Tài liệu Thực tế đa ngôn ngữ, đa văn hoá và vấn đề dạy, học ngoại ngữ ở bậc Đại học - Đặng Thị Thanh Thúy: 41KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Những năm gần đây, các khoa ngoại ngữ của các trường đại học (trong đó có Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp, Đại học Ngoại
ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội tại Việt Nam nói
riêng và trong khu vực Đông Nam Á nói chung,
đều ghi nhận thực trạng ngày càng tăng số lượng
sinh viên đầu vào đều đã học/biết ít nhất một
ngoại ngữ, thậm chí đến hai ngoại ngữ (tiếng
Anh, Pháp, Nga...). Thực tế này đã tạo ra một môi
trường dạy và học đa ngoại ngữ, đa văn hóa trong
các trường đại học ngoại ngữ. Vậy, giáo viên cần
phải nhìn nhận thực tế này thế nào để tiến hành
giảng dạy ngoại ngữ đạt hiệu quả? Trong khuôn
khổ của bài báo này, trước hết tôi xin đề cập đến
thực tế đa ngôn ngữ, đa văn hoá hiện nay ở các
trường đại học ngoại ngữ. Tiếp đến sẽ phân tích
quan điểm của người học về tác động qua lại của
việc học từ hai ngoại ngữ trở lên. Cuối cùng, đưa
ra một số nhận xét và quan điểm cá nhân về việc
phải nhìn nhận ...
4 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực tế đa ngôn ngữ, đa văn hoá và vấn đề dạy, học ngoại ngữ ở bậc Đại học - Đặng Thị Thanh Thúy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
41KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
Những năm gần đây, các khoa ngoại ngữ của các trường đại học (trong đó có Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp, Đại học Ngoại
ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội tại Việt Nam nói
riêng và trong khu vực Đông Nam Á nói chung,
đều ghi nhận thực trạng ngày càng tăng số lượng
sinh viên đầu vào đều đã học/biết ít nhất một
ngoại ngữ, thậm chí đến hai ngoại ngữ (tiếng
Anh, Pháp, Nga...). Thực tế này đã tạo ra một môi
trường dạy và học đa ngoại ngữ, đa văn hóa trong
các trường đại học ngoại ngữ. Vậy, giáo viên cần
phải nhìn nhận thực tế này thế nào để tiến hành
giảng dạy ngoại ngữ đạt hiệu quả? Trong khuôn
khổ của bài báo này, trước hết tôi xin đề cập đến
thực tế đa ngôn ngữ, đa văn hoá hiện nay ở các
trường đại học ngoại ngữ. Tiếp đến sẽ phân tích
quan điểm của người học về tác động qua lại của
việc học từ hai ngoại ngữ trở lên. Cuối cùng, đưa
ra một số nhận xét và quan điểm cá nhân về việc
phải nhìn nhận lại thực tế đa ngôn ngữ, đa văn
hoá trong giảng dạy ngoại ngữ ở các trường đại
học nói chung.
THỰC TẾ ĐA NGÔN NGỮ,
ĐA VĂN HOÁ VÀ VẤN ĐỀ DẠY,
HỌC NGOẠI NGỮ Ở BẬC ĐẠI HỌC
ĐẶNG THỊ THANH THÚY
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội
TÓM TẮT
Từ trước đến nay, các khoa ngoại ngữ, các trường ngoại ngữ luôn là môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hoá
và người học ngoại ngữ cũng luôn là người đa ngôn ngữ, đa văn hoá. Nhưng dường như cả người học
và môi trường này đều chưa được đánh giá một cách đúng đắn và các thế mạnh của nó chưa được phát
huy. Trong bối cảnh dạy và học ngoại ngữ thời kỳ hội nhập của Việt Nam hiện nay, các giáo viên ngoại
ngữ nói chung cần được trang bị đầy đủ hơn về kiến thức và kỹ năng giảng dạy trong môi trường đa
ngôn ngữ, đa văn hoá đặc thù.
Từ khóa: dạy và học ngoại ngữ, đa ngôn ngữ, đa văn hóa.
