Tài liệu Thực tiễn hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Trung Quốc: Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
30
THỰC TIỄN HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI TẠI TRUNG QUỐC
CHEN WEIZUO
Giảng viên Đại học Luật Thanh Hoa,
Bắc Kinh, Trung Quốc
Trong thực tiễn tư pháp quốc tế về hôn nhân gia đình ở Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, hôn nhân có yếu tố nước ngoài có thể có những trường hợp như sau: kết hôn
giữa người Trung Quốc và người nước ngoài được đăng ký tại Trung Quốc, kết hôn
giữa người Trung Quốc và người nước ngoài được đăng ký tại nước ngoài, kết hôn giữa
người nước ngoài với nhau đăng ký tại Trung Quốc, và kết hôn giữa người nước ngoài
với nhau đăng ký tại nước ngoài.
Các quy định pháp luật Trung Quốc liên quan đến vấn đề hôn nhân có yếu tố nước
ngoài tập trung chủ yếu ở các văn bản sau: "Một số quy định về đăng ký kết hôn giữa
người Trung Quốc và người nước ngoài" ban hành ngày 17 tháng 8 năm 1983; "Một số
quy định về thẩm quyền giải quyết các vấn đề kết hôn giữa người Trung Quốc ở nước
ngoài của các Đại sứ quán và cơ quan ...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 695 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực tiễn hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
30
THỰC TIỄN HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI TẠI TRUNG QUỐC
CHEN WEIZUO
Giảng viên Đại học Luật Thanh Hoa,
Bắc Kinh, Trung Quốc
Trong thực tiễn tư pháp quốc tế về hôn nhân gia đình ở Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, hôn nhân có yếu tố nước ngoài có thể có những trường hợp như sau: kết hôn
giữa người Trung Quốc và người nước ngoài được đăng ký tại Trung Quốc, kết hôn
giữa người Trung Quốc và người nước ngoài được đăng ký tại nước ngoài, kết hôn giữa
người nước ngoài với nhau đăng ký tại Trung Quốc, và kết hôn giữa người nước ngoài
với nhau đăng ký tại nước ngoài.
Các quy định pháp luật Trung Quốc liên quan đến vấn đề hôn nhân có yếu tố nước
ngoài tập trung chủ yếu ở các văn bản sau: "Một số quy định về đăng ký kết hôn giữa
người Trung Quốc và người nước ngoài" ban hành ngày 17 tháng 8 năm 1983; "Một số
quy định về thẩm quyền giải quyết các vấn đề kết hôn giữa người Trung Quốc ở nước
ngoài của các Đại sứ quán và cơ quan lãnh sự Trung Quốc ở nước ngoài" do Bộ ngoại
giao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp, Văn phòng người
Trung Quốc ở nước ngoài thuộc Hội đồng nhà nước ban hành ngày 28 tháng 11 năm
1983; «Công văn về việc giải quyết một số vấn đề có yếu tố nước ngoài trong việc
giải quyết đăng ký kết hôn giữa người Trung Quốc hải ngoại" ngày 9 tháng 12 năm
1983 của Bộ Hành chính tư pháp; và "Những nguyên tắc chung về pháp luật dân sự
của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", ban hành ngày 12 tháng 4 năm 1986.
Nguyên tắc xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế của Trung Quốc liên quan đến
hôn nhân có yếu tố nước ngoài rất đơn giản: theo quy định tại điều 147, "Những
nguyên tắc chung về pháp luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" ngày
12 tháng 4 năm 1986, có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1987, việc kết hôn giữa
công dân Trung Quốc với người nước ngoài chịu sự điều chỉnh của luật của nước nơi
đăng ký kết hôn. (lex loci celebrationis).
Nguyên tắc xung đột pháp luật trên đây không phân biệt giữa điều kiện về nội dung
với điều kiện về hình thức. Nhưng theo ý kiến chung của các nhà nghiên cứu Trung
Quốc, cần xem xét đến cả điều kiện về nội dung lẫn điều kiện về hình thức3.
