Tài liệu Thực trạng chính sách dân tộc thông qua hệ thống hóa và đánh giá các nghiên cứu liên quan từ năm 1986 đến nay - Trịnh Quang Cảnh: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
11Số 24 - Tháng 12 năm 2018
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH DÂN TỘC THÔNG QUA
HỆ THỐNG HÓA VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY*
Trịnh Quang Cảnh
Học viện Dân tộc; Email: trinhquangcanh@cema.gov.vn
Từ năm 1986 đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chính sách dân tộc ở
những phạm vi, mức độ, thời gian và không gian khác
nhau. Kết quả nghiên cứu đã đạt được những thành
tựu hết sức quan trọng, tuy nhiên, vẫn còn những tồn
tại hạn chế nhất định cần khắc phục. Trước bối cảnh
thực tiễn nảy sinh đang đặt ra ở vùng dân tộc thiểu
số và miền núi,trong điều kiện mới đòi hỏi cần nghiên
cứu, tổng kết đánh giá những kết quả đã đạt được, chỉ
ra những hạn chế trong những công trình khoa học
đã nghiên cứu, làm cơ sở tiếp tục nghiên cứu bổ sung,
phát triển chính sách dân tộc, đáp ứng nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới.
Abstract
From 1986 up to now, there have been many
scientific...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng chính sách dân tộc thông qua hệ thống hóa và đánh giá các nghiên cứu liên quan từ năm 1986 đến nay - Trịnh Quang Cảnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
11Số 24 - Tháng 12 năm 2018
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH DÂN TỘC THÔNG QUA
HỆ THỐNG HÓA VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY*
Trịnh Quang Cảnh
Học viện Dân tộc; Email: trinhquangcanh@cema.gov.vn
Từ năm 1986 đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chính sách dân tộc ở
những phạm vi, mức độ, thời gian và không gian khác
nhau. Kết quả nghiên cứu đã đạt được những thành
tựu hết sức quan trọng, tuy nhiên, vẫn còn những tồn
tại hạn chế nhất định cần khắc phục. Trước bối cảnh
thực tiễn nảy sinh đang đặt ra ở vùng dân tộc thiểu
số và miền núi,trong điều kiện mới đòi hỏi cần nghiên
cứu, tổng kết đánh giá những kết quả đã đạt được, chỉ
ra những hạn chế trong những công trình khoa học
đã nghiên cứu, làm cơ sở tiếp tục nghiên cứu bổ sung,
phát triển chính sách dân tộc, đáp ứng nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới.
Abstract
From 1986 up to now, there have been many
scientific researches on ethnic policy in different
areas, levels, time and space. The results of the
research have achieved important achievements,
however, there are still some shortcomings and
certain limitations need to overcome. In the
context of emerging realities in ethnic minority and
mountainous areas, new conditions require research,
review and evaluation of achieved results, indicating
the constraints in the projects. scientific researches,
which will serve as a basis for further researching,
supplementing and developing national policies,
meeting the revolutionary tasks in the new period.
Thông tin chung
Ngày nhận bài: 1/10/2018
Ngày phản biện: 22/10/2018
Ngày duyệt đăng: 7/11/2018
Title
CURRENT STATUS OF ETHNIC POLICY
THROUGH SYSTEMATIZATION AND
ASSESSMENT OF RELATED RESEARCH
FROM 1986 TO PRESENT
Từ khóa
Kết quả nghiên cứu; Nghiên cứu chính sách
dân tộc; Hệ thống hóa các nghiên cứu về
chính sách dân tộc ở Việt Nam; Định hướng
giải pháp xây dựng và tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc; Thực trạng chính sách
dân tộc.
Keywords
Research results; Ethnic policy research;
To systematize studies on ethnic policies in
Vietnam; Orienting solutions for building
and organizing the implementation of ethnic
policies; Current status of ethnic policy.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay
(1986), đã có nhiều công trình nghiên cứu về chính
sách dân tộc, các công trình đã cung cấp những cứ
luận khoa học làm cơ sở cho việc tiếp tục nghiên
cứu xây dựng, hoàn thiện chính sách dân tộc ở Việt
Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu còn bộc
lộ những hạn chế nhất định.
Các nghiên cứu về chính sách dân tộc (CSDT)
từ năm 1986 đến nay được phân theo 3 nội dung với
tổng số 975 nghiên cứu. Trong đó, các nghiên cứu
chính sách dân tộc theo lĩnh vực (611 nghiên cứu);
các nghiên cứu chính sách theo vùng (242 nghiên
cứu); các nghiên cứu chính sách dân tộc theo tộc
người (122 nghiên cứu).
Có thể thấy rằng, các nghiên cứu thời gian qua
chủ yếu quan tâm đến các lĩnh vực xóa đói giảm
nghèo (88 nghiên cứu) và văn hóa xã hội (120
nghiên cứu) vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Vấn
đề môi trường và biến đổi khí hậu đang ngày càng
tác động mạnh mẽ đến đời sống đồng bào dân tộc
thiểu số, vì vậy cũng đã có nhiều nghiên cứu quan
tâm đến lĩnh vực này (108 nghiên cứu).
