Thực trạng giáo dục giá trị sống cho học sinh Trung học Cơ sở thành phố Vũng Tàu, tỉnh bà Rịa - Vũng Tàu - Nguyễn Thị Sông Thương

Tài liệu Thực trạng giáo dục giá trị sống cho học sinh Trung học Cơ sở thành phố Vũng Tàu, tỉnh bà Rịa - Vũng Tàu - Nguyễn Thị Sông Thương: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 56-60 56 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU Nguyễn Thị Sông Thương - Trường Trung học cơ sở Nguyễn An Ninh, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Ngày nhận bài: 05/03/2019; ngày sửa chữa: 25/03/2019; ngày duyệt đăng: 27/03/2019. Abstract: Living values are rules, norms in society, formed and developed in the life. Therefore, the education of the right and appropriate life values for every citizen brings practical meaning, especially for students. The article clarifies the current status of lving value education for secondary school students in Vung Tau city, Ba Ria - Vung Tau province through a survey of 135 managers, teachers and 196 students. The results show that the lving value education for students in general has been concerned but there was still certain limitations; this result is the scientific basis to propose measures of lving ...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng giáo dục giá trị sống cho học sinh Trung học Cơ sở thành phố Vũng Tàu, tỉnh bà Rịa - Vũng Tàu - Nguyễn Thị Sông Thương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 56-60 56 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU Nguyễn Thị Sông Thương - Trường Trung học cơ sở Nguyễn An Ninh, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Ngày nhận bài: 05/03/2019; ngày sửa chữa: 25/03/2019; ngày duyệt đăng: 27/03/2019. Abstract: Living values are rules, norms in society, formed and developed in the life. Therefore, the education of the right and appropriate life values for every citizen brings practical meaning, especially for students. The article clarifies the current status of lving value education for secondary school students in Vung Tau city, Ba Ria - Vung Tau province through a survey of 135 managers, teachers and 196 students. The results show that the lving value education for students in general has been concerned but there was still certain limitations; this result is the scientific basis to propose measures of lving value education for students. Keywords: Living value, education, secondary school students. 1. Mở đầu Giá trị sống là những quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cá nhân thừa nhận là “rất quan trọng, rất cần thiết, rất có ý nghĩa, luôn mong đợi, có khả năng chi phối thái độ, xúc cảm, tình cảm, hành vi của cá nhân trong cuộc sống hằng ngày” [1; tr 32]. Bởi vậy, việc giáo dục giá trị sống đúng đắn, phù hợp cho mỗi công dân luôn có ý nghĩa thiết thực, đặc biệt là với học sinh (HS) trung học cơ sở (THCS) đang ở độ tuổi mà nhân cách, tính cách, quan điểm sống, kĩ năng, thói quen hành vi đang được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Có thể nói, việc trở thành những công dân tốt trong tương lai, có định hướng, lẽ sống đúng đắn,... phụ thuộc không nhỏ vào những giá trị sống mà các em được lĩnh hội khi còn học ở phổ thông. Chính vì vậy, vấn