĩ năng ứng xử” với ĐTB là 2,71. Kĩ năng ít được
giáo dục thường xuyên nhất theo đánh giá của CBQL,
GV và SV là “Kĩ năng thương lượng” với ĐTB là 2,46;
2,5 và 2,43.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
161
Đối với nhóm kĩ năng liên nhân cách cũng được tổ
chức giáo dục thường xuyên cho SV với ĐTB chung
đánh giá của CBQL, GV và SV là 2,62; 2,63 và 2,55.
Từ kết quả khảo sát, phỏng vấn CBQL, giáo viên, SV
và quan sát, chúng tôi thấy rằng, kết quả điều tra khá phù
hợp với thực tiễn tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho SV
ở Trường Đại học Hồng Đức. Các kĩ năng liên nhân cách
được tổ chức thường xuyên thông qua các hoạt động dạy
học trên lớp, các hoạt động theo từng tháng do Đoàn
Thanh niên, Hội SV nhà trường tổ chức. Ngoài ra, các
khoa cũng tổ chức các hoạt động giáo dục KNS riêng cho
từng khoa đào tạo, ví dụ như: Khoa Kinh tế - Quản trị kinh
doanh tổ chức Festival Kinh tế, Khoa Khoa học xã hội tổ
chức Ngày hội văn hóa Việt Nam Thông qua các hoạt
động này giúp hình thành và rèn luyện cho SV kĩ năng
giao tiếp có hiệu quả, kĩ năng lắng nghe tích cực Tuy
nhiên, trong quá trình tổ chức các hoạt động này, một số
kĩ năng vẫn chưa được chú trọng giáo dục một cách
thường xuyên như kĩ năng thương lượng hay kĩ năng kiên
định với mục tiêu. Một số SV còn tỏ ra thờ ơ, chưa hứng
thú với các hoạt động do khoa, nhà trường tổ chức.
- Nhóm kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề:
Kết quả điều tra cho thấy, ĐTB chung đánh giá về kĩ
năng này không cao. Đánh giá của CBQL, GV và SV là
2,56; 2,55, 2,43 điểm.
Kĩ năng được thực hiện thường xuyên nhất theo đánh
giá của CBQL và SV là “Kĩ năng tư duy sáng tạo” với
ĐTB là 2,64; 2,51 theo đánh giá của GV là “Kĩ năng ra
quyết định” với ĐTB là 2,62.
Trong quá trình ra quyết định và giải quyết vấn đề,
SV cần phải có kĩ năng sáng tạo trong tư duy. Đứng trước
một vấn đề, một tình huống nào đó, không có một công
thức chung cho việc giải quyết các vấn đề, các tình huống
đó. Mà khi đó, SV cần phải có sự sáng tạo trong khi giải
quyết vấn đề. Nhận thức rõ điều này nên các hoạt động
được tổ chức cho SV đều nhắm đến việc hình thành và
rèn luyện kĩ năng này cho SV thường xuyên.
Tuy nhiên, vẫn còn những kĩ năng mặc dù được tổ
chức giáo dục cho SV nhưng SV cho rằng, họ ít được
cung cấp thông tin, ít được rèn luyện như kĩ năng phê
phán. Thực tế qua việc tổ chức dạy học, các hoạt động
giáo dục KNS cho thấy, việc phê phán, đánh giá hoạt
động, cá nhân hay tập thể sau khi tham gia hoạt động đó
là vấn đề khá khó khăn đối với SV. Họ chưa biết cách
đánh giá, nhận xét, phê phán một cách khách quan mà
chủ yếu dựa trên những đánh giá cảm tính cá nhân.
2.4. Thực trạng phương pháp giáo dục kĩ năng sống
cho sinh viên
Kết quả khảo sát thu được ở bảng 4.
