Tài liệu Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Xã hội học số 3 (87), 2004 3
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong nền kinh tế thị tr−ờng
định h−ớng xã hội chủ nghĩa
Phạm Xuân Nam
Thúc đẩy và tăng tr−ởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có thể
nói là một mục tiêu “kép” của sự phát triển bền vững mà nhiều quốc gia trên thế giới
đều mong muốn đạt tới. Nh−ng trên thực tế: đây là bài toán cực khó mà không phải
là n−ớc nào cũng có thể đ−a ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu tốt đẹp đó
thành hiện thực thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết,
phải giải quyết nhiều mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái xã hội trong một mô hình
kinh tế cụ thể đã đ−ợc lựa chọn sao cho vừa đáp ứng đ−ợc yêu cầu phát triển của dân
tộc vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Với cách đặt vấn đề nh− thế, bài viết này sẽ lần l−ợt phân tích một số nội
dung chủ yếu sau:
I. Điểm qua các mô hình kinh tế tiêu biểu trên thế giới xét từ góc độ
tiến bộ và công bằng xã hội
Về đại thể,...
11 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 775 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 3 (87), 2004 3
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong nền kinh tế thị tr−ờng
định h−ớng xã hội chủ nghĩa
Phạm Xuân Nam
Thúc đẩy và tăng tr−ởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có thể
nói là một mục tiêu “kép” của sự phát triển bền vững mà nhiều quốc gia trên thế giới
đều mong muốn đạt tới. Nh−ng trên thực tế: đây là bài toán cực khó mà không phải
là n−ớc nào cũng có thể đ−a ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu tốt đẹp đó
thành hiện thực thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết,
phải giải quyết nhiều mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái xã hội trong một mô hình
kinh tế cụ thể đã đ−ợc lựa chọn sao cho vừa đáp ứng đ−ợc yêu cầu phát triển của dân
tộc vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Với cách đặt vấn đề nh− thế, bài viết này sẽ lần l−ợt phân tích một số nội
dung chủ yếu sau:
I. Điểm qua các mô hình kinh tế tiêu biểu trên thế giới xét từ góc độ
tiến bộ và công bằng xã hội
Về đại thể, trong những thập niên qua, trên thế giới đã từng có ba loại mô
hình kinh tế tiêu biểu. Mỗi loại mô hình th−ờng dựa vào một lý thuyết phát triển
nhất định, phản ánh bản chất chế độ chính trị - xã hội và truyền thống văn hóa của
n−ớc áp dụng mô hình đấy.
1.1. Mô hình kinh tế thị tr−ờng tự do
Kế thừa các luận điểm nổi tiếng của các nhà kinh tế học cổ điển nh− Adam
Smith, David Ricardo trong các thế kỷ tr−ớc, từ những năm 60 của thế kỷ XX ở các
n−ớc ph−ơng Tây, ng−ời ta đã lần l−ợt đ−a ra nhiều điểm bổ sung cho lý thuyết phát
triển nền kinh tế thị tr−ờng tự do nh−: lý thuyết “tăng tr−ởng cân bằng” của Nurkse,
lý thuyết “cú hích lớn cho tăng tr−ởng” của Roseinstein - Rodan, lý thuyết “các giai
đoạn tăng tr−ởng kinh tế” của Rostow Đặc điểm của các lý thuyết này là ở chỗ hầu
nh− chúng chỉ đề cao các nhân tố thúc đẩy tăng tr−ởng kinh tế đơn thuần, mà không
chú ý thỏa đáng đến các nhân tố phát triển xã hội theo h−ớng tiến bộ và công bằng.
Có học giả nh− A.Lewis còn tìm cách chứng minh: Tại các n−ớc áp dụng nền
kinh tế thị tr−ờng tự do, tăng tr−ởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mục tiêu
không thể dung hòa. Nếu muốn tăng tr−ởng nhanh thì phải hy sinh công bằng xã hội
là hai mục tiêu không thể dung hòa. Còn nếu đề cao công bằng xã hội, thì không tăng
tr−ởng nhanh đ−ợc.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng 4
Tỏ ra chừng mực hơn so với lý thuyết tăng tr−ởng kinh tế dựa trên bất công
xã hội đ−ợc xem là tự nhiên, S.Kuznets - nhà kinh tế học Mỹ đ−ợc giải th−ởng Nobel
năm 1971 - lại đề ra lý thuyết phát triển theo mô hình “chữ U ng−ợc”. Theo đó, trong
giai đoạn đầu của tăng tr−ởng kinh tế, bất công xã hội tăng lên, đến khi kinh tế đã
đạt mức phát triển cao rồi thì nó sẽ làm cho sự bất công ấy giảm đi.