Các nghiên cứu về chính sách dân tộc khá đa
dạng, không chỉ tập trung vào các lĩnh vực mà còn
tập trung nghiên cứu để cung cấp cơ sở khoa học
phục vụ xây dựng chính sách theo vùng. Trong đó
những vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn luôn nhận
được sự quan tâm, nghiên cứu của các cơ quan, nhà
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp quốc gia: “Hệ thống hóa và đánh giá các nghiên
cứu về chính sách dân tộc của Việt Nam từ năm 1986 đến nay”. Mã số: CTDT 06.16/16-20.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
12 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
khoa học. Trong số 242 nghiên cứu chính sách theo
vùng thì nhiều nhất là nghiên cứu chính sách dân
tộc ở vùng Tây Nguyên (145 nghiên cứu); Tây Bắc
(33 nghiên cứu)... Trong khuôn khổ, phạm vi bài
viết, tác giả tổng hợp một số kết quả, đánh giá về
thực trạng chính sách thông qua hệ thống hóa và
đánh giá các nghiên cứu về chính sách dân tộc từ
năm 1986 đến nay ở Việt Nam.
1. Các nghiên cứu đã chỉ ra một số bất cập,
hạn chế trong xây dựng và thực hiện chính sách
dân tộc
Thứ nhất, về xây dựng và tổ chức thực hiện
chính sách dân tộc
Các vấn đề đặt ra trong xây dựng và thực hiện
CSDT liên quan đến yêu tố về nguồn lực, hoạt động
điều phối, năng lực trong thực hiện CSDT được
nhắc nhiều hơn cả. Mặc dù, hệ thống CSDT từ năm
1986 đến nay được đánh giá là khá đầy đủ, hoàn
thiện nhưng có hạn chế, tồn tại luôn được chỉ ra
trong các nghiên cứu đó là sự chồng chéo của hệ
thống CSDT và chính điều này đang gây cản trở
trong việc thực hiện các mục tiêu của các CSDT.
Giảm sự chồng chéo trong hệ thống CSDT đang
là một trong những vấn đề cần được ưu tiên trong
CSDT hiện nay.
Sự chồng chéo trong hệ thống CSDT dẫn tới
việc điều phối chính sách này trên thực tế gặp khó
khăn. Các CSDT được thiết kế theo ngành, lĩnh vực
khá độc lập với nhau, thiếu sự gắn kết các chính
sách trong một ngành (giáo dục, y tế...) và giữa các
ngành khác nhau tạo ra tính phân tán. Chồng chéo
trong chính sách, không thể thực hiện việc điều phối
chung để đạt được hiệu quả một cách toàn diện và
tổng thể1. Theo báo cáo rà soát các chính sách dân
tộc và đề xuất xây dựng hệ thống CSDT đến năm
2020 do Ủy ban Dân tộc (UBDT) và Chương trình
phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) thực hiện cho
thấy: Hệ thống CSDT đến năm 2011, có tổng cộng
187 chính sách khác nhau ở cấp độ Trung ương do
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành. Trong
đó, số lượng Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ
ban hành là 44 văn bản, đế cập gần như toàn diện
các vấn đề từ giảm nghèo, y tế, giáo dục, dạy nghề,
sản xuất, tín dụng... Riêng với 143 Quyết định được
Thủ tướng Chính phủ ban hành hiện đang còn hiệu
lực và phân chia thành 2 nhóm đó là (i) nhóm phát
triển kinh tế - xã hội theo vùng (46 Quyết định).
(ii) Nhóm phát triển kinh tế - xã hội theo lĩnh vực,
theo ngành (97 Quyết định). Trong đó, nhiều nhất
là nhóm chính sách về phát triển giao thông vận tải,
tín dụng.
Việc chồng chéo về CSDT thể hiện ở ba khía
cạnh chính là nội dung, đối tượng thụ hưởng và
thời gian thực hiện chính sách trên cùng một địa
bàn. Ví dụ, về nội dung, có tới 6 chính sách hỗ trợ
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Về
1. Ủy ban Dân tộc, UNDP& Irish aid, (2017), Báo cáo Tổng quan thực trạng
kinh tế - xã hội của 53 Dân tộc thiểu số dựa trên kết quả phân tích số liệu điều
tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2015, tr 35.
đối tượng thụ hưởng, hộ nghèo dân tộc thiểu số
(DTTS) ở Đồng bằng sông Cửu Long là nhóm đối
tượng hưởng nhiều chính sách nhất về giảm nghèo,
do ngoài chính sách chung, còn có một chính sách
riêng, mang tính đặc thù theo Quyết định 74/2008/
QĐ-TTg ngày 09/06/2008 của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất
sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS
nghèo, đời sống khó khăn vùng Đồng bằng sông
Cửu Long giai đoạn 2008-2010 và nay là Quyết
định số 29/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013. Riêng
vấn đề chồng chéo về thời gian thực hiên chính
sách trên cùng một địa bàn thể hiện rất rõ qua chính
sách về nhà ở. Thống kê của báo cáo này cho thấy,
có tới 6 chính sách hỗ trợ về nhà ở như 134/2004/
QĐ-TTg, Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg, Quyết
định số 167/2008/QĐ-TTg, Quyết định số 74/2008/
QĐ-TTg, Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP...
