Thủ pháp “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của Chu Lai

Tài liệu Thủ pháp “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của Chu Lai: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 156 Thủ pháp “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của Chu Lai The writing technique “the flow of consciousness” in Chu Lai’s novels Vũ Thị Kim Chung, Trường THPT Diên Hồng, TP.HCM Vu Thi Kim Chung, Dien Hong High School, HCMC Tóm tắt Chu Lai là một trong những nhà văn lớn của nền văn học đương đại. Ông “thủy chung” với đề tài về chiến tranh, đề tài người lính vốn đã không còn mới mẻ và mang tính thời sự. Tuy vậy, bằng những tìm tòi và cách tân trong lối viết, Chu Lai đã mang đến những giá trị mới mẻ cho các sáng tác của mình. Bài viết nghiên cứu về thủ pháp dòng ý thức – một thủ pháp đã làm nên những thành công trong một số tiểu thuyết tiêu biểu của ông. Từ khoá: dòng ý thức, Chu Lai, tiểu thuyết về chiến tranh. Abstract Chu Lai is one of the greatest writers of contemporary literature. His passion is to write about the subject of war including stories of soldiers and wartime, which have not...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 691 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thủ pháp “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của Chu Lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 156 Thủ pháp “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của Chu Lai The writing technique “the flow of consciousness” in Chu Lai’s novels Vũ Thị Kim Chung, Trường THPT Diên Hồng, TP.HCM Vu Thi Kim Chung, Dien Hong High School, HCMC Tóm tắt Chu Lai là một trong những nhà văn lớn của nền văn học đương đại. Ông “thủy chung” với đề tài về chiến tranh, đề tài người lính vốn đã không còn mới mẻ và mang tính thời sự. Tuy vậy, bằng những tìm tòi và cách tân trong lối viết, Chu Lai đã mang đến những giá trị mới mẻ cho các sáng tác của mình. Bài viết nghiên cứu về thủ pháp dòng ý thức – một thủ pháp đã làm nên những thành công trong một số tiểu thuyết tiêu biểu của ông. Từ khoá: dòng ý thức, Chu Lai, tiểu thuyết về chiến tranh. Abstract Chu Lai is one of the greatest writers of contemporary literature. His passion is to write about the subject of war including stories of soldiers and wartime, which have not been a new and updated topic for many years. However, with his research and innovation in writing, Chu Lai has brought new perspectives and values to his work. The article deals with “the flow of consciousness” - a writing technique that has succeeded in some of his typical novels. Keywords: the flow of consciousness, Chu Lai, novel about war. Mở đầu Trên hành trình gần 70 tuổi đời và hơn ba mươi năm tuổi nghề, Chu Lai-nhà văn quân đội vốn rất nặng nợ, thuỷ chung với đề tài chiến tranh đã để lại trong tâm trí bạn đọc nhiều thế hệ những dấu ấn đặc biệt về hình ảnh người lính thời hậu chiến, góp phần làm phong phú thêm diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại. Với một đề tài không mới đã xuất hiện trong giai đoạn trước đó, nhưng qua sáng tác của Chu Lai, người đọc được tiếp cận một cái nhìn mới mẻ về chiến tranh. Không còn là những thiên anh hùng ca đậm chất sử thi thời chống Mỹ, không còn cái nhìn lãng mạn, lí tưởng hóa mà ngòi bút của một nhà văn đồng thời là một người lính đã đi qua cuộc chiến, đã nếm trải những đau thương, mất mát luôn đào xới để tái hiện hiện lại những tháng ngày gian khổ, nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc. Vẫn còn cảm hứng ngợi ca những người hùng một thời làm nên lịch sử, vẫn là tiếng nói cảm thông trước những mất mát cả về thể chất và tinh thần của người lính khi bước ra cuộc chiến nhưng bên cạnh đó còn là tiếng nói bất bình, phê phán những biểu hiện méo mó về nhân cách của một phận người lính không giữ được mình khi đối diện với muôn mặt đời thường. Và để chuyển tải những thông điệp ấy, nhà văn đã vận dụng khá thành công kỹ thuật sáng tác hiện đại đó là thủ pháp “dòng ý thức”. Đây được xem là một sự đổi mới về phương diện nghệ thuật trong VŨ THỊ KIM CHUNG 157 văn học thời kì đổi mới. Nội dung 1. Thủ pháp dòng ý thức trong văn học Trong công trình 150 thuật ngữ văn học tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng, “dòng ý thức là một khái niệm chỉ một xu hướng sáng tạo văn học (chủ yếu văn xuôi nghệ thuật thế kỉ XX), hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng của con người” [1,122]. Ý thức là một dòng chảy, một con sông trong đó các suy nghĩ, cảm giác, liên tưởng bất chợt cứ xen lẫn, đan bện vào nhau tạo thành những khối hỗn độn, rối rắm. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Thu “giấc mơ và hồi ức là đặc điểm của nhân vật dòng ý thức” [9,121], có nghĩa trong dòng ý thức của nhân vật, mọi hình ảnh, mọi ý tưởng, ký ức hướng đến tâm lý nhân vật luôn xuất hiện một cách tự do, đột ngột, không kiểm soát được trong tư duy của mình. Biểu hiện của “dòng ý thức” là phơi bày các hoạt động bí ẩn trong đời sống nội tâm. Nhà văn khi viết tác phẩm theo “dòng ý thức” thường không chú ý tới cốt truyện, nhà văn cũng không quan tâm nhiều đến bối cảnh, ngoại cảnh mà quan trọng là chú ý đến cái chủ quan, cái bí ẩn trong tâm lí con người, dòng ý thức có thể đứt nối. Các nhà văn khi viết tác phẩm theo thủ pháp dòng ý thức thường song hành với những thủ pháp nghệ thuật mới như đảo ngược thời gian, thời gian đồng hiện, hòa trộn thực-hư, hiện tại-quá khứ và tương lai. Đối tượng trung tâm miêu tả của thủ pháp “dòng ý thức” là ý thức của con người, chú trọng biểu hiện quá trình ý thức, hoạt động tâm lí, bao gồm trạng thái tâm lí thông thường và trạng thái tâm lí khác thường, từ đó mà làm hiện lên tiềm thức của nhân vật. Sáng tác văn chương “dòng ý thức” viết về tâm lí và ý thức nhân vật không giống như sáng tác văn chương truyền thống xuất phát từ phương diện tác giả mà để nhân vật tự bộc lộ thông qua độc thoại nội thân, tự do liên tưởng, phân tích tâm lí, tác giả lui vào hậu trường. Biểu hiện nghệ thuật rõ nhất của thủ pháp “dòng ý thức” phần lớn là vận dụng độc thoại nội tâm và liên tưởng tự do. Thủ pháp “dòng ý thức” cũng có nét đặc sắc trong việc vận dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ cũng thường là không phù hợp với quy phạm ngữ pháp, thiếu logic lí tính, thậm chí hỗn loạn, đảo lộn. Thủ pháp “dòng ý thức” thuần túy trong một số sáng tác ở phương Tây chạy theo “ngôn ngữ dòng ý thức” hoặc văn không có tiêu điểm, hoặc chữ đầu mỗi câu không viết hoa, phần lớn sử dụng từ vựng ngoại lai, thậm chí dùng mấy loại tổ hợp tự do ngôn ngữ, nhiều thể loại trong cùng một tác phẩm. Trong sáng tác văn học, việc vận dụng thủ pháp dòng ý thức xuất hiện khá phổ biến trên toàn thế giới. Đối với văn học phương Tây, “dòng ý thức” được sử dụng nhằm biểu hiện tâm trạng của con người trong xã hội tư bản hiện đại. Các tác phẩm và tác giả tiêu biểu cho văn học “dòng ý thức” phải kể đến Đi tìm thời gian đã mất (Proust), Sóng (Virginia Woolf), Ulysses (James Joyce), Âm thanh và cuồng nộ (Faulker) Tiếp thu việc vận dụng thủ pháp dòng ý thức trong sáng tác văn học thế giới, các nhà văn Việt Nam hiện đại đã xuất hiện trong các sáng tác văn học trước cách mạng tháng Tám mà nhà văn Nam Cao-cây bút văn học hiện thực phê phán giai đoan 1930-1945 là một minh chứng với tiểu thuyết Sống mòn. Trong văn học thời chống Mỹ, thủ pháp này cũng được thể hiện trong sang tác của Nguyễn Minh Châu mà tiêu biểu là tác phẩm Dấu chân người lính. Đặc biệt trong giai đoạn sau 1975, nhiều tác giả thể hiện khá thành công. Thủ pháp “dòng ý thức” được tiếp thu từ bên ngoài được xem như một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn dễ dàng viết lên những trang THỦ PHÁP “DÒNG Ý THỨC” TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI 158 văn sống động về thế giới nội tâm con người. Một số thành tựu có thể kể đến như: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Thế giới xô lệch (Bích Ngân), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Bến không chồng (Dương Hướng), Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh) 2. Những biểu hiện của thủ pháp dòng ý thức trong tiểu thuyết của Chu Lai Kỹ thuật (hay thủ pháp) dòng ý thức trong tiểu thuyết là một vấn đề phức tạp, có nhiều biểu hiện khác như kỹ thuật lắp ghép, đồng hiện, điểm nhìn trần thuật, trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến ba phương diện cơ bản là ngôn ngữ - giọng điệu; nghệ thuật xây dựng cốt truyện; nghệ thuật độc thoại nội tâm. 2.1. Thủ pháp dòng ý thức thể hiện qua ngôn ngữ - giọng điệu Trong tác phẩm Chu Lai đứng ở nhiều ngôi kể, nhưng ngôi kể thông dụng nhất vẫn là ngôi thứ ba. Người kể chuyện thường ẩn sau nhân vật của mình, để nhân vật tự bộc lộ tâm tư tình cảm, và cuộc đời số phận nhân vật hiện lên một cách tự nhiên, chân thực. Có lúc người kể chuyện như hòa vào nhân vật của mình để nói thay cho nhân vật, Ăn mày dĩ vãng là một ví dụ điển hình. Tác giả như nhập thân vào nhân vật Hai Hùng trong cuộc lội ngược dòng về qúa khứ, bởi vậy diễn biến hành động, tâm trạng của nhân vật hiện lên một cách chân thực sinh động. Ngôn ngữ kể chuyện cũng mang những đặc điểm riêng biệt không hòa lẫn với bất cứ ai. Đọc tiểu thuyết Chu Lai, người ta khá dễ dàng nhận ra phong cách, giọng điệu riêng thể hiện trên nhiều mặt (không gian và thời gian, các kiểu nhân vật, tư tưởng tình cảm, các thông điệp gửi gắm), nhưng rõ nhất là bình diện ngôn ngữ. Thủ pháp “dòng ý thức” cũng có nét đặc sắc trong việc vận dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ thường là không phù hợp với quy phạm ngữ pháp, thiếu logic lí tính, thậm chí hỗn loạn, đảo lộn. Phong cách ngôn ngữ bao trùm trong các tác phẩm của ông là thứ ngôn ngữ đa thanh, với nhiều sắc độ: tính chính luận, triết lí, với giọng điệu vừa có tính chiêm nghiệm vừa mang đầy chất lính, thô mộc, đời thường... Nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị đã nhận xét: Tác giả – người kể chuyện – khi thì trong hậu trường, khi đàng hoàng bước ra sân khấu, dưới ánh đèn, trước đám đông khán giả, biết đế, biết đệm, biết dừng lặng, biết mời gọi, biết đánh trống lảng, biết nhường lời và lại biết biểu hiện thành thực những cảm xúc, xúc động [Dẫn theo 10]. Nếu như ở ngôn ngữ nhân vật, giọng văn Chu Lai vừa bốp chát, bụi bặm, vừa sắc cạnh, hóm hỉnh, đầy chất lính thì trong ngôn ngữ người kể chuyện, tiểu thuyết Chu Lai vẫn mang phong cách ngôn ngữ nhân vật nhưng trầm tĩnh, đầy nội tâm. Thoát khỏi giọng điệu trang trọng đậm chất sử thi của văn học trước đó, nhà văn để tìm đến giọng thân mật, suồng sã, trần trụi, đậm chất lính. Có thể nói đây là một trong những nét chủ đạo của giọng điệu trong hầu hết các sáng tác của nhà văn. Chu Lai đã chọn cho mình một thứ ngôn từ thích hợp, phù hợp với giọng điệu chung đó. Ngôn ngữ người kể chuyện trong văn Chu Lai bao giờ cũng mạnh mẽ, rõ ràng. Sở dĩ có đặc điểm này là do nhà văn luôn đẩy số phận của nhân vật đến tận cùng của nỗi đau, miêu tả chiến tranh như đúng bản chất khốc liệt của nó. Ngôn ngữ của tiểu thuyết Chu Lai như đi đến tận cùng mọi ngõ ngách của vấn đề. Bởi vậy, ngôn ngữ người kể chuyện mang tính đa thanh, soi tỏ, bao quát nhiều lĩnh vực trong cuộc sống giúp người đọc có thể tìm thấy nhiều vỉa tầng ý nghĩa, thú vị. Đối mặt với những đau thương, mất mát của chiến tranh khốc liệt, Chu Lai luôn tạo cho giọng điệu của người kể chuyện một tinh thần lạc VŨ THỊ KIM CHUNG 159 quan. Chất hài hước, vui nhộn đóng vai trò quan trọng để tạo nên tinh thần này và đó cũng là chất giọng riêng khá đặc sắc của Chu Lai. Đó là những câu chuyện vui, dẫn người đọc vào những tình huống truyện rất tự nhiên của người kể chuyện: “... Ngôi nhà mái ngói có khoảnh sân thơm ngát mùi mít chín và mùi nhang cháy dở kia rồi. Tối đen. Nóng hỉm. Phập phồng...” [6,12]. Hai từ “nóng hỉm” không tuân theo một cấu trúc cấu tạo từ ngữ cụ thể và không có trong từ điển tiếng Việt, hoàn toàn mới, đậm chất Chu Lai, tạo sắc thái dí dỏm hài hước, gợi liên tưởng thú vị cho người đọc. Trong Ăn mày dĩ vãng có những đoạn văn nhà văn tạo được một cảm giác như sờ nắm được hiện vật qua ngôn ngữ, kể cả khi ông miêu tả những thứ không có hình hài: “Mùi cá, mùi mắm, mùi nước đái, mùi xào nấu, mùi sông nước, mùi lưu manh, đĩ điếm lãng vảng cả đêm bủa vây lấy tôi, muốn nuốt chửng, hoà tan thể xác tôi vào cảnh đời bụi bặm và trường tồn ấy. Thì tôi đã rữa ra trong hàng trăm những cảnh đời đen bạc uế tạp rồi đó sao” [5,54]. Hình ảnh người lính trong tiểu thuyết Chu Lai chủ yếu là sự đan cài thời gian, không gian giữa quá khứ và hiện