Gần với luận điểm của S.Kuznets, từ đầu những năm 1980, nhiều lý thuyết
gia kinh tế ph−ơng Tây lại ra sức khuyến khích các n−ớc trên thế giới điều chỉnh nền
kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới. Thực hiện lý thuyết này, ng−ời ta đã giảm bớt vai
trò của Nhà n−ớc, đề cao vị trí của khu vực t− nhân, giảm tỷ lệ chi tiêu công cộng,
điều chỉnh việc phân phối thu nhập có lợi cho giới t− bản nhằm kích thích họ “tiết
kiệm và đầu t−”. Một tr−ờng phái của chủ nghĩa tự do mới còn đ−a ra ph−ơng châm
“Tăng tr−ởng và nhỏ giọt từ trên xuống” (Growth and trickle down)1, nghĩa là tr−ớc
hết phải có tăng tr−ởng kinh tế thì sau đó mới có thể có một số ít của cải từ tầng lớp
trên giàu có rơi rớt xuống cho tầng lớp d−ới nghèo khổ !
1.2. Mô hình kinh tế thị tr−ờng xã hội
Đây là mô hình dựa theo lý thuyết của J.M.Keynes, theo đó ng−ời ta sử dụng
nền kinh tế thị tr−ờng có điều tiết bởi nhà n−ớc phúc lợi để tạo ra sự đồng thuận xã
hội cho phát triển.
Điển hình của mô hình này là Nhà n−ớc phúc lợi Thụy Điển do Đảng xã hội -
dân chủ cầm quyền liên tục trong nhiều thập kỷ.
Một hệ thống các chính sách phúc lợi rộng rãi đã đ−ợc đề ra, bao gồm các chế
độ trợ cấp cho giáo dục, y tế, chăm sóc trẻ em, ng−ời già, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất
nghiệp do Nhà n−ớc chi ở mức cao nhất thế giới. Để thực hiện đ−ợc các chế độ nói
trên, Nhà n−ớc thi hành chính sách thuế thu nhập theo lũy tiến. Trong nhiều năm,
các nguồn thu từ thuế thu nhập đạt tới 55% ngân sách nhà n−ớc, một con số cao hơn
nhiều so với mức trung bình của các n−ớc OECD. Đối với những ng−ời có thu nhập
cao nhất, tỷ lệ thuế thu nhập có khi lên tới 80%.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh kinh tế thế giới ngày càng gay gắt,
các chính sách phúc lợi xã hội rộng rãi dựa trên thuế thu nhập đánh theo lũy tiến,
một mặt đẻ ra tình trạng lạm dụng các trợ cấp xã hội ở mức độ lớn trong dân chúng,
mặt khác gây ra sự bất mãn trong các chủ doanh nghiệp giàu có. Nhiều nhà t− bản
đã chuyển vốn đầu t− ra n−ớc ngoài.
Đó là lý do giải thích tại sao nền kinh tế Thụy Điển sau thời kỳ “hoàng kim”
đã dần dần rơi vào trì trệ và suy thoái kể từ cuối những năm 70 - đầu những năm 80
thế kỷ XX. Hệ quả là Đảng xã hội - dân chủ bị gạt ra khỏi chính quyền 2 lần vào
những năm 1976 - 1982 và 1991 - 1994. Khi trở lại cầm quyền, họ buộc phải cắt giảm
đáng kể mức chi cho trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho trẻ em, trợ cấp cho những ng−ời
tàn tật và nhiều khoản phúc lợi khác. Những cắt giảm này đ−ợc ng−ời ta biện minh
1 Sophie Bessis: From social exclusion to social cohesion: a policy agenda. UNESCO, Paris 1995. P.8.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Phạm Xuân Nam 5
rằng: “Phải dỡ bỏ các bộ phận của chế độ phúc lợi nằm cứu vãn cốt lõi của chế độ
này”2.
Tuy nhiên, theo nhận xét của nhiều học giả ph−ơng Tây, mô hình kinh tế thị
tr−ờng xã hội ngày nay đã tỏ ra “có những dấu hiệu kiệt sức”3 trong việc giải quyết
mâu thuẫn giữa cuộc chạy đua giành lợi nhuận tối đa của giới chủ các tập đoàn
xuyên quốc gia và nhu cầu to lớn về phúc lợi của quảng đại quần chúng nhân dân ở
những n−ớc áp dụng mô hình ấy.
1.3. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung phi thị tr−ờng
Khác với hai loại hình vừa nêu, ở Liên Xô cũ và hầu hết các n−ớc xã hội chủ
nghĩa tr−ớc đây, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung phi thị tr−ờng đã đ−ợc áp
dụng rộng rãi.