Bảng 4 cho thấy, các phương pháp giáo dục KNS cho
SV được sử dụng ở mức thường xuyên trong quá trình
giáo dục thể hiện ở ĐTB đánh giá của CBQL là 2,58, GV
là 2,51 và SV là 2,49. Trong đó, phương pháp được sử
dụng thường xuyên nhất theo ý kiến của CBQL và GV
là “Phương pháp tổ chức cho SV tham gia vào các hoạt
Bảng 4. thực trạng phương pháp giáo dục KNS cho SV
TT
Phương pháp giáo dục KNS
cho SV
CBQL GV SV
X
Thứ
bậc X
Thứ
bậc X
Thứ
bậc
1 Phương pháp giảng giải 2,48 7 2,58 4 2,60 3
2 Phương pháp đàm thoại 2,42 8 2,54 5 2,42 7
3 Phương pháp tạo dư luận 2,36 9 2,39 9 2,34 9
4 Phương pháp giao việc 2,72 3 2,70 2 2,54 5
5 Phương pháp luyện tập 2,68 4 2,65 3 2,38 8
6
Phương pháp tổ chức cho SV tham gia vào
các hoạt động thực tiễn xã hội
2,86 1 2,78 1 2,57 4
7 Phương pháp thi đua 2,56 6 2,42 8 2,48 6
8 Phương pháp nêu gương 2,78 2 2,49 6 2,75 1
9 Phương pháp khen thưởng 2,64 5 2,45 7 2,68 2
10 Phương pháp trách phạt 2,28 10 2,12 10 2,17 10
X chung 2,58 2,51 2,49
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
162
động thực tiễn xã hội” với ĐTB lần lượt là 2,86 và 2,78.
Phương pháp được sử dụng thường xuyên nhất theo ý
kiến của SV là “Phương pháp nêu gương” với ĐTB 2,75.
Có sự thống nhất trong ý kiến về phương pháp ít được sử
dụng là “Phương pháp trách phạt” với ĐTB đánh giá của
CBQL là 2,28, GV là 2,12 và SV 2,17.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc tổ chức hoạt động
giáo dục KNS cho SV ở Trường Đại học Hồng Đức nhận
được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo
Khoa, Nhà trường, với các nội dung tổ chức giáo dục đa
dạng, phong phú từ đầu năm học đến cuối năm học. Các
hoạt động được tổ chức theo chủ điểm hàng tháng như:
Chào mừng năm học mới, chào đón tân SV, chào mừng kỉ
niệm thành lập Trường (tháng 9), chào mừng ngày Phụ nữ
Việt Nam (tháng 10), chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam
(tháng 11), chào mừng ngày thành lập Quân đội nhân dân
Việt Nam (tháng 12), mừng Đảng mừng xuân (tháng 1,
tháng 2), tháng Thanh niên (tháng 3) Hướng đến các chủ
điểm đó, nhiều hoạt động được tổ chức như: Đêm hội “We
are students”, Thi giọng hát hay học sinh SV, Hội thi cắm
hoa, Hội diễn văn nghệ, Giải bóng đá cán bộ viên chức lao
động - học sinh SV, Giải bóng chuyền học sinh SV, giải cờ
vua học sinh SV, Hội thi quốc phòng an ninh, Hội thi Bí thư
chi đoàn giỏi, Hội thi Rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp, Hội
thi Tiểu phẩm phòng chống Tệ nạn xã hội, Hoạt động tình
nguyện “Chung sức vì cộng đồng”, Hoạt động tình nguyện
dạy trẻ tại làng SOS Hưởng ứng các cuộc thi do Trung
ương đoàn và Tỉnh đoàn tổ chức. Các hoạt động này được
tổ chức với sự kết hợp của các phương pháp tổ chức cho SV
tham gia vào các hoạt động thực tiễn xã hội, phương pháp
nêu gương, phương pháp giao việc, phương pháp luyện tập,
phương pháp khen thưởng Điều này đúng với ý kiến
đánh giá của CBQL và GV về việc sử dụng các phương
pháp giáo dục KNS cho SV.
Phương pháp ít được sử dụng nhất là trách phạt, tạo
dư luận. SV trường đại học chủ yếu học tập, nghiên cứu
một cách tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo nên trong
quá trình giáo dục KNS cho SV, các phương pháp tạo dư
luận, phương pháp trách phạt ít được sử dụng. Phương
pháp trách phạt chỉ sử dụng khi SV vi phạm nhiều lần
trong quá trình tham gia hoạt động giáo dục do Khoa và
Nhà trường tổ chức. Phương pháp giảng giải chủ yếu sử
dụng trong quá trình dạy học lí thuyết trên lớp, còn trong
quá trình tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho SV,
phương pháp này chỉ sử dụng trong phần đầu của hoạt
động nhằm hướng dẫn cho SV những thao tác cần thiết
trong quá trình tham gia hoạt động. Điều này phù hợp với
đặc điểm lứa tuổi của SV, SV đang ở tuổi trưởng thành
cả thể chất và tâm lí, các em đã hiểu và nhận thức được
vấn đề do đó ít phải sử dụng các phương pháp này.