Thứ hai, vấn đề vốn và phân bổ nguồn lực
Theo quy định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu
trách nhiệm huy động, phân bổ và quản lý các
nguồn lực đầu tư trong khi đó với các nguồn vốn sự
nghiệp do Bộ Tài chính quản lý và phân bổ. Điều
này đồng nghĩa, các cơ quan quản lý nhà nước về
công tác dân tộc như Ủy ban Dân tộc không có vai
trò gì đáng kể trong phân bổ các nguồn lực tài chính
cho các CSDT. Chình vì vậy, trong những năm qua
một số CSDT được xây dựng trong bối cảnh nguồn
lực không rõ ràng và hạn chế cho nên các nguồn lực
tuy được bố trí nhưng ở mức thấp. Báo cáo Nghiên
cứu rà soát chính sách dân tộc và đề xuất xây dựng
hệ thống CSDT đến năm 2020 đã chỉ ra có hàng
loạt các chính sách tín dụng cho người nghèo rơi
vào tình trạng này. Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg
ngày 5/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc
cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào
DTTS đặc biệt khó khăn. Theo chính sách thì vốn
vay cho phát triển sản xuất mặc dù có lãi 0% nhưng
định mức vay chỉ 5 triệu đồng/hộ. Theo một nghiên
cứu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và
UNDP thì chỉ có khoảng 20% số hộ nghèo được vay
vốn vì nguồn vốn vay quá hạn chế. Tương tự vậy,
đối với chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo
theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg qua đánh giá
chỉ có 30% người dân tiếp cận được các nguồn vốn
của ngân hàng Chính sách xã hội2. Ngay cả đối với
chương trình 30a, theo báo cáo này thì để đầu tư
đủ hệ thống cơ sở hạ tầng cho một huyện, kinh phí
cần khoảng 3.000 tỷ đồng3. Mặc dù, mức đầu tư
này tính tới năm 2020 nhưng kinh phí qua các năm
2009, 2010 mức kinh phí nhà nước đầu tư mới chỉ
đạt 25 tỷ đồng, quá thấp so với nhu cầu và có thể
dẫn tới nhiều tác động không tích cực trong việc đạt
các mục tiêu giảm nghèo ở các huyện 30a. Hầu hết
phân bổ nguồn lực cho các CSDT thường tập trung
2. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và UNDP, (2009), Đề xuất khung
chính sách hỗ trợ giảm nghèo cho các địa phương có tỷ lệ nghèo cao ở Đồng
bằng Sông Cửu Long.
3. Ủy ban Dân tộc và UNDP, (2012), Báo cáo nghiên cứu rà soát các chính
sách dân tộc và đề xuất xây dựng hệ thống chính sách dân tộc thiểu số đến
năm 2020, tr 31.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
13Số 24 - Tháng 12 năm 2018
nhiều nhất là đầu tư cho cơ sở hạ tầng, điển hình
là trong chương trình mục tiêu quốc gia (MTQD)
về giảm nghèo và chương trình 135. Theo báo cáo
đánh giá của Chương trình MTQG về giảm nghèo và
Chương trình 135 thì giai đoạn 2011-2016 tập trung
khoảng 60% nguồn lực của các dự án cho phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng và định canh, định cư.
Theo đánh giá, ngoài bố trí nguồn lực còn hạn
chế, nguồn lực cho việc thực hiện chính sách dân
tộc thường bố trí chậm so với kế hoạch hàng năm.
Ví dụ, Quyết định số 1672/QĐ-TTg ngày 26 tháng
9 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội vùng các
dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao”. Hầu hết
phân bổ nguồn vốn thực hiện chính sách này còn
chậm, có năm không bố trí nguồn vốn để thực hiện
chính sách này.
Thứ ba, vấn đề về năng lực cán bộ thực hiện
chính sách dân tộc
Hiệu quả của các chính sách dân tộc, ngoài sự
phụ thuộc vào nguồn lực, cách tiếp cận và phương
pháp thực hiện chính sách dân tộc thì còn phụ thuộc
rất nhiều tới năng lực của cán bộ làm chính sách
dân tộc ở các cấp và phụ thuộc vào quản lý nhà
nước về công tác dân tộc. Những vấn đề có liên
quan tới năng lực của cán bộ làm chính sách dân
tộc ở cơ sở đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả
thực hiện chính sách dân tộc. Vấn đề năng lực cán
bộ thực hiện chính sách dân tộc được xuất hiện liên
tục trong các khuyến nghị và giải pháp chỉ ra trong
các nghiên cứu. Cụ thể, có nghiên cứu chỉ ra rằng
“Một số cán bộ cơ sở chỉ chú trọng thực hiện chính
sách dễ làm, có lợi cho bản thân và gia đình, không
tích cực thực hiện các chính sách ít có lợi cho bản
thân và gia đình, khó triển khai”. Đồng thời đó là sự
phân cấp, phân quyền cho cán bộ cũng ảnh hưởng
tới việc triển khai chính sách “Nhiều cán bộ cơ sở
vẫn còn tư tưởng ngại phân cấp cho cấp dưới, nhất
là việc phân cấp làm chủ đầu tư dự án”4.