Trong một thời gian, mô hình này đã từng phát huy tác dụng tích cực trong
việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa theo kiểu cổ điển, nâng cao tiềm lực kinh tế
và quốc phòng, đồng thời tạo nên sự bình ổn xã hội bằng những chính sách quan tâm
đến mọi mặt của đời sống con ng−ời. Nh−ng càng về sau, nó càng bộc lộ nhiều khuyết
tật, mà chủ yếu là các nhu cầu về xã hội v−ợt quá khả năng đáp ứng của một nền
kinh tế thiếu năng động, kém hiệu quả, rất chậm chễ trong việc ứng dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật - công nghệ mới nhất vào sản xuất do cơ chế kế hoạch
hóa tập trung cao độ dần dần biến thành tập trung quan liêu và thực hiện chế độ
phân phối về cơ bản là theo chủ nghĩa bình quân. Chính điều đó đã kìm hãm, thậm
chí triệt tiêu động lực của sự phát triển, khiến cho các n−ớc áp dụng mô hình đó dần
dần lâm vào tình trạng trì trệ, rồi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Từ thực tế của ba loại mô hình phát triển kinh tế nêu trên, trong những năm
gần đây, càng ngày càng có thêm nhiều nhà khoa học tiến bộ, nhiều nhà chính trị
sáng suốt trên thế giới cho rằng: Phải xây dựng lại các lý thuyết và mô hình phát
triển của các quốc gia sao cho tăng tr−ởng kinh tế không đi ng−ợc chiều mà có thể đi
đôi với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội.
Ngay ở Mỹ, trái với quan điểm của giới cầm quyền, đại diện cho lợi ích của các
tập đoàn t− bản tài chính khổng lồ, một số nhà khoa học có đầu óc tỉnh táo đã đề
xuất ý t−ởng về việc thực hiện tăng tr−ởng kinh tế trong công bằng. Chẳng hạn, nhà
xã hội học Mỹ Frank Scarpati cho rằng mục tiêu công bằng xã hội có thể đ−ợc thực
hiện thông quan một số chính sách làm giảm sự tập trung những nguồn tài nguyên
kinh tế trong tay một số ít ng−ời nắm độc quyền trong xã hội. Nh−ng ông ta không
nói rõ làm thế nào để thực hiện đ−ợc chính sách đó trong lòng xã hội Mỹ.
Mặc dù đi theo nền kinh tế thị tr−ờng t− bản chủ nghĩa, nh−ng trong kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của mình, Inđônexia đã xác định ph−ơng
châm phát triển trong công bằng và đoàn kết. Cũng vậy, Tầm nhìn 2020 của
Malaixia đ−ợc xây dựng từ 1990 đã đề ra mục tiêu tăng gấp 8 lần tổng thu nhập
2 Hans- Ingvar Johnsson: Bức tranh toàn cảnh Thuỵ Điển. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội -1997, tr. 177
3 Sophie Bessis. Sách đã dẫn, P. 31
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng 6
quốc dân trong vòng 30 năm, đồng thời thực hiện công bằng xã hội, ổn định chính trị,
bảo vệ các giá trị tinh thần của dân tộc
Đặc biệt, tiếp theo những thành tựu ngoạn mục của hơn 20 năm cải cách mở
cửa, Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc (2002) đã nhấn mạnh nhiệm vụ
hoàn thiện thể chế kinh tế thị tr−ờng xã hội chủ nghĩa, duy trì tốc độ tăng tr−ởng cao
và bền vững nhằm thực hiện mục tiêu cùng giàu có, xã hội công bằng, phân chia một
cách hợp lý những thành quả kinh tế - xã hội để tất cả các thành viên trong xã hội
đều đ−ợc h−ởng.
Nêu lên một số ví dụ trên đây để chúng ta theo dõi, nghiên cứu, rút tỉa những
bài học kinh nghiệm của các n−ớc khác trong khu vực và trên thế giới trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng tr−ởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội, qua đó vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của n−ớc nhà.
II. Thực trạng tăng tr−ởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt
Nam trong quá trình đổi mới - thành tựu và vấn đề đặt ra
Ai nấy đều biết, ở thời kỳ tr−ớc đổi mới, do bị chi phối bởi những nhận thức ấu
trĩ, giản đơn, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà n−ớc ta đã chủ tr−ơng đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng xóa bỏ các thành phần kinh tế cá thể
của nông dân, thợ thủ công, tiểu th−ơng, tiểu chủ và thành phần kinh tế t− bản t−
nhân để sớm hình thành một nền kinh tế “thuần nhất” dựa trên chế độ sở hữu công
cộng về t− liệu sản xuất d−ới hai hình thức quốc doanh và tập thể, đồng thời áp dụng
ph−ơng thức quản lý kế hoạch hóa tập trung và thực hiện chế độ phân phối theo lao
động trên danh nghĩa nh−ng trên thực tế là cào bằng, bình quân chủ nghĩa, xem đó
là xây dựng quan hệ sản xuất mới đi tr−ớc một b−ớc để mở đ−ờng cho lực l−ợng sản
xuất phát triển. Nh−ng trái với mong muốn chủ quan, lực l−ợng sản xuất xã hội
chẳng những không phát triển thuận lợi mà còn bị kìm hãm gắt gao, khi quan hệ sản
xuất có những yếu tố v−ợt quá xa so với tính chất và trình độ thủ công, lạc hậu, phân
tán còn phổ biến ở n−ớc ta lúc bấy giờ. Chính những suy nghĩ và hành động trái với
quy luật khách quan ấy đã trở thành nguyên nhân sâu xa đẩy đất n−ớc lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng kéo dài từ cuối những năm 1970. Trong bối
cảnh đó, việc thực hiện công bằng xã hội về thực chất chỉ là “chia đều sự nghèo khổ”.