Như vậy, trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục
KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức, có nhiều
phương pháp được sử dụng nhằm giúp SV phát triển
KNS cho SV. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp
như trên vẫn chưa mang lại hiệu quả cao trong giáo dục
KNS cho SV. Thực trạng này đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo
các cấp trong nhà trường cần đề xuất và áp dụng các biện
pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục KNS cho
SV Trường Đại học Hồng Đức.
2.5. Thực trạng hình thức giáo dục kĩ năng sống cho
sinh viên
Kết quả khảo sát thu được ở bảng 5.
Bảng 5 cho thấy, có nhiều hình thức giáo dục KNS
cho SV Trường Đại học Hồng Đức, trong đó con đường
giáo dục được sử dụng thường xuyên hơn cả là: “Thông
qua việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao” với ĐTB đánh giá của CBQL, GV và SV
lần lượt là 2,98; 2,76 và 2,78, thứ bậc 1. Tiếp đến là
Bảng 5. Thực trạng các hình thức giáo dục KNS cho SV
TT Hình thức giáo dục KNS cho SV
CBQL GV SV
X
Thứ
bậc X
Thứ
bậc X
Thứ
bậc
1
Thông qua việc tổ chức các hoạt động dạy học trên
lớp
2,82 3 2,65 3 2,54 4
2
Thông qua việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao
2,98 1 2,76 1 2,78 1
3 Thông qua tổ chức các hội thi 2,93 2 2,70 2 2,68 2
4 Thông qua tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ 2,67 5 2,55 5 2,48 5
5 Thông qua hình thức tham quan, thực tế 2,58 6 2,46 6 2,42 6
6 Thông qua các hoạt động sinh hoạt tập thể 2,76 4 2,60 4 2,58 3
X chung 2,79 2,62 2,58
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
163
“Thông qua tổ chức các hội thi” với ĐTB đánh giá của
CBQL là 2,93; GV là 2,70 và SV là 2,68, thứ bậc 2.
Kết quả thu được từ điều tra, kết hợp với quan sát thực
tế việc tổ chức các hoạt động giáo dục KNS cho SV
Trường Đại học Hồng Đức, chúng tôi nhận thấy: Trong
những năm qua, Trường Đại học Hồng Đức đã tổ chức
nhiều hoạt động giáo dục với các hình thức đa dạng nhằm
giáo dục KNS cho SV như các hoạt động được kể tên. Các
hình thức giáo dục trên đã thu hút được SV tham gia, giúp
SV rèn luyện được các KNS cần thiết cho bản thân mình.
Tuy nhiên, việc tổ chức nhiều hoạt động cho SV vào
thời gian trong năm học khiến cho nhiều SV tích cực
tham gia hoạt động mà xao nhãng việc học tập. Mặt khác,
nhiều SV vì chú trọng việc học tập hay đi làm thêm mà
chưa dành thời gian phù hợp cho việc tham gia các hoạt
động để rèn luyện KNS cần thiết cho mình. Bên cạnh đó,
các hoạt động giáo dục KNS cho SV chưa lan tỏa đến
mọi SV trong toàn trường mà mới chỉ có một bộ phận
SV tham gia. Có những SV tham gia một cách hình thức
để lấy thành tích, chưa có sự toàn tâm toàn ý cho việc
tham gia hoạt động nhằm phát triển KNS cho bản thân
mình. Đây là một trong những bất cập trong tổ chức hoạt
động giáo dục KNS cho SV Trường Đại học Hồng Đức
cần khắc phục trong thời gian tới. Vì vậy, cần xây dựng
biện pháp thích hợp nhằm quản lí tốt hơn hoạt động giáo
dục KNS cho SV góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
của nhà trường hiện nay.
Trong các hình thức giáo dục trên, có 2 hình thức giáo
dục ít được sử dụng hơn cả, đó là: “Thông qua tổ chức
sinh hoạt Câu lạc bộ” với ĐTB đánh giá của CBQL, GV
và SV là 2,67; 2,55 và 2,48, thứ bậc 5 và “Thông qua
hình thức tham quan, thực tế” với ĐTB đánh giá của
CBQL, GV và SV là 2,58; 2,46 và 2,42, thứ bậc 6. Ở
Trường Đại học Hồng Đức, có nhiều câu lạc bộ, đội,
nhóm được thành lập trực thuộc Đoàn trường, Hội SV
trường, trực thuộc các Liên chi đoàn như: Câu lạc bộ Nhà
doanh nghiệp tương lai, Câu lạc bộ tiếng Anh Aloha
Tuy nhiên, các câu lạc bộ hoạt động một cách hình thức,
chưa sinh hoạt thường xuyên, chưa mang lại hiệu quả cao
trong giáo dục KNS cho SV. Đối với hình thức giáo dục
thông quan tham quan, thực tế cũng ít được sử dụng do
đặc trưng của mỗi ngành đào tạo mà các hình thức tổ
chức giáo dục khác nhau, kinh phí chi cho hoạt động này
còn hạn chế, vì thế không được thực hiện thường xuyên
trong toàn trường đối với tất cả SV ở các ngành đào tạo.