Thực tế về môi trường và người học đa ngôn
ngữ ở bậc đại học
Nếu quan sát và tìm hiểu các kỳ tuyển sinh trong
những năm gần đây ở các trường đại học trong
nước và khu vực Đông Nam Á, chúng ta sẽ nhận
thấy rằng, nhiều các khoa tiếng Pháp có tuyển
thí sinh đầu vào tiếng Anh. Các thí sinh này đăng
kí tuyển sinh vào khoa tiếng Pháp nhưng lại thi
bài sát hạch đầu vào bằng tiếng Anh. Khi họ trở
thành sinh viên và bắt đầu học tiếng Pháp ở bậc
đại học thì họ đã trở thành những người có sử
dụng ít nhất hai thứ tiếng nước ngoài (thường là
tiếng Anh và tiếng Pháp).
Chúng ta cũng biết rằng, chính sách dạy và học
ngoại ngữ ở các trường đại học đều yêu cầu sinh
viên phải có chứng chỉ ngoại ngữ và sinh viên phải
học thêm một ngoại ngữ thứ hai. Thực tế, các sinh
viên ngoại ngữ đều bắt đầu học thêm một ngoại
ngữ khác khi học năm thứ hai đại học. Ví dụ, các
sinh viên khoa tiếng Anh thường học ngoại ngữ
42 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
hai là tiếng Trung hoặc tiếng Pháp, các sinh viên
các khoa Pháp, Trung, Nhật thường chọn ngoại
ngữ hai là tiếng Anh.
Như vậy, sinh viên theo học tại các khoa ngoại
ngữ trực thuộc các trường đại học luôn là những
người biết nhiều hơn một thứ tiếng nước ngoài
và là những người đa ngữ. Họ có thể là những
người đa ngữ chủ động hay đa ngữ bị động. Khái
niệm này có thể được hiểu là họ là những người
có thể chủ động sử dụng các ngoại ngữ đã học
hay là những người chỉ nắm bắt được ngôn ngữ
được học ở một mức độ nhất định. Dù được hiểu
theo cách nào thì các sinh viên này cần phải được
nhìn nhận như là những người biết nhiều ngôn
ngữ (ít nhất là ba thứ tiếng kể cả tiếng Việt) và có
kiến thức văn hoá đa dạng thông qua các ngôn
ngữ mà họ đã và đang thực hành.
Ngoài ra, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng các
khoa ngoại ngữ, các trường ngoại ngữ luôn là
môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hoá, vì đây chính
là nơi có sự gặp gỡ, tiếp xúc, giao lưu của những
nhóm người biết/sử dụng nhiều thứ tiếng khác
nhau, nơi gặp gỡ, tiếp xúc, giao lưu của những
nhóm người có hiểu biết về nhiều nền văn hoá
khác nhau. Nói cách khác, thực tế đa ngôn ngữ,
đa văn hoá cả về môi trường và người học đã luôn
tồn tại trong các trường có dạy và học tiếng nước
ngoài đặc biệt là ở các khoa ngoại ngữ của các
trường đại học. Như vậy, có thể nói từ rất lâu, các
giáo viên ngoại ngữ nói chung và giáo viên tiếng
Pháp nói riêng đã luôn làm việc trong một môi
trường đa ngôn ngữ, đa văn hoá, với những sinh
viên đa ngữ, đa văn hoá.
Tuy nhiên, có lẽ thực tế đa ngôn ngữ và đa văn
hoá này chưa được nhìn nhận và đánh giá theo
hướng tích cực và chúng ta chưa phát huy được
thế mạnh của nó để khai thác, ứng dụng trong
quá trình dạy và học ngoại ngữ. Có vẻ như môi
trường này chưa được nhìn nhận như là nơi có
sự tiếp xúc, giao thoa của nhiều ngôn ngữ và
văn hoá khác nhau. Việc chưa đánh giá đúng môi
trường đa ngôn ngữ, đa văn hoá này với những
thế mạnh của nó đã dẫn đến những cách nhìn
tiêu cực trong việc biết/học nhiều hơn một ngoại
ngữ của sinh viên ngoại ngữ nói chung. Trong
hai cuộc điều tra, khảo sát của chúng tôi1 vào các
năm 2011 và 2012 trong đó có nội dung đề cập
đến các phát ngôn của sinh viên Pháp ngữ về vấn
đề đa ngôn ngữ2, chúng tôi nhận thấy rằng, việc
biết/học nhiều hơn một ngoại ngữ thường được
xem như một cản trở, một khó khăn cho việc học
một ngoại ngữ mới, thậm chí việc biết/học ngoại
ngữ đôi khi còn bị cho là nguyên nhân ảnh hưởng
đến cách nói/viết chuẩn mực của tiếng mẹ đẻ.