tại. Bởi vậy, ngôn ngữ của người kể chuyện không thể là đơn tuyến. Giọng văn với nhiều xúc cảm do âm điệu ngôn từ đem lại nhưng chủ yếu là âm hưởng trầm mặc, xót xa. 2.2. Thủ pháp dòng ý thức thể hiện qua nghệ thuật xây dựng cốt truyện Trong cách xây dựng cốt truyện, tiểu thuyết của Chu Lai thường xuất hiện cốt truyện lồng ghép, trần thuật theo lối đảo ngược thời gian. Trong một cuốn tiểu thuyết có sự lồng ghép, đan xen nhiều cốt truyện, thời gian luôn đi từ hiện tại về quá khứ hoặc quá khứ hiện tại đan xen vào nhau cùng đồng hiện. Kiểu cốt truyện và lối trần thuật này được thể hiện khá rõ trong các tiểu thuyết Phố, Ba lần và một lần, đặc biệt là Ăn mày dĩ vãng, tác phẩm được xem là thành công nhất của Chu Lai trong mảng đề tài văn học thời hậu chiến. Tiểu thuyết Phố được xây đựng theo kiểu đảo lộn thời gian từ hiện tại lui về quá khứ. Mở đầu là câu chuyện kể về một buổi sáng trên biển “Biển sáng nay có mưa bay. Những sợi mưa mỏng đan xiên xiên vào nắng nhẹ, dệt lên những dây kim nhũ ánh bạc rồi thảng thốt dừng lại, ngọt ngào chui xuống lòng cát mịn mềm[7,5], người đông đặc trên bãi, người lô xô dưới mép nước, người ngã xa bờ[7,6], riêng chỉ có một cái đang lẻ đàn có hai người, một đàn ông, một đàn bàsóng trào qua đầu họ rồi sóng lại truội đilá cờ cứu hộ đã để lỗi họ[7,7], bỗng thét lên một tiếng kêu thất thanh của ai đó trên ghềnh đá.người con trai chẳng kịp nói một lời, vội dứt tung quần áo dài, lao nhanh người vào sóng” [7,8]. Phần sau là câu chuyện về các nhân vật chính của câu chuyện. Mở đầu chính là cái kết của câu chuyện về những con người những mảnh đời trong phố nhà binh. Như vậy, thời gian đã lội ngược dòng đi từ hiện tại lùi về quá khứ để lại một sự háo hức tò mò thu hút người đọc. Bên cạnh đó, câu chuyện được xây đựng theo kiểu truyện lồng ghép vào nhau. Câu chuyện về số phận của vợ chồng Nam - Thảo, là đôi vợ sống trong một ngôi nhà tại phố nhà binh. Cuộc sống của họ tuy vất vả và thiếu thốn nhưng rất hạnh phúc. Với ước mơ cải thiện hiện thực cho cuộc sống đỡ vất vả hơn, Thảo sang Đức lao động xuất khẩu, còn Nam ở nhà chăm con. Nam và Thảo vượt qua bao nhiêu cám dỗ của cuộc đời để sum họp một cách trọn vẹn sau ba năm chờ đợi và nhớ thương. Thế nhưng, ngày trở về Thảo không hòa nhập được với cuộc sống quen thuộc trước kia, lãnh cảm với chồng, phản bội chồng và lao vào cuộc tình với Hùng. Thảo tìm đến cái chết để giải thoát khỏi những tội lỗi và đau khổ dày vò. Nam THỦ PHÁP “DÒNG Ý THỨC” TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI 160 hủy hoại mình trong rượu chè và nỗi đau khổ. Bên cạnh đó là câu chuyện về cuộc đời của gia đình Lãm: Lãm là bộ đội giải ngũ, sống cuộc sống nghèo khổ, lay lắt đầu đường xó chợ với vợ con nheo nhóc vì bị gia đình từ bỏ do kiên quyết làm trái ý cha. Anh đã lao vào cuộc mưu sinh với rất nhiều gian khổ, thậm chí suýt mất mạng (đi đào đá đỏ, buôn bán ở biên giới), và rồi anh đã thành công với cây mía, làm giàu với sức lao động chân chính của mình. Trở thành một doanh nhân thành đạt, sống trong hạnh phúc, yêu thương của gia đình và đồng đội. Nhưng cũng là lúc anh phát hiện ra một sự thật xót xa, đó chính là cuộc tình ngang trái của vợ người thủ trưởng cũ của mình. Đánh đổi mạng sống của mình để mong giữ gìn cho hạnh phúc cho Nam- người thủ trưởng mà anh kính phục. Có thể hoàn toàn tách rời hai tuyến cốt truyện này thành hai truyện độc lập. Nhưng như đã nói ở trên, trong tác phẩm này, hai tuyến cốt truyện vừa tương giao vừa đối lập, các mối quan hệ giữa nhân vật và sự kiện rất chặt chẽ, không tách rời nhau. (Nam là thủ trưởng cũ của Lãm, hai người sống cùng một khu phố nhưng ở hai hoàn cảnh khác nhau. Thảo đi xuất khẩu lao động thì Lãm cũng đi lao động để kiếm kế sinh nhai. Thảo trở về giàu có nhưng gia đình tan vỡ, Lãm thành đạt và hạnh phúc; Thảo tìm đến cái chết đề giải thoát; Lãm chấp nhận cái chết để giữ gìn giá trị của đạo đức làm người), tạo thành một tác phẩm hoàn chỉnh, mang một ý nghĩa lớn lao về giá trị của cuộc sống: Cho dù bộ mặt xã hội có thay đổi mạnh mẽ, ở đó có người bị guồng quay của vật chất và những dục vọng đời thường làm cho thoái hóa, biến chất, nhưng cũng có người luôn giữ được