1. Việc kết hôn giữa công dân Trung Quốc với người nước ngoài nếu được đăng ký
tại Trung Quốc thì áp dụng theo luật Trung Quốc (Điều 147, Những nguyên tắc chung
về pháp luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).
George là một người Anh sinh năm 1982, đến Trung Quốc vào năm 2000 để học đại
học tại Bắc Kinh. George gặp gỡ và yêu cô Tống. Năm 2002, cô Tống tìm được việc
làm trong một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hai người quyết định kết hôn
với nhau. Họ tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn tại phường nơi cô
Tống cư trú. Đây là một trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài giữa một phụ nữ
Trung Quốc và một người đàn ông Anh, được đăng ký tại Trung Quốc. Như vậy, luật
Trung Quốc là luật áp dụng, bởi vì đây là luật của nơi đăng ký kết hôn. Theo điều 6
khoản 1 Luật hôn nhân của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 10 tháng 9 năm
1980 (đã được sửa đổi, bổ sung ngày 28 tháng 4 năm 2001), tuổi kết hôn được quy
định là từ đủ 22 tuổi đối với nam, và từ đủ 20 tuổi đối với nữ. Vì đến năm 2002,
3 Xem Huang Jin, «Guoji sifa»(Tư pháp quốc tế ), Law Press China, 1999, p. 474.
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
31
Geroge mới 20 tuổi cho nên anh ta không đáp ứng điều kiện về tuổi kết hôn theo luật
hôn nhân của Trung Quốc. Do đó, đơn xin đăng ký kết hôn của anh George và cô Tống
đã bị từ chối4.
Về nguyên tắc, pháp luật Trung Quốc cho phép việc kết hôn trên lãnh thổ Trung Quốc
giữa công dân Trung Quốc và người nước ngoài. Tuy nhiên, quân nhân đang tại ngũ,
người làm trong ngành ngoại giao, cảnh sát, người làm những công việc bí mật và
những người được biết đến bí mật Nhà nước thì không được phép kết hôn với người
nước ngoài.
Về hình thức kết hôn theo pháp luật Trung Quốc, đó là hình thức đăng ký dân sự theo
thủ tục đăng ký hộ tịch thông thường. Ngoài ra còn có một số quy định đặc biệt đối
với việc đăng ký kết hôn giữa công dân Trung Quốc và người nước ngoài: thứ nhất,
việc đăng ký phải được tiến hành tại cơ quan hành chính cấp tỉnh, vùng tự trị hoặc
thành phố trực thuộc trung ương nơi đương sự là người Trung Quốc có hộ khẩu
thường trú; thứ hai, người nước ngoài phải trình hộ chiếu hoặc giấy tờ chứng minh về
nhân thân và quốc tịch, giấy phép cư trú do cơ quan công an cấp, bản sao công chứng
giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân do Bộ ngoại giao của nước mà người đó có quốc
tịch cấp. Giấy chứng nhận này cũng có thể do Đại sứ quán hoặc cơ quan lãnh sự của
nước đó tại Trung Quốc cấp. Đối với kiều dân nước ngoài sinh sống tại Trung Quốc, có
thể phải nộp thêm giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân phường, xã hoặc đơn vị nơi
người đó làm việc.5.
2. Việc kết hôn giữa công dân Trung Quốc và người nước ngoài tại nước ngoài thực
hiện theo luật nước ngoài về đăng ký kết hôn (Đ.147, Những nguyên tắc chung về
pháp luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Ví dụ nếu một người Trung
Quốc kết hôn với một người Việt Nam tại Việt Nam thì áp dụng theo luật Việt Nam.
Việc kết hôn này sẽ được công nhận tại Trung Quốc.
3. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thuộc các quốc tịch khác nhau nếu
đăng ký tại Trung Quốc thì thực hiện theo luật Trung Quốc - ví dụ kết hôn giữa một
người Pháp và một người Việt Nam đăng ký tại Trung Quốc (Đ.147, Những nguyên tắc
chung về pháp luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).
