Tài liệu Thử nghiệm chế phẩm nấm metarhizium anisopliae để phòng trừ ve sầu hại cà phê và xén tóc hại mía trên địa bàn tỉnh Gia Lai: 81
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017
lượng của trái khóm trồng tại huyện Tân Phước, tỉnh
Tiền Giang. Luận án tiến sĩ sinh học. Trường Đại học
Cần Thơ.
Aggarwal B.B, Sung B., 2009. Pharmacological basis
for the role of curcumin in chronic diseases: an age-
old spice with modern targets. Trends Pharmacol Sci,
30: 85-94.
Ajay Kumar, Ritu Singh, Akhilesh Yadav, D. D. Giri,
P. K. Singh, Kapil D. Pandey, 2016. Isolation and
characterization of bacterial endophytes of Curcuma
longa L. 3 Biotech, 6: 60.
Chen T., Z. Chen, G.H. Ma, B.H. Du, B. Shen, Y.Q.
Ding and K. Xu, 2014. Diversity and potential
application of endophytic bacteria in ginger. Genetics
and Molecular Research 13 (3): 4918-4931.
Jalgaonwala Ruby E and Mahajan Raghunath T.,
2011. A Review: Bacterial Endophytes and their
Bioprospecting. Journal of Pharmacy Research, 4 (3):
795-799.
Jasim B., Aswathy Agnes Joseph, C. Jimtha John,
Jyothis Mathew, E. K. Radhakrishnan,...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thử nghiệm chế phẩm nấm metarhizium anisopliae để phòng trừ ve sầu hại cà phê và xén tóc hại mía trên địa bàn tỉnh Gia Lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
81
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017
lượng của trái khóm trồng tại huyện Tân Phước, tỉnh
Tiền Giang. Luận án tiến sĩ sinh học. Trường Đại học
Cần Thơ.
Aggarwal B.B, Sung B., 2009. Pharmacological basis
for the role of curcumin in chronic diseases: an age-
old spice with modern targets. Trends Pharmacol Sci,
30: 85-94.
Ajay Kumar, Ritu Singh, Akhilesh Yadav, D. D. Giri,
P. K. Singh, Kapil D. Pandey, 2016. Isolation and
characterization of bacterial endophytes of Curcuma
longa L. 3 Biotech, 6: 60.
Chen T., Z. Chen, G.H. Ma, B.H. Du, B. Shen, Y.Q.
Ding and K. Xu, 2014. Diversity and potential
application of endophytic bacteria in ginger. Genetics
and Molecular Research 13 (3): 4918-4931.
Jalgaonwala Ruby E and Mahajan Raghunath T.,
2011. A Review: Bacterial Endophytes and their
Bioprospecting. Journal of Pharmacy Research, 4 (3):
795-799.
Jasim B., Aswathy Agnes Joseph, C. Jimtha John,
Jyothis Mathew, E. K. Radhakrishnan, 2014.
Isolation and characterization of plant growth
promoting endophytic bacteria from the rhizome of
Zingiber officinale. 3 Biotech, Volume 4, Issue 2, pp.
197-204.
Liu L, Sun L, Zhang R.Y, Yao N, Li L., 2010. Diversity
of IAA-producing endophytic bacteria isolated from
the roots of Cymbidium goeringii. Biodivers. Sci. 18,
No.2: 182-187.
Maiti S.K., 2004. Water and waste water analysis. In
Handbook of methods in environmental studies.
India: ABD Publishers.
Isolation and evaluation of biological characteristics
of bacterial endophytes from turmeric roots
Tran Thi Tuyet, Nguyen Van Giang
Abstract
This experiment was carried out to isolate and evaluate biological characteristics of endophytic strains from
turmeric roots. 21 endophytic bacterial isolates were isolated from turmeric rhizome. All of these strains produced
siderophore, IAA and solubilized phosphate. The strongest strain of TD2 was selected for evaluation of the effect
of incubation time and medium pH on the IAA biosynthesis ability; effects of carbon and nitrogen sources on
phosphate solubility. The TD2 strain showed the most powerful IAA synthesis after 5th day of culture (76.11 µg / ml)
in the NA medium with pH 6 - 7. Suitable carbon and nitrogen sources for this strain exhibit phosphate solubility
were D-sorbitol, peptone and NH4+ and NO3- containing nitrogen sources.