đề giáo dục giá trị sống cho HS phổ thông trong thời gian qua được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu [1], [2], [3], [4], [5],... Tuy vậy, thực tế hoạt động giáo dục giá trị sống cho HS THCS đang thực hiện có hiệu quả đến đâu, làm thế nào để nâng cao chất lượng của hoạt động này cần được tiếp tục nghiên cứu. Bài viết nghiên cứu thực trạng giáo dục giá trị sống cho HS THCS TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; đây sẽ là cơ sở để đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục giá trị sống cho HS THCS TP. Vũng Tàu. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Tổng số khách thể nghiên cứu là 135, trong đó có: 135 cán bộ quản lí (CBQL) và giáo viên (GV) đang làm việc ở các trường có thâm niên công tác từ 1 đến trên 15 năm; 196 HS từ lớp 6 đến lớp 9 ở các trường THCS trên địa bàn TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. - Phương pháp nghiên cứu: phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng để thu thập dữ liệu là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Bảng hỏi được xây dựng cho từng nhóm khách thể khác nhau, một bảng hỏi nhóm CBQL và GV và một bảng hỏi nhóm HS. Các phiếu điều tra đều đưa ra 5 mức độ để người tham gia trả lời phiếu khảo sát lựa chọn: Mức độ 1 là Hoàn toàn không thường xuyên/Hoàn toàn không cần thiết/Hoàn toàn không phù hợp/Hoàn toàn không hiệu quả; Mức độ 2 là Không thường xuyên/Không cần thiết/Không phù hợp/Không hiệu quả; Mức độ 3 là Tương đối thường xuyên/Tương đối cần thiết/Tương đối phù hợp/Tương đối hiệu quả; Mức độ 4 là Thường xuyên/Cần thiết/Phù hợp/Hiệu quả; Mức độ 5 là Rất thường xuyên/Rất cần thiết/Rất phù hợp/Rất hiệu quả. Số liệu sau khi thống kê được xử lí bằng phần mềm SPSS phiên bản 22.0 để xác định điểm trung bình (ĐTB), độ lệch chuẩn (ĐLC). - Thời gian tiến hành khảo sát: 24/09-10/10/2018. 2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng 2.2.1. Thực trạng nhận thức về mức độ cần thiết của các nội dung trong hoạt động giáo dục giá trị sống cho học sinh trung học cơ sở Hệ thống các giá trị sống cần được giáo dục cho HS THCS được đề cập dựa vào 12 giá trị sống căn bản của cá nhân mà Chương trình Giáo dục các Giá trị sống (LVEP) đã đề xuất, gồm: Hợp tác, Tự do, Hạnh phúc, Trung thực, Khiêm tốn, Yêu thương, Hòa bình, Tôn trọng, Trách nhiệm, Giản dị, Khoan dung và Đoàn kết (xem bảng 1 trang bên). Bảng 1 cho thấy, cả 2 nhóm đối tượng khảo sát đánh giá cao về mức độ cần thiết của việc giáo dục 12 giá trị sống cho HS THCS. Tất cả các giá trị sống đều được nhận xét có mức độ cần thiết khá cao trở lên (ĐTB > 3,4). Theo CBQL và GV, các giá trị sống có mức cần thiết cao nhất là “Trách nhiệm”, “Đoàn kết”, “Giản dị”, “Hạnh phúc”; còn theo HS VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 56-60 57 các giá trị cần thiết nhất là “Đoàn kết”, “Tôn trọng”, “Hòa bình”, “Tự do”. Kết quả bảng 1 cũng cho thấy, CBQL và GV cũng đánh giá mức độ cần thiết của hoạt động giáo dục giá trị sống cao hơn so với HS. Có thể thấy, kinh nghiệm sống và lứa tuổi đã đem lại những khác biệt này. Bảng 1. Đánh giá của CBQL, GV và HS về mức độ cần thiết của các nội dung trong hoạt động giáo dục giá trị sống cho HS THCS TT Giá trị sống CBQL và GV HS ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC 1 Hòa bình 3,47 0,73 4,17 1,08 2 Tôn trọng 4,25 0,60 4,32 0,73 3 Yêu thương 4,21 0,75 3,91 0,95 4 Khoan dung 4,27 0,50 3,65 0,84 5 Hạnh phúc 4,39 0,53 3,91 1,20 6 Trách nhiệm 4,56 0,56 3,98 1,00 7 Hợp tác 3,96 0,72 3,70 1,18 8 Khiêm tốn 4,28 0,67 3,80 1,19 9 Trung thực 4,34 0,60 3,77 1,20 10 Giản dị 4,43 0,54 3,45 1,16 11 Tự do 4,03 0,78 4,05 1,03 12 Đoàn kết 4,50 0,53 4,41 0,59 ( X ) 4,22 3,93 Ghi chú: 1 ≤ ĐTB ≤ 5 Ngoài ra, ĐLC của mỗi giá trị ở mẫu HS đều cao hơn ở mẫu CBQL và GV, nghĩa là sự lựa chọn của HS phân tán hơn CBQL và GV. Nói cách khác, CBQL và GV có quan điểm sống, đánh giá rõ ràng hơn, trong khi HS có nhiều hướng lựa chọn hơn. Như vậy, cả hai nhóm đối tượng khảo sát đều có nhận thức cao về mức độ cần thiết của hoạt động giáo dục giá trị sống cho HS THCS, trong đó nhóm CBQL và GV đề cao hơn và nhận thức rõ ràng, nhất quán hơn nhóm HS. 2.2.2. Thực trạng mức độ phù hợp của hệ thống nguyên tắc giáo dục giá trị sống cho học sinh trung học cơ sở Giáo dục giá trị sống cho HS THCS cần tuân theo những nguyên tắc nhất định, do đó cần phải đánh giá về mức độ phù hợp của các nguyên tắc giáo dục giá trị sống được sử dụng hiện nay (bảng 2). Kết quả ở bảng 2 cho thấy, các nguyên tắc được đánh phù hợp chủ yếu ở mức khá cao (3,4≤ĐTB≤4,2) và cao (4,2<ĐTB≤5). CBQL và GV đánh giá nguyên tắc phù hợp nhất là “Giáo dục giá trị sống theo nguyên tắc tập thể” (4,59), nguyên tắc ít phù hợp nhất là “Người thầy phải làm gương” (3,23). Trong khi đó, HS đánh giá nguyên tắc “Người thầy phải làm gương” là nguyên tắc phù hợp nhất (4,19), nguyên tắc “Giáo dục giá trị sống cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và càng sớm càng tốt” là nguyên tắc ít phù hợp nhất (3,18). Như vậy, với HS, muốn dạy các giá trị như tôn trọng, hợp tác, giản dị, trách nhiệm, yêu thương,... thì trước tiên đội ngũ tham gia giáo dục giá trị sống phải là tấm gương về sự biểu hiện các giá trị đó để HS noi theo. Bảng 2. Đánh giá của CBQL, GV và HS về mức độ phù hợp của các nguyên tắc giáo dục giá trị sống cho HS THCS TT Nguyên tắc giáo dục giá trị sống đối với HS THCS CBQL, GV HS ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC 1 Tương tác: Tổ chức cho HS tham gia các hoạt động và tương tác với GV trong quá trình giáo dục 3,38 0,72 3,41 1,45 2 Trải nghiệm: HS được đặt vào các tình huống để trải nghiệm và thực hành 3,59 0,59 3,82 1,22 3 Quá trình: Giáo dục giá trị sống không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình 4,09 0,70 3,39 1,29 4 Thay đổi hành vi: mục đích cao nhất của giáo dục giá trị sống là giúp HS thay đổi hành vi theo hướng tích cực 4,24 0,54 3,33 1,25 5 Thời gian, không gian: giáo dục giá trị sống cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và càng sớm càng tốt 4,24 0,70 3,18 1,18 6 Giáo dục giá trị sống theo nguyên tắc tập thể 4,59 0,68 3,40 1,16 7 Giáo dục giá trị sống bằng cách thuyết phục và phát huy tính tự giác 4,29 0,74 3,36 1,04 8 Tôn trọng nhân cách HS 3,68 0,74 3,66 1,04 9 Người thầy phải làm gương 3,23 0,88 4,19 1,19 ( X ) 3,93 3,53 Ghi chú: 1 ≤ ĐTB ≤ 5 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 56-60 58 Dữ liệu ở bảng 2 cũng có những nét tương đồng với bảng 