những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ cho dù thời thế có xoay vần thế nào đi nữa. Tác phẩm Ba lần và một lần cũng được xây dựng bằng cách lồng ghép câu chuyện của quá khứ và hiện tại về cuộc đời của nhân vật Sáu Nguyện. Cốt truyện thứ nhất bắt đầu bằng cuộc gặp gỡ đầy trớ trêu của Sáu Nguyện và Út Thêm-hai người đồng đội cũ thời chiến tranh với bao nghĩa tình sâu nặng. Giờ đây họ ở hai vị trí trái ngược nhau. Một là đại diện cho luật pháp, một là tội phạm. Những kỉ niệm ùa về với Út Thêm. Chị quyết định tự mình đi gặp Ba Đẩu để tìm hiểu sự thật về Sáu Nguyện. Khi chị biết được sự thật về người đồng chí của mình và tìm cách giúp đỡ thì cũng là lúc Sáu Nguyện ra đi mãi mãi với bao điều chất chứa trong lòng. Lớp cốt truyện thứ hai do Ba Đẩu kể lại cho Út Thêm về quãng đường đời của Sáu Nguyện từ khi chia tay với Út Thêm. Bắt đầu vào khoảng thời gian chiến tranh chuẩn bị kết thúc tới khi anh bị bắt về tội có hành vi giết người. Đặc biệt Ăn mày dĩ vãng là tác phẩm nằm trong số những tiểu thuyết tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới được nhà văn đã thể hiện rõ ràng nhất của kiểu tổ chức cốt truyện tâm lý. Trong Ăn mày dĩ vãng, Chu Lai đã xây dựng cốt truyện dựa theo dòng chảy tâm lý của nhân vật Hai Hùng trong sự đan cài giữa hiện tại và quá khứ. Song song kể về cuộc đời và tình yêu của hai nhân vật Hai Hùng và Ba Sương (Tư Lan). Cốt truyện thứ nhất xuất hiện ở hiện tại, cốt truyện thứ hai ở quá khứ và được lồng vào trong cốt truyện thứ nhất. Có thể phác họa hai cốt truyện đó như sau: Truyện bắt đầu bằng việc kể lại quá trình vào Nam tìm kế mưu sinh của Hai Hùng, Tình cờ anh gặp Tư Lan - Giám đốc Sở Nông Lâm. Anh ngạc nhiên vì Giám đốc Tư Lan rất giống với Ba Sương, cô y tá và là người yêu của anh trong những năm đánh Mỹ. Khi gặp nhau, Tư Lan tìm cách lảng tránh, không nhận mình là Ba Sương. Hai Hùng quyết định đi tìm sự thật và anh biết chắc chắn Ba Sương chưa chết mà VŨ THỊ KIM CHUNG 161 thay lốt để trở thành bà Giám đốc sang trọng, quyền uy. Chối bỏ quá khứ hào hùng để sống trong hư danh giả dối. Đây cũng là cái cớ để xuất hiện ào ạt những dòng hồi tưởng của Hai Hùng về quá khứ. Người đọc có thể nhận ra trong 8 chương của tác phẩm thì cứ một chương xuất hiện ở thì hiện tại thì lại có một chương tiếp theo dòng hồi ức của Hai Hùng quay ngược trở lại quá khứ. (Các chương 1, 3, 5, 7 là câu chuyện của Hai Hùng thời hiện tại tính từ lúc anh bắt đầu vào Nam đến khi Ba Sương chết; các chương 2, 4, 6, 8 là hồi ức của Hai Hùng về quá khứ chiến tranh; các chương còn lại là sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Hai mươi năm về trước). Mối tình trong sáng, đẹp đẽ của Hai Hùng và Ba Sương gắn với hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh. Trong dòng hồi tưởng của Hai Hùng, những đồng đội, những kỉ niệm hiện về hết sức gần gũi và điều đó, cùng với những khát khao muốn hiểu rõ sự thực đã giục giã anh phải tìm được sự thực về Ba Sương. Với thủ pháp đồng hiện về thời gian, cùng một lúc, tác giả đã miêu tả được trạng thái tâm lý tình cảm của nhân vật ở hai chiều thời gian hiện tại và quá khứ. Đặc biệt dòng chảy tâm trạng được khắc họa rõ nét khi Hai Hùng hồi tưởng về một thời đã qua. Với Hai Hùng, quá khứ vẫn còn nguyên vẹn trong kí ức bởi nó gắn liền với những gì thuộc về con người thực sự của anh: những trận chiến khốc liệt trên đường đi lấy gạo, trong lần đánh chốt Mỹ, cuộc sống của đơn vị đặc công với những hào quang của chiến thắng cùng với những mất mát đau thươngVà đặc biệt là kỷ niệm tình yêu đau đớn nhất cuộc đời của anh. Dường như không có một thời khắc nào anh không hướng về quá khứ. Ba Sương, người yêu, người đồng chí duy nhất của anh dọc suốt chiến hào năm ấy đã hy sinh. Chính tay anh đã chôn liệm một nửa con người mình. Vậy mà, người con gái mảnh mai nhỏ bé ấy sao bây giờ vẫn còn hiện hữu trước mắt anh. Ngày xưa, anh là con người của ngày xưa và Ba Sương cũng vậy. Ngày ấy chiến tranh là một tấm gương lớn soi tỏ mọi ngõ ngách tâm tư con người. Làm gì có chỗ nào cho sự giả dối trú ngụ. Sao bây giờ lại có một Ba Sương thấy người yêu chẳng nhận, thấy bạn bè quay lưng? Hai Hùng đi tìm câu trả lời cho sự việc ấy hay