Để ra khỏi khủng hoảng, Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã đề ra đ−ờng lối đổi
mới toàn diện, trong đó có chủ tr−ơng mang tính đột phá là: Chuyển nền kinh tế từ
mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị tr−ờng, có sự quản lý của Nhà n−ớc theo định
h−ớng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ
nghĩa, nh− Đại hội IX của Đảng (4-2001) đã khái quát.
Theo chủ tr−ơng này, chúng ta sử dụng cơ chế thị tr−ờng với t− cách là thành
quả của nền văn minh nhân loại làm ph−ơng tiện để năng động hóa và đẩy nhanh
nhịp độ tăng tr−ởng kinh tế, tăng c−ờng xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa nhân dân. Chúng ta không rập
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Phạm Xuân Nam 7
khuôn theo mô hình kinh tế thị tr−ờng tự do - dù là dựa vào lý thuyết của chủ nghĩa
tự do cổ điển hay lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới. Bởi thực tế đã cho thấy bản thân
nền kinh tế thị tr−ờng tự do không tự động dẫn đến công bằng xã hội, trái lại còn
làm cho phân hóa giàu nghèo quá mức, kéo theo nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội
nan giải. Chúng ta chú ý tham khảo và tiếp thu có lựa chọn một số kinh nghiệm cụ
thể của mô hình kinh tế thị tr−ờng xã hội trong việc thực hiện các chính sách phúc
lợi công cộng, nh−ng cũng không sao chép mô hình này. Vì về thực chất, đó vẫn là mô
hình duy trì địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và th−ợng tầng kiến trúc t− bản
chủ nghĩa trong xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm của đất n−ớc sau hơn 70 năm tiến hành cách mạng
d−ới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chủ tr−ơng đề cao vai trò
quản lý và điều tiết nền kinh tế vĩ mô của Nhà n−ớc đối với nền kinh tế thị tr−ờng
định h−ớng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện “Tăng tr−ởng kinh tế gắn liền với bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng b−ớc phát triển”4.
Về nguyên tắc phân phối, Đại hội Đảng IX đã khẳng định: “Kinh tế thị tr−ờng
định h−ớng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”5.
Việc khẳng định nguyên tắc phân phối này là kết quả của sự kế thừa, bổ sung
và phát triển những nguyên tắc đã đ−ợc lần l−ợt đề ra qua các Đại hội VI, VII, VIII
của Đảng tr−ớc đó. Có thể xem đây là nguyên tắc phân phối phù hợp với thực tế của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở n−ớc ta, khi còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế, nhiều hình thức sở hữu và do đó cũng đang có nhu cầu bức bách phải phát huy
đến mức cao nhất mọi tiềm năng về lao động, vốn, kỹ thuật, kiến thức, kinh nghiệm
quản lý của tất cả các thành phần kinh tế để tăng nhanh lực l−ợng sản xuất lên.
Thực tiễn của quá trình đổi mới từ cuối năm 1986 đến nay đã chứng tỏ, bên
cạnh nhiều nhân tố khác, chính việc thực hiện nguyên tắc phân phối nói trên đã có
tác dụng khơi dậy tính năng động và chủ động xã hội của mọi tầng lớp dân c−, tạo
nên động lực to lớn thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Nhìn chung, kinh tế đã đạt tốc độ tăng tr−ởng khá cao liên tục trong nhiều
năm, đời sống của đại đa số nhân dân đ−ợc cải thiện rõ rệt. Riêng từ thời kỳ 1991-
2000, GDP tăng gấp đôi, đồng thời tỷ lệ ng−ời nghèo giảm còn một nửa (từ hơn 60%
xuống 32% theo tiêu chuẩn quốc tế) nh− vậy đã là hoàn thành sớm hơn so với kế
hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015 mà Liên Hiệp quốc đề ra6.
Trong cùng thời gian, cả n−ớc đã đặt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, tỷ lệ ng−ời lớn biết chữ tăng từ 88% lên 94%. Công tác chăm sóc sức
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia. Hà Nội - 2001, tr 88.