1. Đó là mức độ phù hợp của mỗi nguyên tắc được mẫu CBQL và GV đánh giá cao hơn so với mẫu HS, trong khi ĐLC lại thấp hơn. Điều này cho thấy thái độ rõ ràng, nhất quán và sự tập trung cao của mẫu CBQL và GV trong việc nhìn nhận các nguyên tắc của việc giáo dục giá trị sống trong tương quan với mẫu HS. Trong quá trình giáo dục giá trị sống, điều quan trọng là cần giúp cho người được giáo dục nắm được hệ thống những giá trị sống cốt lõi và cần thiết cho sự phát triển nhân cách; biết được ý nghĩa to lớn của chúng đối với cuộc sống; có được những cảm xúc tích cực đối với chúng; từ đó, hình thành được ý thức và tình cảm thúc đẩy hành động theo. Do đó, để thực hiện có hiệu quả giáo dục giá trị sống cho HS trong các trường THCS phải phối hợp thực hiện tất cả các nguyên tắc. 2.2.3. Thực trạng mức độ thường xuyên giáo dục các giá trị sống cho học sinh trung học cơ sở Bảng 3. Đánh giá của HS về mức độ thường xuyên giáo dục các giá trị sống cho HS THCS STT Giá trị sống ĐTB ĐLC 1 Hòa bình 3,17 1,21 2 Tôn trọng 2,85 0,93 3 Yêu thương 2,87 1,29 4 Khoan dung 2,84 1,28 5 Hạnh phúc 2,88 1,00 6 Trách nhiệm 3,30 1,05 7 Hợp tác 3,27 1,17 8 Khiêm tốn 2,94 0,98 9 Trung thực 3,18 1,29 10 Giản dị 2,75 1,28 11 Tự do 3,26 1,51 12 Đoàn kết 3,38 1,45 Ghi chú: 1 ≤ ĐTB ≤ 5 Kết quả khảo sát ở bảng 3 cho thấy, theo đánh giá của HS, mức độ thường xuyên giáo dục tất cả 12 giá trị sống cho HS THCS chỉ ở mức trung bình (2,6 ≤ ĐTB < 3,4). Trong các giá trị sống, “Đoàn kết” (3,38) và “Trách nhiệm” (3,30) được HS đánh giá là giáo dục thường xuyên nhất; thể hiện trong nội dung của nhiều hoạt động tổ chức giáo dục giá trị sống cũng như lồng ghép trong nội dung các môn học khác. Thông qua việc tích cực tham gia các hoạt động tập thể, HS góp công sức của mình vào các hoạt động chung, giữ gìn vệ sinh, chấp hành pháp luật về giao thông, tham gia các hoạt động tuyên truyền, chăm sóc, bảo vệ thiên nhiên,... Chính việc được góp sức của mình vào các công việc chung đó đã hình thành nên phẩm chất trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với xã hội của HS. Giá trị “Đoàn kết” có lẽ được lồng ghép nhiều nhất trong việc giảng dạy môn Lịch sử. Dân tộc Việt Nam nhờ sự đoàn kết, đã tạo ra sức mạnh để chống lại các cuộc xâm lược cũng như chống đói nghèo. Kết quả khảo sát cũng cho thấy mức độ giáo dục giá trị sống “Giản dị” và “Khoan dung” được đánh giá ở mức ít thường xuyên nhất (ở mức 2,75 và 2,84). Qua điều tra sâu bằng phỏng vấn, quan sát, chúng tôi thấy rằng, đối với các giá trị sống, một số nội dung được giáo dục thường xuyên nhất là: Hòa bình là khi sống hòa thuận và không có sự đấu tranh với nhau; Tôn trọng bản thân sẽ giúp phát triển sự tự tin; Yêu thương có nghĩa là tôi có thể trở thành người tử tế, quan tâm và hiểu người khác; Việc thiếu khoan dung có nguyên nhân là sự đố kị và thiếu kiến thức; Hạnh phúc là khi ta sống có mục đích; Trách nhiệm là sử dụng toàn bộ khả năng của mình để tạo ra những sự thay đổi tích cực; Hợp tác sẽ tốt hơn khi thực hiện với nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau; Khiêm tốn giúp ta nhìn nhận bản thân đúng đắn, không ảo tưởng; Người trung thực luôn nhìn nhận khách quan, luôn tôn trọng và bảo vệ chân lí; Người có tính giản dị sẽ biết