Qua trò chuyện với SV N.T.V.A, lớp K18B Đại học
Sư phạm Ngữ văn, Khoa Khoa học Xã hội, em cho biết:
“Chúng em mong muốn Nhà trường tổ chức nhiều hình
giáo dục KNS như được thực tế, trải nghiệm, được tham
gia các câu lạc bộ, qua đó chúng em mới có nhiều cơ
hội được rèn KNS”.
2.6. Thực trạng các điều kiện giáo dục kĩ năng sống
cho sinh viên
Kết quả xử lí số liệu thu được ở bảng 6.
Bảng 6 cho thấy, các điều kiện tổ chức hoạt động giáo dục
KNS cho SV ở Trường Đại học Hồng Đức khá tốt với ĐTB
đánh giá của CBQL là 2,75, GV 2,78 và SV 2,64. “Phòng học
với đầy đủ các thiết bị máy tính, máy chiếu, mic, loa” được
đánh giá tốt nhất với ĐTB của CBQL là 2,89, GV 2,88. Theo
đánh giá của SV thì “Hội trường” có chất lượng tốt nhất với
ĐTB là 2,81. “Thư viện với đầy đủ tài liệu về KNS” được
đánh giá là có chất lượng thấp nhất với ĐTB của CBQL, GV
và SV lần lượt là 2,65, 2,68 và 2,48.
Từ kết quả điều tra và quan sát thực tế, chúng tôi nhận
thấy, Trường Đại học Hồng Đức có cơ sở vật chất tốt, đáp
ứng các điều kiện cho việc tổ chức hoạt động giáo dục
KNS. Hệ thống phòng học với các thiết bị như máy tính,
máy chiếu, mic, loa được trang bị đồng bộ. Hội trường,
Bảng 6. Thực trạng các điều kiện giáo dục KNS cho SV
TT Các điều kiện giáo dục KNS cho SV
CBQL GV SV
X
Thứ
bậc X
Thứ
bậc X
Thứ
bậc
1 Sân vận động 2,72 4 2,80 3 2,65 3
2 Hội trường 2,80 2 2,84 2 2,81 1
3 Phòng truyền thống 2,76 3 2,72 5 2,72 2
4 Thư viện với đầy đủ tài liệu về KNS 2,65 6 2,68 6 2,48 6
5 Hệ thống mạng Internet không dây 2,68 5 2,76 4 2,62 4
6
Phòng học với đầy đủ các thiết bị máy tính, máy
chiếu, mic, loa
2,89 1 2,88 1 2,56 5
X chung 2,75 2,78 2,64
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 158-164
164
phòng truyền thống, sân vận động cũng được đầu tư xây
dựng. Trường Đại học Hồng Đức có sân vận động với sân
cỏ nhân tạo đạt tiêu chuẩn để tổ chức các giải đấu bóng đá
lớn. Hội trường lớn A7 (cơ sở 2) với hơn 300 chỗ ngồi là
nơi để tổ chức hoạt động văn nghệ, các hội thi, nhiều hội
trường nhỏ và vừa ở nhà Điều hành, nhà A5, A6 Tuy
nhiên, thư viện của nhà trường chưa đáp ứng được yêu cầu
về giáo dục KNS cho SV. Hệ thống tài liệu của thư viện
chưa cung cấp cho SV đầy đủ. Thời gian mở cửa thư viện
còn hạn chế trong giờ hành chính. Trong thời gian này, SV
phải tham gia hoạt động học tập trên lớp, tham gia các hoạt
động khác nên SV ít lên thư viện tìm kiếm tài liệu, tra cứu
thông tin Từ thực trạng trên, cần xây dựng thư viện với
hệ thống tài liệu về KNS đầy đủ, cần mở cửa thư viện đến
21h00’ tối để SV có thời gian lên thư viện tìm kiếm tài
liệu, tra cứu thông tin phục vụ cho hoạt động học tập,
nghiên cứu và tự giáo dục KNS.