Thứ tư, chính sách chưa phù hợp với đặc điểm
vùng và người dân tộc thiểu số
Đây cũng là một trong những trở ngại của chính
sách dân tộc được chỉ ra nhiều trong các nghiên
cứu. Như chúng ta biết vùng DTTS có những đặc
thù về địa hình, khí hậu và người DTTS có những
đặc điểm rất đặc thù trong tập quán, thói quen sinh
hoạt cũng như sản xuất. Do đó, các chương trình,
chính sách không tính kỹ đến đặc điểm này sẽ
không khả thi. Có nghiên cứu đã chỉ ra sự không
phù hợp đó trong chính sách 135 giai đoạn II, “Hợp
phần tập huấn có sự không phù hợp đó là mô hình
thí điểm làm ở diện tích có điều kiện tương đối
thuận lợi, trong khi thực tế nhiều mảnh ruộng ở địa
hình rất cao, rất manh mún, thiếu nước tưới, không
thể gùi phân lên cao, chỉ thực hiện bón phân 1 lần/
vụ; không đủ vốn để đầu tư theo yêu cầu kỹ thuật;
một số hộ có nội lực nhưng thấy quá vất vả, khó
4. Lê Ngọc Thắng, (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách dân
tộc, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
khăn nên không làm theo. Hay chương trình giảm
nghèo phát máy gặt lúa nhưng không sử dụng được
do không phù hợp với địa hình và điều kiện canh tác
của địa phương. Chính sách hỗ trợ việc làm chưa
phù hợp với tập quán không thích xa nhà của người
DTTS, do vậy nỗ lực xuất khẩu lao động không
thực hiện được...”5. Có thể nói, sự phù hợp là điều
quan trọng giúp cho việc thực thi chính sách hiệu
quả, câu chuyện được bàn nhiều trong các nghiên
cứu, chính sách có ý tưởng hay chưa hẳn đã phù
hợp, cần đặt sự phù hợp, tập quán, thói quen trước
khi nghĩ đến những giải pháp về mặt chính sách cho
đồng bào DTTS.
Thứ năm, hiệu quả chính sách chưa cao
Mặc dù hệ thống chính sách đã bao phủ toàn
bộ đời sống kinh tế xã hội vùng DTTS nhưng thực
tế hiệu quả chính sách vẫn chưa như mong đợi.
Theo các báo cáo nghiên cứu thì người DTTS vẫn
là thuộc nhóm yếu thế, thể hiện ở chỗ: (i) Có sự cải
thiện nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia
tăng, nghèo đói dai dẳng trong các DTTS vẫn là vấn
đề nổi cộm. (ii) Việc tiếp cận rất hạn chế đối với các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế nhất là các dịch vụ
y tế miễn phí cho người DTTS.
Như vậy, các nghiên cứu về CSDT trong thời kỳ
đổi mới đề cập đến khá nhiều lĩnh vực, từ các vấn
đề lý thuyết, quan điểm đến các vấn đề thực tiễn,
đặc biệt là các vấn đề mới đang nảy sịnh, trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ nghèo đói
và giảm nghèo đến vấn đề đất đai; từ tái định cư
khi xây dựng các công trình trọng điểm đến giải
pháp sinh kế; từ y tế đến giáo dục; từ quan hệ dân
tộc đến bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa; từ
an sinh xã hội đến đời sống tôn giáo và sự xuất hiện
các tôn giáo mới; từ môi trường đến chất lượng dân
số; từ hệ thống chính trị đến công tác đào tạo cán
bộ; từ biên giới cho đến hải đảo liên quan đến quốc
phòng, an ninh... Xuất phát từ yêu cầu hỗ trợ, thúc
đẩy nghiên cứu cơ bản, Quỹ Khoa học công nghệ
Quốc gia cũng đã hỗ trợ triển khai hàng loạt các đề
tài về vấn đề này. Mặc dù vậy, chính sách dân tộc
cũng còn nhiều vấn đề cần được quan tâm, nghiên
cứu sâu hơn trong tình hình và bối cảnh mới.
2. Các nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề cần
quan tâm nghiên cứu và ban hành chính sách
Thứ nhất, về thành phần dân tộc trong mối
quan hệ tổ chức thực hiện chính sách dân tộc
Trong nghiên cứu chính sách dân tộc chúng ta
cần nhận thức và tái nhận thức rõ vấn đề này việc
tôn trọng các dân tộc trước hết phải tôn trọng sự
hiện diện của các dân tộc. Cần được xem xét lại
bảng danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam.