Vấn đề đa ngôn ngữ và các phát ngôn của
người học
Qua phân tích kết quả điều tra, chúng tôi nhận
thấy rằng, đa số người học không đánh giá việc
họ biết/học nhiều thứ tiếng như là một thế mạnh.
Khi được hỏi về quá trình học nhiều thứ tiếng
nước ngoài thì họ thường nêu ra những khó khăn
của quá trình này mà hiếm khi nói về các thuận lợi
của nó. Trong khuôn khổ của bài báo này, chúng
tôi xin tóm lược ba yếu tố mà người học nhìn
nhận như sự cản trở, mang tính tiêu cực của quá
trình học tiếng nước ngoài.
Trước hết, chúng tôi thấy rằng, phần lớn người
học nhấn mạnh là họ hay bị nhầm lẫn về phát âm
khi nói và nhầm lẫn về chính tả, từ vựng, cú pháp
khi viết vì các ngoại ngữ họ học có sự giống nhau
(ví dụ ở cấp độ từ vựng giữa tiếng Anh và tiếng
Pháp). Họ nhớ lại quá trình học và đồng thời nhớ
đến những “lỗi” đã mắc phải trong quá trình này.
Không có người được phỏng vấn nào nhìn nhận
sự giống nhau giữa các ngôn ngữ họ học như một
lợi thế, chẳng hạn giúp quá trình đọc hiểu hay
nghe hiểu của họ trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn.
Tiếp đến, các phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng,
cách nhìn nhận mang tính tiêu cực của quá trình
học nhiều ngoại ngữ này còn thể hiện cả ở các
nhận xét về sự giao thoa văn hoá. Những người
được phỏng vấn cho rằng, việc các bạn trẻ học
tiếng nước ngoài sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực tới
văn hoá Việt vì họ “tiếp xúc nhiều với nền văn hoá
phương Tây, họ a dua theo cái nền văn hoá đấy”
hoặc các bạn trẻ thường “bắt chước” những cái
không hay của các bạn trẻ nước ngoài (khi họ
xem phim chẳng hạn).
Một trong những yếu tố tiêu cực mà rất nhiều
sinh viên được phỏng vấn nêu ra, đó là những
43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
ảnh hưởng tiêu cực của việc học ngoại ngữ lên
tiếng Việt của giới trẻ. Theo đó, họ cho rằng việc
học ngoại ngữ của giới trẻ còn làm cho tiếng Việt
của họ bị lệch chuẩn, vì giới trẻ học tiếng nước
ngoài thường có xu hướng thêm các từ tiếng
nước ngoài (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung,
tiếng Hàn) vào giao tiếp tiếng Việt với bạn
bè, người thân. Thậm chí, một số sinh viên được
phỏng vấn còn khẳng định rằng: “Các bạn trẻ khi
nói tiếng Việt thường cố tình thêm các từ tiếng Anh
vào và làm mất đi bản sắc của tiếng Việt” [6].
Trong các cuộc trao đổi, nói chuyện với các đồng
nghiệp, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, một số
đồng nghiệp thường “phàn nàn” sinh viên của họ
hay mắc lỗi phát âm, nhầm lẫn giữa các thứ tiếng,
rằng họ phải “chỉnh sửa liên tục” khi dạy kỹ năng
nói trên lớp. Chúng tôi tự hỏi, liệu việc “chỉnh sửa
liên tục” về phát âm với mong muốn “uốn nắn” cho
người học có thể “phát âm chuẩn” như người bản
địa có làm cho người học mất tự tin khi nói, khi
diễn thuyết trên lớp hay không? Liệu việc “sửa lỗi”
phát âm liên tục và có hệ thống như vậy có làm
cho người học mất hứng thú, thậm chí sợ phải nói
trước cả lớp hay không? Có ảnh hưởng đến hiệu
quả của quá trình dạy và học tiếng hay không?