chính anh đang tìm lại chính mình. Nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt đó là anh tự đi ăn mày chính mình. Anh đang một mình lần đường tìm về những giá trị tinh thần vĩnh hằng của quá khứ. Nơi ấy anh và cả dân tộc này đã đổ xương máu để có ngày hôm nay. Hai Hùng trở thành kẻ “lẩn thẩn” đi bên lề cuộc sống hỗn tạp. Đáng buồn thay, anh thực sự cô đơn, thực sự bơ vơ lạc lõng giữa thời bình. Không ít người đã coi đó là hành động của dị nhân. Và cũng đáng buồn thay, nỗi day dứt về quá khứ tàn phá con người anh ghê gớm về thể xác lẫn tinh thần. Anh đã có những lời tự bạch đậm chất bi hài: “Tôi bốn chín tuổi và đang thất nghiệp, đúng hơn là vừa mới thất nghiệp. Tôi, một kẻ dư thừa bị bắn ra khỏi lề đường. Cao một thước bảy mươi nhưng chỉ nặng có bốn mươi nhăm cân, hốc hác, bắt đầu có dấu hiệu thần kinh, tóc bạc nham nhở, ngực lép, bụng lép, mắt cá chày, da xám ngoét, môi thâm, răng rụng gần một phần ba, ít cười, ít nói, sợ ánh sáng, sợ tiếng động, sợ đô thị, sợ nơi đông người, dấu vết mặc cảm tự ti hằn vào từng bước chân đi, từ trong cái nhếch mép rụt rè, nửa cười nửa khổ... Tóm lại, tôi là con nợm rơm khốn khổ giữa cánh đồng đời đầy giông bão (...) tôi đã thành một lão già, lão già ốm o và sầu muộn” [5;16]...“Mỗi thằng một vẻ, trăm thằng trăm lối, không thăm thì nhớ, thăm rồi trở ra, lại thấy buồn đứt ruột trong nỗi thương bạn, cám cảnh mình. Đội hình đánh giặc ngang hàng năm xưa THỦ PHÁP “DÒNG Ý THỨC” TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI 162 giờ đây, trừ vài thằng may mắn khôn ngoan chẳng rõ nguyên cớ nào lại bị cuộc đời dồn chung vào một cục hẩm hiu, méo mó, chẳng may nhận ra nhau chỉ nhúc nhích con người đờ đẫn màu chì. Dĩ vãng... Kỉ niệm... Nhớ thương... Hết thảy đều chìm trong bụi thời gian mốc thếch. Càng buồn! Biết vậy chả nên gặp lại, chả nên tìm đến làm gì, chỉ tổ bẽ bàng, tan nát lòng dạ hơn” [5,17]. Tìm lại bạn bè ngày qua trong bối cảnh hôm nay, nhìn nhận về thực tại số phận của mỗi người cũng là một cách riêng trong hồi tưởng quá khứ. Đúng như nhận định của Hai Hùng, cuộc đời người lính thời bình còn não nuột hơn rất nhiều lần những người chưa từng là lính. Quá khứ và hiện tại là một sự đối lập trớ trêu. Ngày xưa, cuộc đời không có sự bon chen, không có tham nhũng. Hôm nay, giá trị thời chiến hầu như đã bi đánh cắp, cuộc sống lại quá bề bộn, không chịu yên tĩnh. Người lính chỉ còn lại một phương thuốc duy nhất để chữa căn bệnh tinh thần là ru mình trong kí ức của cái thời ngọt ngào ấy. Hai Hùng tìm về cội nguồn của sự thủy chung, của lòng nhân ái. Nhưng bi kịch nặng nề hơn là ở chỗ nơi ngày xưa nhân ái, bây giờ là chỗ ẩn náu của sự bất nhân, người ngày xưa thủy chung thì bây giờ là kẻ trở mặt. Ba Sương, người con gái một thời là biểu tượng của lòng vị tha, của sự trung thành, là người mà Hai Hùng yêu say đắm, nay lại là giám đốc mang danh tính mờ ám và lý lịch cũng mờ ám. Quá khứ với anh không chỉ là ngọt ngào nữa mà giờ đây pha trộn cả những chua chát và đắng cay. Chua chát cho chính bản thân anh, cho những người xưa một thời oanh liệt nay là vô danh tiểu tốt giữa cuộc đời và cho cả những kẻ quay lưng với bạn bè. Sử dụng cốt truyện lồng ghép giữa quá khứ và hiện tại, Chu Lai đã đưa người đọc vào một “cốt truyện có pha chút li kì, bí hiểm, kiểu kiếm hiệp, đọc rất cuốn hút”. Có thể nói, toàn bộ tiểu thuyết được được nhà văn chú ý khai thác tầng sâu tâm lý nhân vật nên tính liên tục của thời gian bị đảo lộn, cấu trúc tác phẩm lỏng, nhiều lúc chắp nối khiến người đọc bị hút vào mạch của cốt truyện thống nhất chìm sau cái vẻ lỏng lẻo bên ngoài. Đó chính là thành công của ý đồ sáng tạo của nhà văn. Với Mưa đỏ, tác phẩm được xem như một khúc tráng ca cuối cùng của Chu Lai, thủ pháp dòng ý thức lại tiếp tục được nhà văn thể hiện với lối kết cấu đảo ngược thời gian. Mở đầu là hình ảnh “Hà Nội xanh- một màu xanh yên ả nhưng trống trải trong những ngày hòa bình đầu tiên” [7,5] trong không gian nhà hát lớn vang lên những âm thanh của bản giao hưởng thức dậy trong tròng người những cảm xúc bồi hồi khác lạ. Đó là những giai điệu của cuộc chiến 81 ngày đêm nơi tuyến lửa Quảng Trị Hình ảnh hai người phụ nữ đang ngồi bên nhau