Key words: Endophytes, IAA and siderophore biosynthesis, phosphate solubility, turmeric roots
Ngày nhận bài: 15/8/2017
Người phản biện: TS. Trần Danh Sửu
Ngày phản biện: 20/8/2017
Ngày duyệt đăng: 10/9/2017
1 Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây Hồ tiêu, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên
THỬ NGHIỆM CHẾ PHẨM NẤM Metarhizium anisopliae
ĐỂ PHÒNG TRỪ VE SẦU HẠI CÀ PHÊ VÀ XÉN TÓC HẠI MÍA
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI
Nguyễn Quang Ngọc1, Phan Võ Ngọc Quyền1
TÓM TẮT
Đề tài “Thử nghiệm chế phẩm nấm Metarhizium anisopliae để phòng trừ Ve sầu hại cà phê và Xén tóc hại mía
trên địa bàn tỉnh Gia Lai” đã được thực hiện trong 2 năm 2010 - 2011 và thu được các kết quả như sau: Hiệu lực
phòng trừ Ve sầu của nấm Metarhizium anisopliae đạt khá cao, trong hai năm biến động từ 34,25% đến 61,69% và
cao nhất là vào năm 2011 ở công thức 3 sau 30 ngày phun (61,69%). Mật độ bào tử nấm Metarhizium anisopliae lưu
tồn trong đất tại vườn cà phê thí nghiệm khá cao (từ 5,4 - 6,0 ˟ 105cfu/g); Hiệu lực phòng trừ của nấm Metarhizium
anisopliae đối với Xén tóc hại mía chưa rõ ràng. Mật độ bào tử nấm Metarhizium anisopliae lưu tồn trong đất ruộng
mía thấp, chỉ đạt từ 3,8 - 4,4 ˟ 103cfu/g.
Từ khóa: Cà phê, mía, ve sầu, xén tóc
82
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cà phê và mía là những cây trồng trọng điểm của
ngành nông nghiệp tỉnh Gia Lai và đã mang lại hiệu
quả kinh tế cao cho người nông dân. Nhưng cùng
với sự gia tăng về diện tích cũng như đẩy mạnh mức
độ thâm canh đối với hai loại cây trồng này là sự
xuất hiện ngày càng nhiều các loài sâu bệnh gây hại
nghiêm trọng, đặc biệt là Ve sầu hại cà phê và Xén
tóc hại mía đã làm ảnh hưởng đến năng suất, chất
lượng của hai loại cây trồng này (Chi cục BVTV Gia
Lai, 2009 và 2011). Các biện pháp phòng trừ được
người nông dân áp dụng đối với hai loài sâu hại
kể trên chủ yếu là dùng thuốc hóa học. Tuy nhiên,
việc sử dụng thuốc hóa học chưa mang lại hiệu quả;
thêm vào đó là nguy cơ ô nhiễm môi trường bởi việc
lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật. Đã có rất nhiều
những nghiên cứu và ứng dụng nấm Metarhizium
anisopliae để phòng trừ côn trùng hại cây trồng
(Nguyễn Dương Tuệ và Võ Thị Hoa, 2009; Phạm Thị
Thùy và ctv., 2003). Đây là một hướng đi được nhiều
nhà khoa học quan tâm bởi: Việc sử dụng chế phẩm
sinh học nói chung và chế phẩm nấm M. anisopliae
nói riêng đang ngày càng có hiệu quả tích cực trong
việc phòng trừ dịch hại và thân thiện với môi trường
sinh thái (Phạm Thị Thùy, 2004). Để góp phần giải
quyết những yêu cầu của thực tiễn nói trên đề tài
tiến hành nghiên cứu “Thử nghiệm chế phẩm nấm
Metarhizium anisopliae để phòng trừ Ve sầu hại cà
phê và Xén tóc hại mía trên địa bàn tỉnh Gia Lai”.