Chúng ta đều biết là giáo viên đóng vai trò rất
quan trọng không chỉ trong việc truyền đạt kiến
thức mà còn ảnh hưởng, tác động đến tư duy
phản biện của người học. Việc các giáo viên luôn
nhìn nhận quá trình học nhiều tiếng nước ngoài
ở mặt tiêu cực mà không chỉ cho người học thấy
được những thuận lợi của nó chắc chắn sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả của quá trình dạy và học.
Hơn ai hết, giáo viên, là người tiếp xúc trực tiếp
với người học, họ phải ý thức được những khó
khăn và thuận lợi của việc học nhiều ngoại ngữ
của sinh viên, trong một môi trường đa ngôn
ngữ, đa văn hoá đặc thù trường học.
Đã đến lúc cần thay đổi cách nhìn nhận thực tế
đa ngôn ngữ, đa văn hoá?
Quan niệm cho rằng, sự lý tưởng hoá cách phát
âm, cách nói của người bản địa hay phải sử dụng
thành thạo ngôn ngữ (như người bản địa) thì mới
được coi là biết nói ngôn ngữ đó chính là nguyên
nhân của các câu trả lời mang tính phủ định của
người được điều tra trước câu hỏi “em có phải
là người nói hay sử dụng được nhiều thứ tiếng
không?”. Mặc dù những sinh viên này đã kết thúc
chương trình học ở bậc đại học và đều khẳng định
đã theo học từ hai ngoại ngữ trở lên, nhưng họ
đều cho rằng họ chưa hoặc không phải là người
nói được nhiều thứ tiếng, hoặc họ cần phải học
nhiều hơn nữa mới nói được các thứ tiếng này. Ví
dụ, một sinh viên được phỏng vấn đã trả lời rằng:
“Em chỉ biết lặt vặt vài thứ tiếng, chỉ biết thôi ạ, tức
là đọc văn bản thì hiểu chứ giao tiếp với người ta thì
hơi khó.”
Việc không nhận mình là người có thể sử dụng
được nhiều thứ tiếng, tức là không coi mình là
người đa ngữ, cộng thêm việc luôn nhìn vào khía
cạnh tiêu cực (những cản trở, khó khăn của quá
trình học nhiều thứ tiếng) đã làm cho người học
thiếu tự tin trong giao tiếp và không chủ động
phát huy được những thế mạnh của việc biết/
hiểu nhiều thứ tiếng, nhiều kiến thức văn hoá của
các nước có sử dụng những thứ tiếng đó.
Trước thực tế này, không chỉ các giáo viên tiếng
Pháp mà tất cả giáo viên ngoại ngữ nói chung cần
phải được trang bị thêm kiến thức về giảng dạy
trong môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hoá. Họ
cần phải được bổ sung kiến thức và kỹ năng làm
việc với các sinh viên nói/biết/học nhiều ngoại
ngữ. Họ phải được đào tạo để có thể phát huy
những thế mạnh về ngôn ngữ và kiến thức về văn
hoá đa dạng của các sinh viên này chứ không nên
nhìn nhận việc biết nhiều thứ tiếng nước ngoài
của sinh viên hiện nay như một sự cản trở cho
việc học một ngoại ngữ mới. Giáo viên còn phải
là những người làm cho sinh viên hiểu được các
thế mạnh của việc học nhiều ngoại ngữ để quá
trình dạy và học có hiệu quả hơn. Ngoài ra, các
nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý
giáo dục cũng cần hiểu rõ vấn đề này trước khi
đưa ra các chính sách ngôn ngữ áp dụng trong
môi trường giáo dục. Vì chỉ khi cả các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý, các giáo viên
và sinh viên cũng như các tác nhân khác của hệ
thống giáo dục ý thức được những khó khăn và
thuận lợi của quá trình dạy và học thì quá trình
này mới có thể phát huy hiệu quả.