Theo «Công văn về việc giải quyết một số vấn đề có yếu tố nước ngoài trong việc giải
quyết đăng ký kết hôn giữa người Trung Quốc hải ngoại" ngày 9 tháng 12 năm 1983
của Bộ hành chính tư pháp, nếu hai người muốn đăng ký kết hôn với nhau đều là
người nước ngoài đang làm việc tại Trung Quốc, hoặc một bên là người nước ngoài
làm việc tại Trung Quốc còn bên kia tạm trú tại Trung Quốc, và nếu họ có đầy đủ giấy
chứng nhận theo quy định tại "Một số quy định về đăng ký kết hôn giữa người Trung
Quốc và người nước ngoài" năm 1983 thì việc đăng ký kết hôn của họ sẽ được thực
hiện theo quy định của Luật hôn nhân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 10
tháng 9 năm 1980 (sửa đổi, bổ sung ngày 28 tháng 4 năm 2001). Để đảm bảo hiệu
lực của việc đăng ký kết hôn, cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc có thể yêu cầu
cặp vợ chồng người nước ngoài đó cung cấp thông tin về các quy định pháp luật của
nước họ liên quan đến việc công nhận hiệu lực của đăng ký kết hôn tại nước ngoài.
4. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài có quốc tịch khác nhau nếu đăng ký tại
nước ngoài thì tuân thủ theo luật của nước nơi đăng ký kết hôn (Đ. 147, Những
nguyên tắc chung vầ pháp luật dân sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Ví dụ
việc kết hôn giữa một người Đức và một người Việt Nam được đăng ký tại Lào thì áp
dụng pháp luật Lào, và cuộc hôn nhân đó sẽ được công nhận tại Trung Quốc.
4 Xem Xiao Yongping, «Guoji sifa» (Tư pháp quốc tế), Law Press China, 2003, tr. 216-217.
5 Xem Huang Jin, «Guoji sifa»(Tư pháp quốc tế), Law Press China, 2000, tr. 117-118.
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
32
PHIÊN THẢO LUẬN
Ông Bernard Audit
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, liệu có thể yêu cầu hủy hôn nhân vì lý do kinh
tế hoặc những ràng buộc gia đình không?
Ông Nguyễn Quốc Cường6
Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, việc hủy hôn nhân được
thực hiện nếu mục đích kết hôn không đúng hoặc vi phạm về điều kiện kết hôn. Tuy
nhiên, đó chỉ là quy định về mặt lý thuyết. Trên thực tế, việc xác định các trường hợp
này rất khó khăn, đặc biệt là trong quá trình phỏng vấn người nước ngoài hoặc phụ nữ
Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Hơn nữa, nếu trong quá trình phỏng vấn hoặc
sau khi có quyết định đăng ký kết hôn, cơ quan chức năng phát hiện kết hôn là nhằm
mục đích kinh tế thì việc hủy hôn nhân trong trường hợp này cũng chưa được nêu cụ
thể trong Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam. Luật này chỉ chủ yếu quy định việc hủy
hôn nhân trong trường hợp hôn nhân cưỡng ép hoặc vi phạm điều kiện cấm kết hôn.
Ông Bernard Audit
Ở Pháp, chúng tôi cũng gặp phải những vấn đề tương tự, tuy nhiên trong một bối cảnh
có hơi khác một chút. Đó là trường hợp những cô gái trẻ đến từ các nước Bắc Phi hoặc
từ các nước Hồi giáo bị gia đình ép kết hôn với những người họ hàng hoặc những người
đồng hương mà họ không hề quen biết. Trước tình hình đó, chúng tôi đang soạn thảo
một đạo luật trong đó quy định tăng tuổi kết hôn lên. Hiện tại, đó là biện pháp duy
nhất. Với biện pháp này, chúng tôi hy vọng rằng, ở một độ tuổi lớn hơn, các cô gái sẽ
có khả năng phản kháng mạnh mẽ hơn. Bởi vì hiện nay, theo luật nhân thân, các cô
gái được phép kết hôn rất sớm, đôi khi chỉ ở độ tuổi 13 hoặc 14. Với việc quy định
thống nhất độ tuổi kết hôn là 18, chúng tôi hy vọng rằng các cô gái trẻ nếu được lớn
lên ở Pháp sẽ có khả năng phản kháng lại quyết định của cha mẹ.