Bản danh mục hiện nay đang sử dụng đã có cách
đây gần 40 năm - là một trong những thành tựu
quan trọng của giới khoa học xã hội nói chung và
ngành dân tộc học nói riêng. Hiện nay, do xã hội
5. Ủy ban Dân tộc và UNDP, (2012), Báo cáo nghiên cứu rà soát các chính
sách dân tộc và đề xuất xây dựng hệ thống chính sách dân tộc thiểu số đến
năm 2020, tr.39
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
14 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
đã phát triển, trình độ dân trí ngày càng cao, tự ý
thức dân tộc, nhóm địa phương càng phát triển và
vấn đề này luôn gắn với chính sách dân tộc, tổ chức
thực hiện chính sách dân tộc nên việc xem xét lại
bản danh mục thành phần các dân tộc ở nước ta
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn cho việc hoạch
định chính sách dân tộc, đáp ứng hài hòa lợi ích tộc
người và lợi ích quốc gia.
Thứ hai, cần nghiên cứu và quán triệt chính
sách phát triển tộc người đối với các tộc người
thiểu số, giải quyết hài hòa giữa lợi ích tộc người
và lợi ích quốc gia, giữa phát triển kinh tế - xã hội
và đảm bảo quốc phòng, an ninh
Từ những vấn đề dân tộc luôn được coi là vấn đề
chiến lược nặng về tính chất chính trị trong các giai
đoạn cách mạng trước đây ở nước ta, nay chuyển
sang vấn đề chiến lược của chính sách dân tộc mà
trọng tâm là về kinh tế và phát triển. Vấn đề tôn
trọng, coi trọng các dân tộc, đời sống, sinh hoạt của
họ cả trong nhận thức lẫn trong việc làm từ chính
sách đầu tư, hoạch định các chính sách, đến xây
dựng và triển khai các chương trình, dự án là hết
sức cần thiết.
Thứ ba, đa dạng hóa chính sách trong phát triển
Từ thực tiễn của đất nước đa dân tộc, mỗi dân
tộc có những đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội, văn
hoá riêng; điều kiện tự nhiên mỗi vùng, mỗi dân tộc
một khác dẫn đến việc chính sách dân tộc và những
chủ trương, biện pháp thực hiện các chính sách đó
phải rất đa dạng, phù hợp với từng vùng, từng dân
tộc hay nhóm dân tộc; tạo ra nhiều cách lựa chọn,
nhiều cách đi, nhiều cách giải quyết đối với mỗi vấn
đề, mỗi vùng, mỗi dân tộc.
Thứ tư, đánh giá tổng kết chính sách dân tộc
trong vấn đề dân tộc
Cho đến thời điểm hiện nay, việc đẩy mạnh công
tác nghiên cứu, phân tích chính sách và các biện
pháp thực hiện các chính sách để rút ra những bài
học về thành công trong thực hiện chính sách dân
tộc, đặc biệt phân tích và rút ra những bài học kinh
nghiệm trên thực tiễn phải trả giá về cách triển khai
các biện pháp rập khuôn không phù hợp với thực
tiễn vùng dân tộc và từng dân tộc đã trở thành vấn
đề cấp thiết.
Thứ năm, nghiên cứu các chính sách về bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc phục
vụ phát triển bền vững
Văn hoá và các giá trị truyền thống (không phải
chỉ là giáo dục, hay các hình thức bên ngoài của
văn hoá như trang phục, nghi lễ, các kiểu nhà ở...)
của các dân tộc cần được coi là động lực phát triển
kinh tế - xã hội ở các dân tộc, vùng dân tộc thiểu số
và miền núi. Văn hóa như Đảng ta xác định là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc
tế. Đây là một quan điểm cốt lõi và xác định vị trí
hàng đầu của văn hóa dân tộc. Thực thể tinh thần,
di sản vật chất và tinh thần cần được tôn trọng và
phát huy đầy đủ không phải chỉ trên lĩnh vực văn
hoá mà còn có ý nghĩa sâu rộng trong tất cả các lĩnh
vực, các ngành. Việc xây dựng bất cứ chương trình,
dự án phát triển nào cũng cần phải quán triệt quan
điểm thực sự kế thừa và phát triển các giá trị văn
hoá truyền thống các dân tộc, của mỗi dân tộc; phải
có cái nhìn xuất phát từ nền văn hoá của mỗi dân
tộc, mỗi vùng. Chúng ta cần có quan điểm nghiên
cứu và kế thừa một cách thực sự những ứng xử văn
hoá, những kiến thức, tri thức địa phương, hệ thống
quản lý cộng đồng truyền thống của mỗi dân tộc
trong phát triển .