5 Nh− trên, tr 88.
6 Cơ quan đại diện Liên Hiệp quốc tại Việt Nam: Đ−a các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đến với ng−ời
dân. Hà Nội - 2002, tr. 1.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng 8
khỏe nhân dân có tiến bộ, tuổi thọ trung bình của ng−ời dân tăng từ 63 lên 68. Chỉ số
phát triển ng−ời (HDI) từ mức d−ới trung bình: 0,498 năm 1991 tăng lên mức trung
bình: 0,688 năm 2000, xếp thứ 109/173 n−ớc đ−ợc thống kê.7
Tuy nhiên, hiện nay n−ớc ta vẫn cơ bản là một n−ớc nông nghiệp, với trên
63% lực l−ợng lao động xã hội tập trung trong các ngành nông - lâm - ng−; công
nghiệp còn nhỏ bé, dịch vụ ch−a phát triển; nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội
chủ nghĩa chậm đ−ợc thể chế hóa đồng bộ; chất l−ợng tăng tr−ởng, hiệu quả sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn kém. Trong lĩnh vực phát triển xã hội, nhiều chính sách
đã ban hành ch−a đ−ợc thực hiện tốt, một số chính sách còn thiếu hoặc có những
điều bất cập. Đời sống của một bộ phận dân c−, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số miền núi còn nhiều khó khăn. Khoảng cách giàu - nghèo giữa các
tầng lớp dân c−, giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi đang có xu
h−ớng ngày càng doãng ra. Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, thì hệ số chênh
lệch về thu nhập bình quân đầu ng−ời/tháng giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20%
nghèo nhất trong tổng số dân c− cả n−ớc năm 2002 là 8,14 lần, so với 5,6 lần năm
19928. Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao
(t−ơng ứng là 6% và khoảng 26% hiện nay). Hiện t−ợng làm giàu bất chính do tham
nhũng, buôn lậu, lừa đảo, đầy cơ vẫn ch−a đ−ợc ngăn chặn và đẩy lùi. Các tệ nạn xã
hội vẫn đang còn diễn biến phức tạp.
Từ những điều nói trên, một vấn đề có ý nghĩa then chốt đ−ợc đặt ra đối với
giới nghiên cứu lý luận và giới hoạt động thực tiễn hiện nay là cần phải làm gì và
làm nh− thế nào để góp phần phát huy những thành tựu đã đạt đ−ợc, khắc phục
những yếu kém còn lại của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục thúc đẩy
tăng tr−ởng kinh tế và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị
tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa?
Thật ra, không có câu trả lời dễ dàng, đơn giản cho vấn đề đặt ra trên đây.
Tuy vậy, căn cứ vào đ−ờng lối chung của Đảng, vào những kinh nghiệm thực tế - cả
thành công và không thành công - của sự đổi mới ở n−ớc ta hơn 17 năm qua, đồng
thời tham khảo có lựa chọn kinh nghiệm quốc tế, chúng tôi thử cố gắng đ−a ra một số
ý kiến sơ bộ của mình về vấn đề đã đ−ợc đặt ra nh− sau.
III. Cụ thể hóa quan điểm và kiến nghị một số h−ớng giải pháp về
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng định
h−ớng xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới
3.1. Hệ quan điểm
Căn cứ vào quan điểm tổng quát của Đảng về “tăng tr−ởng kinh tế gắn liền
với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng b−ớc phát triển”, chúng ta
có thể cụ thể hóa quan điểm đó thành một số nội dung chủ yếu sau đây:
7 UNDP: Human Development Report 1991. NewYork 1991. P 120: Human Development Report 2002.
NewYork 1992. P 151
8 Nguồn: Thời báo kinh tế
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Phạm Xuân Nam 9
Một là, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng định
h−ớng xã hội chủ nghĩa tr−ớc hết đòi hỏi phải phấn đấu đạt tốc độ tăng tr−ởng kinh
tế nhanh, có hiệu quả cao và bền vững. Bởi lẽ chỉ có một nền kinh tế nh− thế thì mới
có khả năng huy động các nguồn lực vật chất để thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Không thể có tiến bộ và công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế trì trệ, suy
thoái chỉ đủ cung cấp cho dân chúng một cuộc sống “giật gấu vá vai”, “khéo ăn mới
no, khéo co mới ấm”. Cũng không thể có một nền kinh tế tăng tr−ởng nhanh, có hiệu
quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số dân chúng thấp kém về trí tuệ, ốm
yếu về thể chất và một bộ phận đáng kể lực l−ợng lao động thất nghiệp, nghèo đói, bị
đẩy ra ngoài lề xã hội.
Hai là, tiến bộ và công bằng xã hội phải đ−ợc thực hiện ngay trong từng b−ớc
của quá trình phát triển nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa.
Không thể chờ đợi đến khi kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện
tiến bộ công bằng xã hội; mỗi chính sách đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội điều
phải góp phần thúc đẩy tăng tr−ởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, tr−ớc mắt
hoặc lâu dài.
Ba là, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng nhiều
thành phần, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn d− của chế độ phân phối
bình quân, “cào bằng”, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất l−ợng
hiệu quả của sản xuất, kinh doanh và sự đóng góp công sức, trí tuệ, tài sản của mỗi
ng−ời cho phát triển chung của đất n−ớc, nh− sai lầm của thời kỳ tr−ớc đổi mới. Điều
quan trọng hiện nay là phải tạo ra những cơ hội bình đẳng cho mọi ng−ời dân, nhất
là những ng−ời yếu thế và dễ bị tổn th−ơng, đều đ−ợc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản về giáo dục, đào tạo, y tế, việc làm, tín dụng, thông tin... để họ có thể tự lo liệu và
dần dần cải thiện cuộc sống của bản thân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng
đất n−ớc.