Ông Koeut Rith7
Ông có thể trình bày một cách cụ thể hơn về những trường hợp kết hôn giữa người
Việt Nam và người nước ngoài, cụ thể là những trường hợp kết hôn giữa người Việt
Nam và người Đài Loan không? Theo quan điểm của tôi, đây không chỉ là một vấn đề
thuộc lĩnh vực tư pháp quốc tế mà còn là một vấn đề hình sự, liên quan đến những
đường dây buôn bán phụ nữ. Liệu các bạn đã có con số thống kê cụ thể về các trường
hợp kết hôn giữa người Việt Nam và người Đài Loan nhưng mục đích chính là buôn bán
phụ nữ chưa?
Như các bạn đã trình bày, ở Việt Nam, luật áp dụng là luật nhân thân. Do đó, nếu một
phụ nữ Việt Nam kết hôn với một người nước ngoài mà luật nhân thân của người đàn
ông nước ngoài đó công nhận chế độ đa thê thì Việt Nam có chấp nhận trường hợp kết
hôn đó không?
6 Phó Vụ trưởng, Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp
7 Giảng viên, Trường Đại học Luật và Khoa học kinh tế Hoàng gia Cam-pu-chia
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
33
Ông Nguyễn Quốc Cường
Những năm qua, Việt Nam đã ghi nhận một số trường hợp kết hôn nhằm mục đích
buôn bán phụ nữ và đã thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về những
trường hợp này. Đồng thời, chúng tôi cũng đã tổ chức rất nhiều cuộc hội thảo về vấn
đề này có sự tham gia của nhiều cơ quan hữu quan. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đã
có những chỉ đạo đối với các cơ quan chuyên môn, đặc biệt là cơ quan công an để có
biện pháp ngăn chặn tình trạng này.
Về câu hỏi liên quan đến việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước
ngoài theo chế độ đa thê, ví dụ công dân các nước Hồi giáo, dưới góc độ của một nhà
thực tiễn, tôi chắc chắn rằng Việt Nam không công nhận kết hôn tổ chức tại nước
ngoài nếu phụ nữ Việt Nam là vợ hai, vợ ba của người nước ngoài. Vì nguyên tắc của
pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam là nguyên tắc "một vợ, một chồng".
Đại biểu
Việt Nam có công nhận việc kết hôn giữa những người nước ngoài tiến hành tại Việt
Nam không (ví dụ việc kết hôn giữa hai người Ca-na-đa)? Nếu có, thủ tục tiến hành
như thế nào?
Ông Nguyễn Quốc Cường
Nghị định 83 của Chính phủ Việt Nam về Đăng ký hộ tịch có dành một Chương về
Đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Nghị định 68/CP cũng quy định về kết hôn có
yếu tố nước ngoài. Theo hai Nghị định này, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam,
cùng quốc tịch hoặc khác quốc tịch, nếu có nguyện vọng kết hôn tại Việt Nam và đủ
điều kiện đăng ký theo quy định của pháp luật Việt Nam về hôn nhân và gia đình thì
được đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam. Qua bài tham luận của
bà Nguyễn Nguyệt Huệ, chúng ta được biết trong thời gian qua, ở TP HCM có 3 trường
hợp đăng ký kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam.
Ông Bernard Audit
Như vậy, quy phạm xung đột của các bạn cũng giống với quy phạm Trung Quốc, tức là
trong những trường hợp này áp dụng luật nơi tiến hành kết hôn.
Đại biểu
Tôi xin bình luận câu trả lời của ông Nguyễn Quốc Cường về chế độ đa thê.
Theo tôi, Tòa án Việt Nam áp dụng quy định về trật tự công cộng tương đối cứng nhắc
so với các nước khác. Trên bình diện quốc tế, tồn tại hai loại quan niệm về trật tự công
cộng: trật tự công cộng quốc tế và trật tự công cộng quốc gia. Việc áp dụng cứng nhắc
quy định về trật tự công cộng rất dễ dẫn đến tình trạng không công bằng. Bởi vì đúng
là trật tự công cộng có mặt tích cực của nó nhưng cũng không tránh khỏi một số hạn
chế.