Thứ sáu, về chủ thể văn hóa và chủ thể phát
triển trong quá trình xây dựng và triển khai
chính sách
Thực tế phát triển cho thấy, chủ thể dân tộc thiểu
số, chủ thể kinh tế, xã hội, văn hoá có vai trò, tiếng
nói quyết định đối với sự phát triển của mình thông
qua các chương trình, dự án và do đó trong chiến
lược phát triển hiện nay phải xây dựng quan niệm
về chủ nhân, chủ thể văn hoá. Quan niệm và chỉ đạo
thực hiện phải làm cho thực sự người dân có tiếng
nói quyết định, không áp đặt dưới mọi hình thức đối
với vấn đề phát triển của từng dân tộc, từng cộng
đồng. Vấn đề quan trọng chủ yếu là chủ thể phải tự
nhận thức, tự thấy nhu cầu phải đổi mới, thay đổi và
phát triển. Nhà nước, các tổ chức xã hội, phi chính
phủ không được gò ép, làm thay, áp đặt. Xây dựng
tự ý thức của mỗi người dân đối với sự phát triển là
yêu cầu sống còn đối với phát triển của mỗi dân tộc.
Thứ bảy, đánh giá và xây dựng cơ sở lý luận
cho việc thiết kế hệ thống các chương trình quốc
gia, các dự án trong mục tiêu phát triển trước mắt
cũng như lâu dài
Cần phải tập trung: Xây dựng hệ thống quan
điểm lý luận, chính sách phát triển lâm nghiệp; vấn
đề quản lý và sử dụng đất ở vùng dân tộc thiểu số
và miền núi; nghiên cứu, đề xuất chính sách giải
quyết vấn đề phát triển thị trường; xây dựng hệ
thống quan điểm lý luận, chính sách và giải pháp về
an sinh xã hội, vấn đề sức khoẻ cộng đồng, y tế phù
hợp với điều kiện các dân tộc thiểu số và miền núi.
Vấn đề đưa tiến bộ kỹ thuật vào vùng dân tộc trong
điều kiện cần được nghiên cứu phù hợp với môi
trường địa lý tự nhiên, điều kiện sinh thái và con
người các dân tộc thiểu số và miền núi. Xây dựng
các chính sách trong chương trình xây dựng nông
thôn mới đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi,
không thể dập khuôn, máy móc.
Thứ tám, nghiên cứu, xây dựng chiến lược
phát triển con người và đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số, đa dạng hoá việc xây dựng và đào
tạo nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số để có thể
phát huy có hiệu quả nội lực của các dân tộc
Vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực
là một trong những vấn đề có nội dung tổng hợp,
liên quan đến nhiều lĩnh vực, có vị trí quan trọng
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
15Số 24 - Tháng 12 năm 2018
Miền núi và vùng các dân tộc thiểu số là khu vực
giàu tiềm năng và có vị trí đặc biệt trong quá trình
công nghiệp hóa nhưng cũng có không ít khó khăn
trong quá trình phát triển. Việc giải bài toán phát
triển nguồn nhân lực không thể thực hiện một cách
đơn tuyến từng lĩnh vực mà điều quan trọng là tạo
ra các điều kiện và cơ hội để phát triển con người
một cách toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Song
song với việc đào tạo, quản lý và sử dụng nguồn
nhân lực được đào tạo cũng có vai trò và vị trí
không kém. Cần làm rõ cơ chế chính sách trong sử
dụng nguồn nhân lực theo hướng không tách rời
giữa đào tạo và sử dụng khi nhà nước đầu tư để phát
triển nguồn nhân lực tại chỗ. Vấn đề đặt ra ở đây là
đầu tư có kiểm soát, đầu tư có định hướng gắn với
địa chỉ và nhu cầu sử dụng, đặc biệt là nguồn nhân
lực có trình độ cao. Trên thực tế chúng ta chưa có
cơ chế chính sách về vấn đề này và trong một thời
gian dài đã buông lỏng trong quản lý sử dụng nguồn
nhân lực trình độ cao.
3. Một số khuyến nghị
Qua hệ thống hóa và đánh giá các nghiên cứu về
chính sách dân tộc từ năm 1986 đến nay cho thấy,
ngoài những kết quả đạt được, chính sách dân tộc
trong thời gian tới cần phải đổi mới trong xây dựng
và thực thiện chính sách theo hướng cụ thể như sau:
Một là, đổi mới cơ quan quản lý nhà nước về
công tác dân tộc theo hướng tập trung đầu mối trong
xây dựng, kiểm tra, đánh giá và thực hiện chính
sách dân tộc để giảm sự chồng chéo chính sách.
Hai là, đổi mới chính sách dân tộc theo hướng
tập trung nguồn lực, tránh dàn trải, manh mún, phân
tán nguồn lực. Lựa chọn, tập trung vào những vấn
đề trọng yếu, có tính lan tỏa cao. Trong thời gian tới
cần xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia về phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào
DTTS. Bổ sung luật ngân sách trong đó quy định tỷ
nhất định để hỗ trợ phát triển vùng DTTS.
Ba là, chính sách dân tộc cần đổi mới theo hướng
trao quyền, cơ hội cho người dân tộc thiểu số. Xây
dựng cơ chế, chính sách ràng buộc tái đầu tư đối
với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh
ở vùng DTTS, nhất là các doanh nghiệp khai thác
tài nguyên, khoáng sản, thủy điện ở vùng DTTS và
miền núi.