Với mục tiêu đạt hiệu quả phòng trừ cao, thân thiện
môi trường.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Chế phẩm nấm Metarhizium anisopliae 1 ˟ 109 cfu/g,
dạng bột dễ hoà tan.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá hiệu lực của chế phẩm M. anisopliae
a) Đối với ve sầu hại cà phê
Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm gồm 4 công thức,
bố trí theo kiểu ô lớn không lặp lại, mỗi ô cơ sở 1.000
m2 (các công thức: 2 - 2,5 - 3 kg chế phẩm và CT4:
đối chứng).
b) Đối với Xén tóc hại mía
Thí nghiệm gồm 4 công thức, bố trí theo kiểu ô
lớn không lặp lại mỗi ô cơ sở 500 m2 (các công thức:
1 - 1,25 - 1,5 kg chế phẩm và CT4: đối chứng).
c) Các chỉ tiêu theo dõi
* Thí nghiệm trên Ve sầu hại cà phê:
- Thời gian theo dõi thí nghiệm: Trước khi xử
lý chế phẩm 2 ngày. Sau khi xử lý chế phẩm 25 và
30 ngày.
- Phương pháp thu thập, đánh giá tỷ lệ chết của ve
sầu do nhiễm nấm
+ Áp dụng phương pháp thu mẫu theo 5 điểm
chéo góc trên mỗi công thức thí nghiệm; mỗi điểm
quan trắc 2 gốc cà phê.
+ Áp dụng phương pháp thu thập mẫu không
hoàn lại ở vị trí lấy mẫu cũ.
Tại mỗi gốc cà phê sẽ được chọn 1 hướng để thu
thập theo chiều rộng của bồn với 3 hố được đào trên
1 hướng, sau đó tiến hành đào và thu thập mẫu ve
sầu (ở giai đoạn sâu non) sống và chết trước và sau
thí nghiệm: Hố 1 cách gốc cà phê 20 cm (30 cm ˟ 20
cm ˟ 10 cm); Hố 2 cách gốc cà phê 70 cm (30 cm ˟
20 cm ˟ 5 cm); Hố 3 cách gốc cà phê 120 cm (30 cm
˟ 30 cm ˟ 30 cm).
Tỷ lệ ve sầu chết (%) = ˟ 100
∑ số ve sầu chết do nhiễm nấm sau xử lý
∑ số ve sầu sống trước xử lý
* Thí nghiệm trên Xén tóc hại mía:
- Thời gian theo dõi thí nghiệm: Trước khi xử lý
chế phẩm 2 ngày; Sau khi xử lý thuốc 30 và 45 ngày.
- Phương pháp thu thập, đánh giá tỷ lệ chết của
xén tóc do nhiễm nấm:
+ Áp dụng phương pháp thu thập mẫu theo
5 điểm chéo góc trên mỗi công thức thí nghiệm.
Mỗi điểm quan trắc là 1 m2 của ruộng mía công
thức thí nghiệm.
Trên 1m2 của ruộng mía công thức thí nghiệm
tiến hành đào sâu từ 20 - 30 cm ở 2 bên mép của mỗi
gốc mía bị Xén tóc gây hại để điều tra, thu thập số
lượng Xén tóc (ở giai đoạn sâu non) sống và chết do
nấm Metarhizium anisopliae gây nên.
+ Áp dụng phương pháp thu thập mẫu không
hoàn lại vị trí lấy mẫu cũ.
Thời gian thu thập mẫu: Trước xử lý chế phẩm 2
ngày và sau xử lý chế phẩm lần 2: 30 và 45 ngày.
- Hiệu lực của chế phẩm: Được tính theo công
thức Henderson- Tilton.
2.2.2. Đánh giá khả năng lưu tồn của nấm M.
anisopliae trên đồng ruộng
- Phân tích mật độ bào tử nấm M. anisopliae
trong đất trước và sau khi phun chế phẩm.
83
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5 năm 2010
đến tháng 5 năm 2012 tại 2 huyện Đắk Đoa và Đắk
Pơ, tỉnh Gia Lai.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiệu quả sử dụng chế phẩm nấm Metarhizium
anisopliae
3.1.1. Hiệu quả phòng trừ Ve sầu hại cà phê
a) Ảnh hưởng của chế phẩm nấm Metarhizium
anisoplaie đến tỷ lệ chết của Ve sầu
Sau khi phun chế phẩm vào các thời điểm 25 và
30 ngày, tỷ lệ Ve sầu chết do nhiễm nấm M.anisopliae
ở các công thức nghiên cứu (có phun) có sự khác
biệt rõ rệt so với công thức đối chứng và đều có sai
khác ý nghĩa về mặt thống kê (Pi <0,05). Cao nhất tại
công thức 3 năm 2011 sau phun 30 ngày, số ve sầu
chết là 37 con, tỷ lệ 52, 11%.