cách đối nhân xử thế đúng mực; Tự do là được làm điều mình muốn trong khuôn khổ pháp luật; Đoàn kết chính là sức mạnh của tập thể. Có thể thấy, mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị sống nhưng hầu hết các trường THCS hiện nay chỉ chú trọng đến giáo dục, truyền đạt tri thức chuyên môn như toán, ngữ văn, ngoại ngữ,...; giáo viên chưa có sự quan tâm đúng mức về giáo dục giá trị sống cho HS, do đó hoạt động giáo dục giá trị sống trên thực tế chưa thể hiện mục tiêu rõ ràng và chưa được thực hiện một cách thường xuyên. Chính vì vậy, hiệu quả của hoạt động này chưa cao; mức độ thẩm thấu, lĩnh hội của HS cũng chưa được như mong muốn vì ngay bản thân HS cũng chưa thực sự chú ý. Vấn đề này đặt ra là cần phải tăng cường tần suất và hiệu quả của các hoạt động giáo dục giá trị sống cho HS THCS ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 2.2.4. Thực trạng mức độ thực hiện và mức độ hiệu quả của các phương pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh trung học cơ sở Hiện nay, giáo dục giá trị sống có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau. Qua khảo sát, chúng tôi đưa ra đánh giá 10 phương pháp thường được sử dụng nhất ở Bà Rịa - Vũng Tàu (xem bảng 4 trang bên). VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 56-60 59 Bảng 4. Đánh giá của HS về mức độ thực hiện và mức độ hiệu quả của các phương pháp giáo dục giá trị sống cho HS THCS STT Phương pháp giáo dục giá trị sống cho HS THCS Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC 1 Nêu gương điển hình 3,28 1,30 2,98 1,14 2 Phương pháp thuyết trình, trao đổi, đàm thoại 3,13 0,84 2,96 0,78 3 Phương pháp động não 3,60 1,03 3,25 0,97 4 Phương pháp nghiên cứu tình huống 3,80 0,86 3,61 0,95 5 Phương pháp trò chơi 3,39 1,29 3,79 1,32 6 Phương pháp hoạt động nhóm 4,24 0,95 3,10 1,28 7 Phương pháp đóng vai 3,47 1,16 2,97 1,15 8 Phương pháp tưởng tượng/nội suy 3,14 1,11 2,83 1,19 9 Phương pháp bản đồ tư duy, sơ đồ hóa, mô hình hóa 3,06 1,22 3,45 0,95 10 Phương pháp trải nghiệm/thực hành 3,54 1,11 3,65 1,22 Ghi chú: 1 ≤ ĐTB ≤ 5 Kết quả bảng 4 cho thấy mức độ thực hiện và hiệu quả của các phương pháp mà các trường THCS trên địa bàn TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sử dụng để giáo dục giá trị sống cho HS khá cao (từ mức trung bình trở lên). Điều này chứng tỏ các GV đã biết sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau trong giáo dục giá trị sống cho HS THCS. Trong các phương pháp, giáo viên sử dụng nhiều nhất là “phương pháp hoạt động nhóm” (ĐTB = 4,24; ĐTB = 0.95). Kết quả phỏng vấn các giáo viên Tổng phụ trách Đội thiếu niên của các trường THCS trên địa bàn TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho thấy, các trường THCS trên địa bàn thường tổ chức các hoạt động tập thể, hoạt động phục vụ cộng đồng,... cho HS trong trường; do đó, phương pháp hoạt động nhóm thường được sử dụng nhiều nhất. Một trong những nguyên tắc giáo dục giá trị sống cho HS trong các trường THCS đó là phải tổ chức cho HS tham gia các hoạt động và tương tác với giáo viên trong quá trình giáo dục vì vậy mà phương pháp “thuyết trình, trao đổi, đàm thoại” và “tưởng tượng/nội suy” ít được sử dụng hơn các phương pháp khác (ở mức 3,13 và 