Bốn là, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng
định h−ớng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời với phát triển văn hóa. Văn hóa hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm cả t− t−ởng, đạo đức, lối sống, giáo dục, khoa học, thông tin,
văn học, nghệ thuật Theo nghĩa đó, một nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra hiện nay
là phải làm sao đ−a các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực hoạt động và
quan hệ con ng−ời, tạo ra trên đất n−ớc ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân
trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện đ−ợc điều này, Nhà n−ớc cần thật sự coi giáo dục, đào tạo và khoa học,
công nghệ là quốc sách hàng đầu, không ngừng nâng cao dân trí, bồi d−ỡng nhân
cách, trọng dụng hiền tài, cập nhật thông tin, từng b−ớc xây dựng một nền kinh tế
tri thức gắn liền với một xã hội học tập, tiến bộ và rất nhân văn, vừa phát huy các
giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó
ngăn ngừa và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Năm là, để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng
định h−ớng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà n−ớc là
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng 10
hết sức quan trọng. Do tác động của các quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, kinh
tế thị tr−ờng có mặt mạnh cơ bản là luôn kích thích việc cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
quy trình sản xuất kinh doanh. Nh−ng vì bị chi phối bởi động cơ lợi nhuận, kinh tế
thị tr−ờng không tránh khỏi các yếu tố tự phát vô chính phủ, dẫn đến suy thoái hoặc
khủng hoảng kinh tế chu kỳ và nhất là không thể tự động dẫn đến tiến bộ và công
bằng xã hội. Do đó, Nhà n−ớc xã hội chủ nghĩa phải biết tận dụng mặt mạnh của cơ
chế thị tr−ờng để giải phóng và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng tr−ởng kinh tế,
đồng thời phải kết hợp sử dụng các công cụ pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch và sức mạnh vật chất của khu vực kinh tế Nhà n−ớc để khắc phục những thất
bại của cơ chế thị tr−ờng nhằm thúc đẩy kinh tế tăng tr−ởng bền vững, đồng thời bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
3.2. Kiến nghị một số h−ớng giải pháp
Hệ quan điểm cụ thể vừa nêu ở trên cần đ−ợc vận dụng một cách tổng hợp để
xác định những h−ớng giải pháp nhằm nâng cao chất l−ợng tăng tr−ởng kinh tế,
đồng thời bảo đảm tốt hơn tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình hoàn thiện
nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa từ nay đến năm 2010 và triển
vọng đến năm 2020.
ở đây, chúng tôi xin nêu một số kiến nghị nh− sau:
- Tr−ớc hết, các chính sách quản lý vĩ mô của nhà n−ớc cần đ−ợc cải tiến hơn
nữa nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp
dân c− đều có cơ hội tiếp cận bình đẳng đối với các yếu tố “đầu vào” của sản xuất
kinh doanh. Các yếu tố “đầu vào” này bao gồm cả hữu hình và vô hình nh− đất đai,
tín dụng, kỹ thuật, môi tr−ờng kinh doanh, thông tin kinh tế Dĩ nhiên, việc tiếp
cận các yếu tố nói trên của các chủ thể kinh tế sẽ không đ−ợc thực hiện theo cơ chế
xin - cho vẫn còn để lại nhiều di chứng từ thời bao cấp, mà theo cơ chế thị tr−ờng, lấy
tiêu chuẩn sử dụng có hiệu quả làm căn cứ, chứ không chỉ chú ý xét xem mỗi chủ thể
ấy thuộc thành phần kinh tế nào. Đối với các doanh nghiệp nhà n−ớc làm ăn có hiệu
quả một mặt cần tạo điều kiện cho chúng nhanh nhạy ứng dụng những thành tựu
của khoa học công nghệ, cải tiến quản lý nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh cạnh
tranh trên thị tr−ờng trong và ngoài n−ớc, nh−ng mặt khác phải kiên quyết xóa bỏ
những −u đãi có tính độc quyền trong sản xuất kinh doanh, trong quy định giá cả các
hàng hóa và dịch vụ, vì điều đó đã và đang gây ra những ảnh h−ởng xấu đến tốc độ
tăng tr−ởng kinh tế chung và việc thực hiện công bằng với đa số ng−ời tiêu dùng
trong xã hội.
- Thứ hai, đối với các kết quả “đầu ra” của quá trình sản xuất kinh doanh, có
thể và cần phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào quá trình trên, xem đây là nguyên tắc phân phối phù hợp với
điều kiện cụ thể của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở n−ớc ta.