Hình 1. Ve sầu chết do nhiễm nấm M. anisopliae
b) Hiệu lực phòng trừ Ve sầu của chế phẩm nấm
Metarhizium anisopliae
Bảng 2. Hiệu lực của chế phẩm nấm Metarhizium
anisopliae đối với ve sầu ở các công thức thí nghiệm
tại xã Hneng, huyện Đắc Đoa, năm 2010 và 2011
Hiệu lực phòng trừ Ve sầu của nấm Metarhizium
anisopliae đạt khá cao, hiệu lực trong hai năm biến
động từ 34,25% đến 61,69% và cao nhất là ở công
thức 3 sau 30 ngày phun (năm 2011).
c) Năng suất cà phê thực thu của các công thức
nghiên cứu
Hình 2. Năng suất cà phê thực thu
Năng suất cà phê của các công thức nghiên cứu
đã có sự chênh lệch, tại các công thức có phun chế
phẩm năng suất trung bình hai năm cao hơn công
thức đối chứng (không phun) và tăng dần theo nồng
độ phun chế phẩm (trung bình dao động từ 153 - 478
kg/ha). Điều đó cho thấy rằng việc phun chế phẩm
nấm Metarhizium anisopliae không những gây nhiễm
và làm chết Ve sầu mà còn gián tiếp làm năng suất
cà phê.
Bảng 1. Tỷ lệ Ve sầu chết ở các công thức thí nghiệm tại xã Hneng, huyện Đắc Đoa, năm 2010 và 2011
Công Thức Năm
Số ve sầu
sống trước phun
(con/công thức)
Sau xử lý chế phẩm
Sau 25 ngày Sau 30 ngày
Chết (con) Tỷ lệ (%) Chết (con) Tỷ lệ (%)
Công thức 1
2010 102 38 37,25 33 32,35
2011 76 31 40,79 24 31,58
Công thức 2
2010 78 30 38,46 31 39,74
2011 74 37 50,00 30 40,54
Công thức 3
2010 67 34 50,75 33 49,25
2011 71 42 59,15 37 52,11
Công thức 4
2010 87 14 16,09 9 10,34
2011 68 10 14,71 9 13,24
Công
thức Năm
Số ve sầu sống
trước phun
(con/công thức)
Hiệu lực (%) sau
xử lý chế phẩm
25 NSP 30 NSP
Công
thức 1
2010 102 34,25 42,00
2011 76 37,76 41,84
Công
thức 2
2010 78 44,23 55,38
2011 74 54,05 58,65
Công
thức 3
2010 67 54,01 58,45
2011 71 58,36 61,69
Biểu đồ 1: Năng suất cà phê thực thu tại các công thức nghiên cứuNăng suất
(kg nhân/ha)
4000
3500
3000
2500
2000
1500
1000
500
0
CT1
3043
3413
3228
2010
2011
T. Bình
CT2
3261
3500
3380
CT3
3478
3609
3543
CT4
2826
3304
3065
34133228
3043
35003380 3478
36093543
2826
3304 30653261
84
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017
3.1.2. Hiệu quả phòng trừ Xén tóc hại mía
Ảnh hưởng của chế phẩm Metarhizium anisopliae
đến tỷ lệ chết của Xén tóc hại mía trong 2 năm
nghiên cứu được thể hiện qua bảng 3.
Năm 2010, tỷ lệ Xén tóc chết do nhiễm nấm
Metarhizium anisopliae bằng 0. Nguyên nhân chủ
yếu là do Xén tóc thường nằm sâu trong gốc mía,
thân cây và thân ngầm nên khả năng tiếp xúc, lây
nhiễm của nấm rất khó.
Thí nghiệm năm 2011 với những thay đổi trong
phương pháp xữ lý đã có Xén tóc nhiễm nấm tuy
nhiên tỷ lệ rất thấp và có sự chênh lệch giữa các công
thức nghiên cứu nhưng không có ý nghĩa thống kê
(P > 0,05).