Bốn là, chính sách tập trung nâng cao năng lực
để đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận các cơ hội
phát triển, nội lực ở vùng DTTS. Các chính sách
cần phải phát huy được tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, từng dân tộc. Những lợi thế từ rừng,
sông nước...
Bốn là, việc xây dựng và thực hiện chính sách
dân tộc cần phải đẩy mạnh phân cấp, phân quyền
cho địa phương, vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời
chính sách phải giảm cho không mà chuyển sang hỗ
trợ cho vay, có điều kiện.
Năm là, chính sách phát triển kinh tế, giảm
nghèo cần thực hiện đồng bộ từ sản xuất điến tiêu
thụ sản phẩm. Tiếp cận chuỗi giá trị trong sản xuất,
khuyến khích và có chính sách thu hút, ưu đãi các
doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm do đồng
bào sản xuất.
Khuyến nghị một số chính sách cụ thể:
Thứ nhất, thực hiện đồng bộ chính sách phát
triển theo vùng dân tộc và chính sách phát triển
theo tộc người tránh trùng lặp, manh mún
Trước hết cần đẩy mạnh và khẩn trương nghiên
cứu về chính sánh phát triển đồng bộ theo vùng dân
tộc, chính sách phát triển theo tộc người thiểu số
tránh trùng lặp, manh mún trong xây dựng chính
sách và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc giữa
các bộ nghành.
Thứ hai, cần có các chính sách dân tộc nhằm
phát triển nâng cao thể lực, môi trường sống và
sinh tồn cho các tộc người
Giải pháp này gắn liền với những chủ trương
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội như làm tốt
chương trình xóa đói, giảm nghèo một cách căn
bản và bền vững, từng bước cải thiện đời sống con
người; thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo hiểm
xã hội, đẩy mạnh công tác kế hoạch hóa gia đình,
đẩy lùi các tệ nạn và tập quán không phù hợp; xây
dựng nếp sống vệ sinh.
Tập trung mọi nguồn lực để giải quyết bền vững
vấn đề định canh định cư đối với một số tộc người,
gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội,
quốc phòng-an ninh.
Nghiên cứu, xây dựng mô hình thiết chế văn hóa
ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vận dụng quy
chế văn hóa cơ sở cho phù hợp với đặc điểm của
từng vùng dân tộc thiểu số, giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, truyền thống
và đổi mới.
Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ về chăm
sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em trên cơ sở đặc thù
từng vùng và từng dân tộc, ngăn chặn nguy cơ suy
thoái giống nòi (trước hết là đầu tư cho hệ thống
nhà trẻ mẫu giáo về cơ sở vật chất về điều kiện nuôi
dạy, đảm bảo chế độ dinh dưỡng để con em các dân
tộc có điều kiện cơ hội phát triển về thể lực với
những chính sách cụ thể).
Tạo điều kiện để trẻ em và thanh thiếu niên được
hưởng thụ văn hóa và phát triển trong môi trường
văn hóa (cơ sở vật chất cho các hoạt động thể thao,
vui chơi giải trí, nước sạch, vệ sinh ...); đưa chương
trình giáo dục môi trường vào trong nhà trường để
học sinh sớm hình thành kỹ năng và nhận thức về
vai trò của môi trường đối với sức khỏe con người,
yêu cầu về giữ gìn môi trường (cả môi trường tự
nhiên và xã hội), tăng cường lòng tự hào về quê
hương xứ sở.
Thứ ba, các chính sách dân tộc nhằm thực hiện
phát triển giáo dục đào tạo vùng dân tộc thiểu số
Nhằm tạo sự chuyển biến căn bản, nâng cao dân
trí để sớm hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
16 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
nhân kỹ thuật và tầng lớp trí thức người dân tộc
thiểu số đủ khả năng giải quyết những vấn đề phát
triển kinh tế-xã hội trên quê hương của họ thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm:
- Nhanh chóng khắc phục hiện tượng thiếu
trường lớp và giáo viên các cấp học ở vùng dân tộc
và miền núi, để sớm đạt chuẩn về cơ sở vật chất và
chất lượng giáo dục.
- Bằng mọi cách phổ cập rộng rãi tiếng Việt
trong đời sống. Tại một số vùng như Tây Nguyên
phải kết hợp song ngữ và triển khai cho học sinh nói
và viết tiếng Việt từ cấp tiểu học và do đó phải xây
dựng và đổi mới chương trình tiếng Việt cho phù
hợp, tránh hiện tượng mù chữ, mù nghĩa tiếng phổ
thông để từng bước đưa các thông tin truyền thông
vào cuộc sống.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả và chất lượng
của các trường dân tộc nội trú các cấp. Trước mắt
có thể đáp ứng ít nhất 50% con em các dân tộc được
tham gia hệ đào tạo này. Song song với việc mở
rộng về quy mô phải chú trọng nâng cao chất lượng
đào tạo, tránh hiện tượng chạy đua thành tích và
con số. Chính hệ thống các trường này là cơ sở để
tạo nguồn đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. Mở
rộng và phát triển hệ thống trường dạy nghề trên
cơ sở căn cứ vào yêu cầu phát triển của từng vùng,
từng dân tộc
- Cải tiến chế độ cử tuyển vào các trường đại
học, cao đẳng, đảm bảo đúng đối tượng, đúng yêu
cầu, đúng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, đảm bảo các nhu cầu cần thiết để con
em được cử tuyển yên tâm học tập và làm việc sau
đào tạo, cần có chế độ sử dụng thích hợp, tránh hiện
tượng cử tuyển để phục vụ nguồn nhân lực cho các
vùng khác.