3,14). Qua trao đổi với các giáo viên, chúng tôi nhận thấy, các giáo viên đều nhận thức được vai trò của phương pháp “bản đồ tư duy, sơ đồ hóa, mô hình hóa” trong giáo dục giá trị sống cho HS, nhưng do chưa được tập huấn nhiều nên GV cũng ít sử dụng phương pháp này hơn các phương pháp khác. Bảng 4 cũng cho thấy, các phương pháp đem lại hiệu quả cao khi giáo dục giá trị sống cho HS là “Phương pháp trò chơi” (3,79), “Phương pháp trải nghiệm/thực hành” (3,65), “Phương pháp nghiên cứu tình huống” (3,61). Các tình huống, hoạt động đưa ra khi sử dụng các phương pháp này thường gắn liền với thực tế, tăng cường thực hành, vì vậy HS tích cực tìm hiểu, dễ dàng tiếp thu hơn các phương pháp khác. 2.2.5. Thực trạng mức độ thực hiện và hiệu quả của các hình thức giáo dục giá trị sống Ở TP. Vũng Tàu, giáo dục giá trị sống cho HS THCS được thực hiện dưới 7 hình thức chính. Bảng 5 phản ánh kết quả khảo sát mức độ thực hiện và mức độ hiệu quả của 7 hình thức này. Bảng 5. Đánh giá của HS về mức độ thực hiện và mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục giá trị sống cho HS THCS STT Hình thức giáo dục giá trị sống cho HS THCS Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC 1 Giáo dục giá trị sống thông qua nội quy, quy định của trường, của lớp 3,30 1,22 3,11 1,02 2 Lồng ghép, tích hợp trong một số môn học: Ngữ văn, Giáo dục công dân, Lịch sử... 3,10 0,92 2,93 1,12 3 Lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục giá trị sống vào các hoạt động của trường: giáo dục ngoài giờ lên lớp, các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể, văn nghệ, thể thao, về nguồn, thiện nguyện... 3,49 1,21 3,23 1,13 4 Lồng ghép giáo dục giá trị sống cho HS trong các hoạt động Đoàn, Đội 3,52 1,21 3,40 0,94 5 Tự rèn luyện 3,55 1,25 3,01 1,47 6 Tổ chức các cuộc thi trong đó lồng ghép việc giáo dục giá trị sống cho HS 3,59 1,12 3,39 1,34 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 56-60 60 7 Tuyên truyền, giáo dục giá trị sống thông qua phương tiện thông tin đại chúng: website của trường, chương trình phát thanh măng non, đọc báo vào 15 phút đầu giờ...) 3,59 1,23 3,12 1,31 Ghi chú: 1 ≤ ĐTB ≤ 5 Bảng 5 cho thấy, GV đã sử dụng nhiều hình thức để giáo dục giá trị sống cho HS. Trong đó, những hình thức được sử dụng nhiều và thường xuyên là: “Tuyên truyền, giáo dục giá trị sống thông qua phương tiện thông tin đại chúng: website của trường, chương trình phát thanh măng non, đọc báo vào 15 phút đầu giờ...)” (3,59); “Tổ chức các cuộc thi trong đó lồng ghép việc giáo dục giá trị sống cho HS” (3,59); “Tự rèn luyện” (3,55); “Lồng ghép giáo dục giá trị sống cho HS trong các hoạt động Đoàn, Đội” (3,52). Hình thức ít sử dụng nhất là “Lồng ghép, tích hợp trong một số môn học: Ngữ văn, Giáo dục công dân, Lịch sử,...” (3,10). Về mức độ hiệu quả, các hình thức giáo dục giá trị sống cho HS hiện nay chủ yếu được đánh giá ở mức trung bình. Riêng hình thức “Lồng ghép giáo dục giá trị sống cho HS trong các hoạt động Đoàn, Đội” được đánh giá ở mức tốt. Các hoạt động, phong trào Đoàn, Đội ở các trường THCS đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần giáo dục giá trị sống; do đó, trong thời gian qua luôn được quan tâm, chỉ đạo sát sao nhằm đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động để phù hợp hơn với tâm lí lứa tuổi của HS. Với các hình thức khác, hiệu quả đạt được không cao một phần bởi đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo bài bản về giá trị sống, không có giáo viên chuyên trách thực hiện hoạt động này. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất và kinh phí thực hiện các hoạt động nằm ngoài việc lồng ghép vào môn học vẫn còn hạn chế, do đó việc tổ chức thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa, tổ chức các cuộc thi còn gặp nhiều khó khăn, khó phát động số lượng lớn HS tích cực tham gia các hoạt động. Ngoài ra, qua phỏng vấn, chúng tôi thấy rằng, khá nhiều HS chưa hiểu hết và sâu sắc về các giá trị truyền thống cũng như phổ quát của nhân loại trong các nội dung giá trị sống nói trên. Điều này cũng tác động không nhỏ đến nhận thức của HS khi tham gia và các hoạt động giáo dục giá trị sống. Như vậy, căn cứ vào mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục giá trị sống cho HS có thể thấy hiệu quả giáo dục giá trị sống nói chung hiện nay không cao; thực trạng này đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả thực hiện các hình thức giáo dục giá trị sống tại các trường THCS ở TP. Vũng Tàu. 3. Kết luận Hoạt động giáo dục giá trị sống cho HS ở các trường THCS trên địa bàn TP. Vũng Tàu được CBQL, GV và HS nhận thức cao về mức độ cần thiết, trong đó nhóm CBQL và GV đề cao và nhận thức rõ ràng, nhất quán hơn nhóm HS. Các nguyên tắc giáo dục giá trị sống hiện nay được đánh giá mức độ phù hợp khá cao, do đó, cần tiếp tục phát huy và hoàn thiện. GV cần lựa chọn và tăng cường sử dụng phối các phương pháp giáo dục giá trị sống đem lại hiệu quả cao như phương pháp trò chơi, trải nghiệm/thực hành, nghiên cứu tình huống. Các hình thức giáo dục giá trị sống cũng cần được xem xét đổi mới, tăng cường sự tham gia của các tổ chức giáo dục trong và ngoài nhà trường. Thực trạng này sẽ là cơ sở để đề xuất các biện pháp quản lí sao cho hiệu quả hoạt động giáo dục giá trị sống đem lại ngày càng cao, góp phần đào tạo, phát triển HS một cách toàn diện. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Công Khanh (2012). Phương pháp giáo dục giá trị sống - kĩ năng sống. NXB Đại học Sư phạm. [2] Lục Thị Nga - Vũ Thúy Hạnh (2011). Giáo dục giá trị sống, kĩ năng sống cho học sinh phổ thông. NXB Giáo dục Việt Nam. [3] Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Đinh Thị Kim Thoa - Đặng Hoàng Minh (2010). Giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [4] Phạm Thị Nga (2015). Quản lí hoạt động giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh các trường trung học cơ sở trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục, Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội. [5] Nguyễn Thị Thêm (2013). Một số biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh phổ thông hiện nay. Tạp chí Giáo dục, số 315, tr 25-26; 50. [6] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [7] Bộ GD-ĐT (2018). Thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26/12/2018 ban hành Chương trình giáo dục phổ thông.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf11nguyen_thi_song_thuong_8501_2148333.pdf
Tài liệu liên quan