Việc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đ−ợc xem là chủ yếu
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Phạm Xuân Nam 11
và đặt ở vị trí hàng đầu của công bằng xã hội vì chính lao động có năng xuất, chất
l−ợng và hiệu quả mới thực sự là nguồn gốc quan trọng nhất tạo ra mọi của cải cho
xã hội. Nh−ng trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị tr−ờng nhiều thành
phần, thì ngoài phân phối theo lao động, việc phân phối theo mức đóng góp vốn và
các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh cũng phải đ−ợc coi là công bằng.
Dĩ nhiên thừa nhận điều này cũng có nghĩa là chấp nhận sự tồn tại của quan
hệ bóc lột giá trị thặng d− ở một phạm vi nhất định. Song đây là điều không thể
tránh khỏi, khi trình độ lực l−ợng sản xuất ở n−ớc ta còn thấp kém thì việc huy động
thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của t− bản t− nhân trong n−ớc và t−
bản n−ớc ngoài đầu t− vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần thúc
đẩy tăng tr−ởng kinh tế, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống
cho ng−ời lao động vẫn còn là yêu cầu khách quan tất yếu.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin từng chỉ ra rằng: Biện chứng
của lịch sử là ở chỗ xã hội loài ng−ời phải đi qua “v−ơng quốc tất yếu” mới đến đ−ợc
“v−ơng quốc tự do”. Mác viết: “Ng−ời ta mỗi lần đều giành đ−ợc tự do (ở đây là tự do
thoát khỏi bóc lột) chừng nào việc đó không phải do lý do lý t−ởng về con ng−ời mà do
lực l−ợng sản xuất hiện hành quyết định và cho phép”9
- Thứ ba, trong khi còn chấp nhận quan hệ bóc lột ở mức độ nhất định, thì
Nhà n−ớc xã hội chủ nghĩa cần phải có chính sách điều tiết thu nhập giữa những
ng−ời tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sao cho ng−ời lao động không bị
nhà t− bản bóc lột quá mức mà có thu nhập xứng đáng với sức lao động của họ.
ở đây, một vấn đề đ−ợc đặt ra là có cần phải thu hẹp sự chênh lệch về thu
nhập và khoảng cách giàu - nghèo giữa các giai tầng xã hội trong nền kinh tế thị
tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa không? Theo chúng tôi không nên thực hiện
điều này bằng cách hạn chế những nhà t− bản làm giàu hợp pháp trái lại cần
khuyến khích họ làm giàu trong tất cả các lĩnh vực mà pháp luật không cấm, đồng
thời đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, coi trọng việc tạo điều kiện cho ng−ời
lao động không ngừng nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp của mình
lên, qua đó tạo ra một thứ sở hữu trí tuệ để ngày càng nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống. Nh− thế là “làm cho ng−ời nghèo thì đủ ăn, ng−ời đủ ăn thì khá giàu,
ng−ời khá giàu thì giàu thêm” nh− Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, vừa góp phần
thúc đẩy tăng tr−ởng kinh tế vừa đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong điều
kiện của n−ớc ta hiện nay.
- Thứ t−, ngoài việc phân phối cho những ng−ời trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất kinh doanh nh− trên đã nói, ở tầm quản lý vĩ mô Nhà n−ớc xã hội chủ
nghĩa còn cần phải thi hành chính sách phân phối lại thông qua các sắc thuế (nh−
thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu) để tạo ra nguồn
thu cho ngân sách nhà n−ớc và phân bổ hợp lý các khoản chi từ ngân sách này cho
đầu t− phát triển kinh tế và cho việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội.
9 C. Mác và Ph. ăngghen: Toàn tập, Tập 3 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội-1995, tr. 632 - 633.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng 12
Về điểm này, từ lâu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đ−a ra một luận điểm hết sức
sáng suốt. Tại hội nghị Bộ Chính trị ngày 30 - 7 - 1962 khi bàn về kế hoạch 5 năm
lần thứ I (1961 - 1965) trên miền Bắc, khác với ý kiến cho rằng cần động viên nhân
dân thực hiện khẩu hiệu “thắt l−ng buộc bụng” để tập trung vốn đầu t− cho việc thực
hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Ta phải tính
cách nào, nếu có thể giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn, mặc của
quần chúng đ−ợc tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá. Nhà
máy cũng cần có thêm, có sớm, nh−ng cần hơn cả là con ng−ời là sự phấn khởi của
quần chúng. Làm tất cả cho con ng−ời. Làm cho quần chúng hiểu đúng chủ nghĩa xã
hội hơn”10.
Dĩ nhiên, hoàn cảnh của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ngày nay ở n−ớc ta đã khác xa so với hơn 40 năm tr−ớc, nh−ng tình thần cốt lõi trong
luận điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là chỉ dẫn rất quí báu để Đảng và
Nhà n−ớc ta tìm ra đúng cái “độ” hợp lý giữa đầu t− cho phát triển kinh tế và đầu t−
cho việc thực hiện các chính sách xã hội theo h−ớng tiến bộ và công bằng mà th−ớc
đo là sự cải thiện đời sống vật chất và văn hóa nhân dân.