lặng lẽ, sẻ chia một nỗi đau chung bản giao hưởng, hình ảnh người mẹ, cô gái đưa người đọc trở về với thời gian và không gian quá khứ. Một “Hà Nội chiều cuối đông gió lạnh hun hút thổi dọc những phố vắng” [7,9] và nhân vật trung tâm xuất hiện chàng sinh viên nhạc viện Đặng Huy Cường- người chiến sĩ quả cảm nơi thành cổ. Anh đã gác lại sau lưng một tương lai xán lạn, để lại người mẹ với quá nhiều mất mát và một mối tình vô vọng để đến với tuyến lửa Quảng Trị. 81 ngày đêm là một sự trải nghiệm chiến tranh của các chiến sĩ thành cổ, để rồi họ lần lượt ngã xuống, và Cường là người hi sinh cuối cùng trong trận đánh quyết định của lịch sử để đem đến thành công cho hiệp định paris, cho người mẹ của anh trong cuộc đấu trên mặt trận ngoại giao. Kết thúc tác phẩm tác giả đưa người đọc về với thực tại cuộc trở về thành cổ của những người còn lại sau cuộc chiến. Mưa đỏ mang cảm hướng ngợi ca; là lời tri ân với những chiến sĩ đã hi sinh và VŨ THỊ KIM CHUNG 163 đã để lại những cảm xúc khó quên trong lòng người đọc. Với vai trò kiến tạo những “thắt nút”, cốt truyện tâm lý trong tiểu thuyết Chu Lai thường xoay quanh các tình huống, trong đó tâm lý nhân vật là những dòng chảy liên tục của sự vận động hướng vào nội tâm tạo nên những “vòng sóng” lan tỏa đến vô cùng, không có điểm dừng, không có kết thúc. Loại cốt truyện tâm lý xây dựng xoay quanh tình huống như trên thường gặp ở truyện có những nhân vật có tính cách, số phận éo le ngang trái mang tính chất bi kịch. 2.3. Thủ pháp dòng ý thức thể hiện qua nghệ thuật độc thoại nội tâm Độc thoại nội tâm là phát ngôn của nhân vật nói với chính bản thân, trực tiếp phản ánh quá trình tâm lý bên trong; kiểu độc thoại thầm, mô phỏng hoạt động suy nghĩ, xúc cảm của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó. Thủ pháp “dòng ý thức” dùng để biểu hiện tiềm thức nhân vật, biểu hiện ra tình cảm nội tâm, thể nghiệm, liên tưởng của nhân vật. Tác phẩm của Chu Lai luôn dành chỗ cho nhân vật tự bộc lộ nỗi niềm của mình qua những những lời nhân vật tự nói với mình từ đó bộc lộ suy nghĩ tâm trạng, suy nghĩ đang diễn ra từ bên trong. Trong khuôn khổ bài viết này người viết xin tập trung vào nói rõ về cách xây dựng ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng. Phần đầu tác phẩm khi kể về sự việc Hai Hùng nhận ra Ba Sương, lúc này là Tư Lan. Tâm trạng Hai Hùng diễn ra phức tạp, lúc thì khẳng định đó là Ba Sương, có lúc tự nhủ mình đang nhầm lẫn: “Thế là không phải rồi! làm sao có thể phải được kia chứ? Rõ thật dớ dẩn!” [5,36] có lúc thảng thốt khi nhận ra dấu hiệu quen thuộc từ kí ức hiện ra trước mắt ”bàn tay phảivà trời ơi! Chả lẽ đó là sự thật được ư?..., Sương, Ba Sương có đúng Ba Sương không con ngươi như muốn lồi ra khỏi tròng. Ngón tay kìa ngón tay! Sao lại ngón tay?” [5,38] và cuối cùng tự quả quyết chắc chắn “không! Em phải là Sương. Đối với thiên hạ em là Lan nhưng với tôi, em bao giờ cũng là Sương. Gần hai chục năm trôi qua, cho dù hình dạng em đổi khác đi nhưng chỉ cần nhìn miệng em nói, nhìn miện em cười, nắm ban tay em, nhìn sâu vào mắt em là đủ biết em vẫn là em, em là hoàn toàn từ mạch đập bên trong mà chỉ mình tôi mới nhận ra được” [5,46]. Chỉ trong gần mười trang truyện mà tác giả để nhận vật nhiều lần tự đối thoại với chính mình, trong những lời độc thoại ấy người đọc nhận ra những tình cảm sâu nặng cũng như tâm trạng giằng xé trong nhân vật đang diễn ra phức tạp như thế nào. Và cũng chính điều đó mà người lính ấy quyết sống chết để đi tìm con người quá khứ tưởng đã chết lại đang hiện hữu trước mắt. Trong Ba lần và một lần, cảm giác ấy lại tiếp tục xuất hiện trong nhân vật Út Thêm khi đối mặt với Sáu Nguyện. Hai người đồng chí trong chiến tranh bây giờ lai là hai người ở thế đối đầu nhau-một thẩm phán và một tội phạm. Trước thái độ lạnh lùng của Sáu Nguyện khi đối mặt với chị, Út Thêm chạnh lòng cho mình”chao ôi! Chả lẽ mình lại thay đổi nhiều đến thế ư? và chả lẽ chú ấy không mảy may nhận ra mình chút xíu nào ưlạy trời!...