Để kết luận, tôi xin dẫn một nhận xét của Daniel
44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Coste và Jean Hébrard về vấn đề đa ngôn ngữ
trong các trường học, theo đó, thực tế đa ngôn
ngữ cần phải được xem xét nghiêm túc thì các
trường học mới có để đáp ứng tốt công tác giảng
dạy ngoại ngữ: “Tương lai đa ngôn ngữ trong trường
học không chỉ là vấn đề của các nhà hoạch định
chính sách hay của các văn bản, thông tư. Nó cũng
không chỉ hoàn toàn xuất phát từ các mối quan
hệ về quyền lực kinh tế hay văn hoá giữa các dân
tộc sử dụng (các) ngôn ngữ đó. Tương lai đa ngôn
ngữ trong các trường học phụ thuộc vào chính các
trường học và khả năng của các trường học, trên cả
phương diện quản lý cũng như sư phạm, để có thể
đáp ứng và vận hành tốt trong môi trường ngôn
ngữ mới.” [5, tr.8]./.
Chú thích:
1. Đối tượng phỏng vấn của chúng tôi là các sinh
viên năm thứ 4 của khoa Ngôn ngữ và Văn hoá
Pháp, trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc
gia Hà Nội, thuộc 2 khoá QH2007 và QH2008.
2. Phỏng theo các phương pháp điều tra của
nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực Khoa học
Xã hội và Nhân văn, trong đó phải kể đến Thierry
Bulot, Nicole Berthier, Philippe Blanchet, Alain
Blanchet và các đồng nghiệp, chúng tôi đã tiến
hành các cuộc phỏng vấn bán định hướng, điều
tra với bảng câu hỏi, thực hiện bài kiểm tra với
người nói giấu mặt. Nội dung liên quan đến vấn
đề đa ngôn ngữ, đa văn hoá chỉ là một phần nhỏ
trong các nội dung được đề cập đến ở các cuộc
điều tra, phỏng vấn của chúng tôi.
Tài liệu tham khảo:
1. BERTHIER Nicole (2006), Les techniques d’enquête
en sciences sociales, Armand Colin, Paris.
2. BLANCHET Alain, GHIGLIONE Rodolphe,
MASSONNAT Jean et TROGNON Alain (2002), Les
techniques d’enquête en sciences sociales, Dunod, Paris.
3. BLANCHET Philippe (2012), La linguistique
de terrain - Méthode et théorie : Une approche
ethnosociolinguistique de la complexité, Presses
universitaires de Rennes.
4. BULOT Thierry (2011), « Dépouillement des
données : analyses des tendances et analyses
quantitatives », dans BLANCHET Philippe et
CHERDENET Patric, Guide de recherches en
didactique des langues et des cultures, AUF/Éditions
des Archives contemporaines, p.155-168.
5. COSTE Daniel, HÉBRARD Jean, (Coord.) (1991),
Vers le plurilinguisme ? Ecole et politique linguistique,
dans Le français dans le monde, « Recherches et
Applications », Hachette-Larousse.
6. DANG Thi Thanh Thuy (2015), Discours
épilinguistique et urbanité. Hanoï, une ville
sociolinguistiquement singulière ? Thèse de
Doctorat, Discipline sciences du langage,
Université Rennes 2.
7. MOORE Danièle (2006), Plurilinguismes et écoles.
Didier, collection LAL. Paris.
MULTILINGUALISM, MULTICULTURALISM AND
THE TEACHING AND LEARNING OF FOREIGN
LANGUAGES AT TERTIARY LEVEL
Abstract: Up to now, faculties and schools of
foreign languages have always tried to create a
multilingual and multicultural environment while
language learners have always tried to become
multilingual and multicultural persons. But it
seems that the roles of both the learners and the
environment have not been evaluated properly,
and their strong points have not been promoted.
In the context of foreign language teaching and
learning and Vietnam’s international integration
process, foreign language teachers should be
equipped with the knowledge and teaching
skills helpful for a multilingual and multicultural
environment.
Key words: foreign language teaching and
learning, multilingualism, multiculturalism
Ngày nhận: 11/7/2016
Ngày phản biện: 15/7/2016
Ngày duyệt đăng: 25/7/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_3153_2137187.pdf