Ví dụ: Trong trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với công dân Ả rập, tức công dân
của một nước công nhận chế độ đa thê và công dân Việt Nam là người vợ thứ hai, khi
người này trở về Việt Nam yêu cầu công nhận quyền cấp dưỡng đối với con cái thì tôi
chắc chắn rằng Tòa án Việt Nam sẽ không công nhận. Đây là một thiệt thòi lớn đối với
người phụ nữ Việt Nam và con cái họ.
Trên đây chỉ là ví dụ rất nhỏ, trên thực tế còn rất nhiều các trường hợp khác. Tôi đã có
dịp tìm hiểu pháp luật của Pháp và thấy rằng pháp luật Pháp áp dụng khái niệm trật
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp
34
tự công cộng rất linh hoạt trong việc công nhận và cho thi hành quyết định của Tòa án
hoặc trọng tài nước ngoài.
Nhân đây, tôi xin đề xuất với ông Cường nói riêng và các nhà lập pháp Việt Nam nói
chung rằng chúng ta nên quy định làm sao để có thể áp dụng linh hoạt hơn về trật tự
công cộng nhằm đảm bảo tính công bằng.
Ông Bernard Audit
Những nhận xét của ông hết sức quan trọng. Trong trường hợp đa thê, rõ ràng chúng
ta không thể nói rằng vì chế độ đa thê trái với trật tự công cộng nên mọi vấn đề liên
quan đến trường hợp kết hôn theo chế độ đa thê đều không được công nhận. Bởi vì
chúng ta cần phải xem xét vấn đề liên quan trong những điều kiện cụ thể của nó. Ví
dụ, việc kết hôn theo chế độ đa thê được tiến hành cách đây nhiều năm ở nước ngoài
và hiện nay, vấn đề phức tạp liên quan đến trường hợp kết hôn này nảy sinh ở một
đất nước khác, ở đó không công nhận chế độ đa thê vì cho rằng nó trái với trật tự
công cộng (ví dụ như Việt Nam). Kinh nghiệm chỉ ra rằng, người yêu cầu hủy bỏ hôn
nhân thường là người chồng và động cơ là muốn rũ bỏ trách nhiệm với người vợ chứ
không phải vì lý do đạo đức. Ví dụ, trong trường hợp người vợ bị bỏ rơi yêu cầu người
chồng phải có trách nhiệm cấp dưỡng. Chính vì vậy, án lệ của Pháp đã đưa vào lĩnh
vực trật tự công cộng một khái niệm mới đó là khái niệm "các tình tiết giảm nhẹ". Tức
là, về nguyên tắc, không thể tiến hành kết hôn theo chế độ đa thê tại Pháp. Tuy
nhiên, Pháp cũng không từ chối một cách cứng nhắc tất cả những hệ quả pháp lý của
việc kết hôn theo chế độ đa thê đã được tiến hành ở nước ngoài.
Ông Nguyễn Quốc Cường
Tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm của đại biểu về tính cần thiết phải áp dụng linh hoạt
khái niệm trật tự công. Tuy nhiên, câu trả lời của tôi trước bạn đồng nghiệp Cam-pu-
chia là về pháp luật hiện tại của Việt Nam, còn hướng tới tương lai thì tôi nhất trí rằng
chúng ta phải nghiên cứu thêm. Lưu ý rằng không nhất thiết phải xác định được quan
hệ vợ chồng thì mới giải quyết được các quan hệ khác. Trong trường hợp mà đại biểu
đặt ra, quan hệ cấp dưỡng của người cha đối với con cái vẫn được bảo đảm bởi quy
định về con ngoài giá thú. Do pháp luật Việt Nam công nhận quyền làm cha đối với
con ngoài giá thú, nên tôi nghĩ rằng vấn đề liên quan đến quyền cấp dưỡng không gặp
khó khăn gì.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3_8304_2207339.pdf