- Thứ năm, cũng trong việc đầu t− cho phát triển, cần có quy hoạch và kế
hoạch cụ thể để cân đối mức đầu t− cho các vùng lãnh thổ khác nhau. Việc dành mức
đầu t− cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết nhằm tạo ra những đầu
tầu tăng tr−ởng để kéo toàn bộ đoàn tầu kinh tế Việt Nam đi lên. Song không thể
không đầu t− thích đáng cho các vùng khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, nhằm
giảm dần các khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng này từng b−ớc khắc
phục tình trạng “bất công tự nhiên” và “bất công do lịch sử để lại”, giữ vững ổn định
chính trị xã hội đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất n−ớc.
- Thứ sáu, trong số những chính sách có liên quan đến phân phối lại tổng thu
nhập quốc dân, không nên chỉ đặt vấn đề phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Bởi lẽ
khái niệm phúc lợi xã hội chỉ giới hạn trong phạm vi những lợi ích chung mà mọi
ng−ời dân đều đ−ợc h−ởng nh− nhau. Còn trong hoàn cảnh cụ thể của n−ớc ta hiện
nay, các đối t−ợng của chính sách xã hội là rất đa dạng, do đó cần mở rộng chính
sách phúc lợi xã hội thành hệ thống an ninh xã hội nhiều tầng nấc.
Hệ thống đó bao gồm: i) Chính sách −u đãi xã hội nhằm đảm bảo mức sống ít
nhất trên trung bình cho những ng−ời có công trong quá trình cách mạng và kháng
chiến tr−ớc đây; ii) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần
thu nhập của những ng−ời lao động lúc bình th−ờng để dành chi tiêu cho những lúc
gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già ); iii) Chính sách trợ cấp xã hội để trợ
10 Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Tập 8 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội - 1996 trang 272.
Chúng tôi dùng các cụm từ “bất công tự nhiên” và “bất công do lịch sử để lại” (trong ngoặc kép) là để chỉ
sự khác biệt giữa những nơi có lợi thế và những nơi không có lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý, cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội do những điều kiện tự nhiên quy định và cũng do ch−a đ−ợc khai thác, phát triển
trong giai đoạn lịch sử tr−ớc đây.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Phạm Xuân Nam 13
giúp những ng−ời yếu thế và dễ bị tổn th−ơng nh− ng−ời tàn tật, ng−ời già cô đơn,
trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ iv) Chính sách cứu trợ xã hội để c−u mang những
ng−ời bị thiệt hại nặng do địch họa, thiên tai hoặc rủi ro trong cuộc sống; v) Chính
sách t−ơng trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống t−ơng thân t−ơng ái, “lá lành
đùm lá rách” trong cộng đồng để giúp nhau v−ợt qua khó khăn, xóa đói giảm nghèo,
cải thiện đời sống.
- Thứ bảy, cần tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt có sự chỉ đạo sát sao
từ cấp cao nhất, sử dụng nhiều “binh chủng hợp thành”, nhiều biện pháp kết hợp để
ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những hiện t−ợng làm giàu phi pháp, vì đây chính
là nhân tố vừa làm tổn hại đến tăng tr−ởng kinh tế chung vừa tạo ra bất công xã hội
lớn nhất.
Những kẻ làm giàu phi pháp hiện nay thuộc hai nhóm: nhóm thứ nhất là bọn
buôn gian bán lậu, lừa đảo, đầu cơ trên th−ơng tr−ờng; nhóm thứ hai là những cán
bộ, đảng viên thoái hóa biến chất lợi dụng vị thế và quyền lực đ−ợc giao (nhất là
trong các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, tài chính doanh nghiệp nhà n−ớc ) để
tham ô tài sản của Nhà n−ớc và nhũng nhiễu nhân dân. Hơn nữa, thực tế nhiều vụ
án kinh tế lớn còn cho thấy rõ có sự móc ngoặc tinh vi giữa hai nhóm trên. Cả hai
nhóm này đều có lợi ích đối kháng với lợi ích của toàn xã hội. Chúng phải bị pháp
luật trừng trị và xoá bỏ càng sớm càng hay, càng triệt để càng tốt đối với việc lành
mạnh hóa môi tr−ờng kinh doanh và đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội.
Cuối cùng, giải pháp cốt lõi và có ý nghĩa bao trùm nhất trong việc thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa
là luôn đặt con ng−ời vào vị trí trung tâm của mọi chiến l−ợc, chính sách, kế hoạch,
ch−ơng trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, xem con ng−ời phát triển cả về thể
lực, trí lực và nhân cách vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự nghiệp dân giàu,
n−ớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà chúng ta đang ra sức phấn đấu
để đạt tới.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so3_2004_phamxuannam_9489.pdf