đừng là chú ấy, sao có thể là chú ấy được. Lạy trời” [6,9] đó là những tâm trạng mâu thuẫn rối bời khi những người đồng đội một thời sống chết có nhau, sâu nặng nghĩa tình nhưng phải gặp nhau trong những tình huống trớ trêu, bi đát sau cuộc chiến. Có người muốn lãng quên quá khứ, có người muốn chạy trốn quá khứ. Và cũng chính từ những dòng suy tư thầm kín ấy đã dẫn dặt người đọc đi đến những hồi ức về quá khứ của nhân vật, và đó cũng chính là ý đồ của nhà văn trong việc xây dựng cốt truyện theo thủ pháp “dòng ý thức” như đã minh chứng ở trên. THỦ PHÁP “DÒNG Ý THỨC” TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI 164 Trong việc xây dựng độc thoại nội tâm khng phải lúc nào nhà văn cũng thể hiện theo kiểu truyền thống mà có những sáng tạo nhất định. Tác phẩm Mưa đỏ là ví dụ điển hình. Trong Mưa đỏ, độc thoại nội tâm có lúc là những suy nghĩ trực tiếp của nhân vật, có lúc thể hiện qua những dòng thư gửi mẹ của nhân vật Cường. Có thể nói nhà văn đã xây dựng thành công chân dung người hùng nghệ sĩ qua hình ảnh hai chiến sĩ Cường và Bình. Đặc biệt ở Cường, chất nghệ sĩ toát ra từ những suy tư của một chàng trai mới bắt đầu cầm súng ra chiến trường “mẹ ơi! Chỉ mấy giờ đồng hồ vùi mình vào trận đánh đầu đời thôi con đã hiểu chiến tranh thực sự là thế nào!...phải chứng kiến một người lính dù phía bên kia vỡ toác sọcon bỗng thấy hẫng hụt thế nào! Rồi người lính bên con cũng vậylạ quá! Dù hai chiến tuyến khác nhau, hầm hè sát hại nhau nhưng nếu phải ngã vào lòng đất thì câu cuối cùng của cả hai bên bao giờ cũng là hai tiếng- mẹ ơi!...” [7,85,86]. Đó còn là cả những suy nghĩ cho cả những kẻ đang cầm súng chĩa về mình “trong số kẻ thù ngã vùi mặt đất hôm nay chắc cũng có mẹ, có cha,có gia đình, có người yêu thậm chí cô người yêu ấy cũng lạnh lẽo chia tay trước khi họ vào trận như mình” [7,111]. Là những suy tư về sự sống, cái chết trong chiến tranh“chao ôi, cứ sống, cứ nghĩ cứ nói năng thẳng đuột như cái lão tiều phu thì cuộc đời sẽ dễ chịu biết chừng nào? sống nặng nề, chết mỏng manh như, như trò đùa. Chả lẽ chiến tranh chỉ gói gọn trong cái định nghĩa khô cằn là ngày nào cũng chôn nhau nhưng chưa đến lượt chôn mình ư?” [7,147]. Từ nhưng tâm tư sâu thẳm ấy nhân vật hiện lên là một con người có tâm hồn lãng mạn bay bổng nhưng cũng không kém phần sâu sắc, tinh tế; trong dòng máu của người nghệ sĩ có huyết quản của người chiến sĩ quyết tử cho tổ quốc. Qua một số ví dụ minh họa như vừa nêu, chúng ta có thể thấy, trong tác phẩm nhà văn luôn dành những phần lắng đọng từ sâu thẳm tâm hồn nhân vật để họ tự bộc lộ nỗi niềm của mình, mà người viết không cần bình luận gì thêm. Điều đó cho thấy tác giả và nhân vật đã hòa vào nhau làm một, nhà văn đã thấu cảm và nhìn được sâu vào ngóc ngách tâm hồn con người và để nhân vật bộc lộ một cách thật nhất, đời nhất. Ngòi bút nhà văn khơi sâu vào cõi tâm linh, vô thức của con người, khai thác “con người ở bên trong con người”. Đó cũng là yếu tố góp nên sự thành công của những thiên truyện đọc một lần là ảm ảnh mãi. Cái lạ của văn Chu Lai còn ở chỗ lời độc thoại nội tâm của nhân vật đôi khi xen lẫn với lời nhân vật khác một cách tự nhiên khiến cho mạch truyện không bị ngắt đoạn. Chu Lai đã từng tâm sự: Văn chương với ông là duyên nợ, là cuộc sống, là tình yêu. Tác phẩm là sự cộng hưởng thăng hoa của tình yêu nghề, của lương tâm, trách nhiệm với ngòi bút và khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong nghề văn, Chu Lai quan niệm văn chương không nên quá trau chuốt mà cốt lõi là nắm bắt được cái “thần” của nó. Nhà văn phải là người đau đời, biết nói lên trong con chữ không chỉ những vấn đề bề mặt mà phải đi xuống tận bề sâu, không chỉ ca khúc vui tự hào mà cả sự đồng cảm với đau đớn, bi kịch, sẻ chia với những khát khao thầm kín Khi đọc tác phẩm Chu Lai, ta cảm nhận một điều nhà văn như muốn chia sẻ rằng chiến tranh là đề tài cũ, nhưng với ông, quan trọng là nhà văn khai thác đề tài ấy như thế nào. Thông qua những câu chuyện bom đạn khốc liệt, Chu Lai muốn gửi tới những thông điệp sâu sắc tới người đọc: Lời cảnh báo về sự hủy diệt của chiến tranh. Chiến tranh có sức hủy diệt ghê gớm, có thể tàn phá tất cả, sự hủy diệt đó còn để lại những di chứng nặng nề cho con người khi bước ra khỏi cuộc chiến. Bởi vậy khi chúng ta

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf39_0426_2215091.pdf
Tài liệu liên quan