3. Kết luận
Nghiên cứu thực trạng hoạt động giáo dục KNS cho
SV Trường Đại học Hồng Đức cho thấy, CBQL, GV và
SV đã nhận thức được sự cần thiết của hoạt động này. Bên
cạnh những nội dung đã thực hiện tốt, vẫn còn tồn tại một
số hạn chế trong công tác này. Cụ thể: Một bộ phận SV
chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo dục KNS đối
với sự phát triển nhân cách cá nhân; năng lực trong việc tổ
chức các hoạt động ngoại khóa chưa cao do chưa có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị trong tổ chức hoạt
động giáo dục, SV chưa có sự hợp tác và tham gia tích cực
vào các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục KNS chưa
phổ biến đến tất cả SV. Các hoạt động giáo dục được tổ
chức chưa lôi cuốn SV, chưa mang lại hiệu quả cao cho
rộng rãi SV nên những lần tổ chức sau thì SV không quan
tâm đến việc tham gia hoạt động. Một bộ phận SV rụt rè,
e ngại khi tham gia các hoạt động giáo dục, số SV có năng
lực học tập thì chú tâm vào việc học chuyên ngành, chưa
dành thời gian phù hợp cho việc tham gia vào các hoạt
động giáo dục KNS. Hoạt động giáo dục KNS cho SV
Trường Đại học Hồng Đức đã được tổ chức qua nhiều
hình thức, song vẫn chưa đạt được mục tiêu như mong
muốn và kết quả giáo dục KNS cho SV vẫn chưa cao. Vì
vậy, Nhà trường cần có những biện pháp giáo dục góp
phần nhằm nâng cao KNS cho SV, giúp các em vững tin
trong học tập, trong cuộc sống, tự lập thân, lập nghiệp.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Thanh Bình - Lê Thị Thu Hà - Đỗ Khánh
Năm - Nguyễn Thị Quỳnh Phương (2017). Giáo
trình chuyên đề Giáo dục kĩ năng sống. NXB Đại
học Sư phạm.
[2] Bộ GD-ĐT (2013). Một số vấn đề lí luận và thực
tiễn về lãnh đạo và quản lí giáo dục trong thời kì đổi
mới. NXB Văn hóa - Thông tin.
[3] Đặng Quốc Bảo - Phạm Đỗ Nhật Tiến - Đặng Bá
Lãm - Đặng Thị Thanh Huyền - Lê Phước Minh
(2016). Quản lí giáo dục Việt Nam: Đổi mới và phát
triển. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Phan Thanh Long (chủ biên, 2018). Giáo dục đa văn
hóa cho sinh viên các trường đại học phục vụ quá
trình hội nhập và toàn cầu hóa. NXB Giáo dục Việt
Nam.
[5] Trần Thị Minh Hằng (2011). Giáo dục kĩ năng sống
cho sinh viên hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số 261, tr
18-19; 26.
[6] Nguyễn Thị Thu Hà (2016). Thực trạng quản lí giáo
dục kĩ năng sống cho sinh viên các trường đại học
thành viên Huế. Tạp chí Giáo dục, số 397, tr 17-20.
[7] Nguyễn Trọng Tuân (2012). Giáo dục kĩ năng sống
cho sinh viên thông qua hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp. Tạp chí Giáo dục, số 293, tr 34-35; 42.
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SEMINAR...
(Tiếp theo trang 257)
[4] Mai Văn Thi (2018). Nghiên cứu chương trình môn
Xác suất - Thống kê ngành Kinh tế, Kĩ thuật ở
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam theo hướng dạy
học hỗ trợ nghề nghiệp cho sinh viên. Tạp chí Khoa
học Giáo dục, số 02, tr 108-111.
[5] Nguyễn Trọng - Tống Danh Đạo (2001). Cơ học cơ
sở (tập 1). NXB Khoa học và Kĩ thuật.
[6] Nguyễn Anh Tuấn - Lê Bá Phương (2014). Tăng
cường liên hệ với thực tiễn nghề nghiệp trong dạy
Toán cơ bản cho sinh viên Trường Đại học Công
nghiệp. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, số 59 (1), tr 3-11.
[7] Darling - Hammond, L (2006). Constructing 21st-
century teacher education. Journal of Teacher
Education, Vol. 57 (3), pp. 1-15.
[8] Kennedy, M. (1999). The role of preservice teacher
education. In L. Darling-Hammond & G. Sykes
(Eds.). Teaching as the learning profession:
Handbook of policy and practice (pp. 54-85). San
Francisco: Jossey-Bass.
[9] Jamesste wart (2002). Caculus concepts and
contexts. Brookscole.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33le_thi_thu_ha_9672_2148378.pdf