- Nhà nước cần có chính sách miễn học phí,
cấp sách giáo khoa cho con em các dân tộc thiểu số
trong hệ phổ thông, đồng thời hỗ trợ cho các trường
dân tộc nội trú (chu cấp toàn bộ đối với con em
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và các
dân tộc có dân số dưới 5000 người). Do đó cần điều
chỉnh lại các trường dân tộc nội trú theo hướng chất
lượng cao.
Bốn là, tạo nguồn để xây dựng đội ngũ cán bộ
quản lý lãnh đạo là người dân tộc thiểu số cả về tri
thức khoa học và bản lĩnh chính trị.
Cần có chính sách để xây dựng đội ngũ cán bộ
khoa học và văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số;
chú trọng tính cân đối về tộc người và khu vực và
các chính sách đặc thù. Khẩn trương nghiên cứu sắp
xếp lại bộ máy làm công tác dân tộc từ Trung ương
cho tới địa phương.
Nghiên cứu thành lập quỹ phát triển nguồn nhân
lực hoặc quỹ phát triển văn hóa và nguồn nhân lực
các dân tộc thiểu số, đầu mối là Bộ Giáo dục và Đào
tạo hoặc Ủy ban Dân tộc.
Đầu tư phát triển các đại học vùng dân tộc thiểu
số và miền núi như: Tây Bắc, Tây Nguyên, Học
viện Dân tộc theo cơ chế đặc thù để trở thành các
đại học tiên tiến đạt thuộc tốp cao trong nước.
4. Kết luận
Có thể thấy các nghiên cứu đã chỉ rõ các chính
sách của Đảng và Nhà nước ta ban hành nhằm đảm
bảo mục tiêu bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ nhau
cùng phát triển giữa các dân tộc. Các nghiên cứu
chính sách đã góp phần giới thiệu các văn bản chính
sách và chỉ ra những kết quả và đóng góp to lớn của
CSDT đối với đời sống đồng bào dân tộc thiểu số
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội. Nhiều nghiên
cứu đã thống nhất đánh giá các chính sách dân tộc
và quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng,
Nhà nước ta là hướng tới sự phát triển công nghiệp
hóa, hiện đại hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi,
nhằm hạn chế chênh lệch phát triển miền núi với
miền xuôi...
Những đóng góp của các công trình nghiên
cứu về chính sách dân tộc từ năm 1986 đến nay
là rất to lớn; nhiều phân tích, đề xuất đã được xây
dựng thành các chính sách dân tộc quan trọng như
Chương trình 135, chính sách đối với người có uy
tín, Chiến lược Công tác dân tộc giai đoạn 2011-
2020 Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra nhiều vấn đề
đặt ra cần quan tâm và có chính sách để giải quyết ở
vùng dân tộc thiểu số và miền núi như: Cần phải có
chính sách hợp lý về giáo dục, đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực, giảm nghèo bền vững vùng dân tộc
thiểu số và miền núi; quan tâm và có chính sách đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí hợp lý cán bộ người dân tộc
thiểu số; giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân
tộc, giữa dân tộc thiểu số với với nhà nước và với
dân tộc đa số, giải quyết tốt quan hệ giữa dân tộc
và tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Tài liệu tham khảo
Trần Thị Vân Anh, (2003), Về phương pháp
đánh giá tác động của chính sách XĐGN và
xây dựng chiến lược XĐGN đến năm 2010.
Phan Văn Hùng, (2003), Nghiên cứu, xây dựng
định hướng chiến lược phát triển bền vững
vùng dân tộc và miền núi.
Lê Kim Khôi, (2008), Điều tra, đánh giá thực
trạng phát triển bền vững vùng DTTS và
miền núi Tây nguyên, Tây Nam bộ.
Lê Ngọc Thắng, (2009-2011), “Nghiên cứu,
đánh giá chính sách đối với các dân tộc thiểu
số thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn ở nước ta”, Đề tài khoa
học cấp quốc gia. Ủy ban Dân tộc.
Ủy ban Dân tộc, Báo cáo hội thảo“Hệ thống hóa
và đánh giá các nghiên cứu về chính sách
dân tộc của Việt Nam từ năm 1986 đến nay”.
Viện Nghiên cứu Chính sách Dân tộc và miền
núi, (2001), Vấn đề dân tộc và hướng xây
dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 58_295_1_pb_07_2132986.pdf