Hình 3. Xén tóc chết do nhiễm nấm M. anisopliae
Như vậy, khả năng lây nhiễm cũng như hiệu lực
phòng trừ của nấm M.anisopliae đối với Xén tóc hại
mía là rất thấp. Nguyên nhân chủ yếu theo nhóm
nghiên cứu đánh giá là do: Xén tóc ở giai đoạn sâu
non thường sống và gây hại ở giữa gốc mía và bên
trong thân cây mía, nên việc xử lý gặp trở ngại. Bên
cạnh đó, ẩm độ không khí trong ruộng mía giai đoạn
đẻ nhánh, vươn lóng thấp làm giảm mật độ nấm sau
khi xử lý chế phẩm trên đồng ruộng, ảnh hưởng đến
tỷ lệ nấm tiếp xúc với xén tóc.
3.2. Khả năng lưu tồn của nấm M. anisopliae trong
đất sau khi phun chế phẩm
3.2.1. Thí nghiệm phòng trừ Ve sầu hại cà phê
Bảng 4. Mật độ bào tử nấm Metarhizum anisopliae
trong đất tại xã Hneng, huyện Đắk Đoa, Gia lai,
năm 2010 - 2011
Sau khi xử lý chế phẩm 30 ngày, mật độ bào
tử nấm Metarhizium anisopliae lưu tồn trong đất
của các công thức nghiên cứu rất cao, biến động
trong khoảng (5,4 ˟ 105 - 6,0 ˟ 105 cfu/g). Việc nấm
Metarhizium anisopliae tồn lưu trong đất là vô cùng
quan trọng, đây là nguồn nấm để có thể tiếp tục lây
lan và gây nhiễm trên những đối tượng còn sống và
hạn chế sự phát triển trở lại của Ve sầu.
Bảng 3. Tỷ lệ Xen tóc chết ở các công thức thí nghiệm tại xã Đắk Pơ, huyện Đắk Pơ, năm 2010 - 2011
Công thức Năm
Số xén tóc sống
trước xử lý
(con/công thức)
Sau xử lý chế phẩm
Sau 30 ngày Sau 45 ngày
Chết (con) Tỷ lệ (%) Chết (con) Tỷ lệ (%)
Công thức 1
2010 4 - - - -
2011 19 2 10,53 3 15,79
Công thức 2
2010 7 - - - -
2011 20 3 15,00 4 20,00
Công thức 3
2010 5 - - - -
2011 20 3 15,00 4 20,00
Công thức 4
2010 6 - - - -
2011 18 1 5,56 1 5,56
Công
thức Năm
Mật độ bào tử (cfu/g)
qua các lần lấy mẫu
Trước khi
phun
30 ngày
sau phun
Công
thức 1
2010 < 10 5,1 ˟ 105
2011 < 10 5,6 ˟ 105
Trung bình <10 5,4 ˟ 105
Công
thức 2
2010 < 10 5,3 ˟ 105
2011 < 10 5,9 ˟ 105
Trung bình <10 5,6 ˟ 105
Công
thức 3
2010 < 10 5,6 ˟ 105
2011 < 10 6,4 ˟ 105
Trung bình <10 6,0 ˟ 105
Công
thức 4
2010 < 10 < 10
2011 < 10 < 10
Trung bình <10 <10
85
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 9(82)/2017
3.2.2. Thí nghiệm phòng trừ Xén tóc hại mía
Bảng 5. Mật độ bào tử nấm Metarhizum anisopliae
trong đất (cfu/g), xã Đắk Pơ, huyện Đắk Pơ,
Gia Lai năm 2011
Kết quả phân tích thí nghiệm năm 2010 không
tìm thấy sự tồn tại của nấm Metarhizium anisopliae
trong đất ở các công thức nghiên cứu. Tuy nhiên kết
quả phân tích thí nghiệm năm 2011 cho thấy đã có
sự lưu tồn của nấm Metarhizium anisopliae trong đất
ở các công thức nghiên cứu sau khi xử lý chế phẩm
nhưng mật độ bào tử nấm ở mức thấp, dao động
trong khoảng (3,8 ˟ 103 - 4,4 ˟ 103 cfu/g).
Sở dĩ khả năng lưu tồn của nấm trong đất trồng
cà phê cao hơn đất trồng mía là do nguồn hữu cơ
(C, N), hàm lượng kitin trong đất trồng cà phê dồi
dào (số lượng Ve sầu - là nguồn cơ chất chủ yếu cho
nấm phát triển- trong đất trồng cà phê tại các lô thí
nghiệm rất nhiều). Mặt khác tại thời điểm xử lý chế
phẩm, ẩm độ đất trồng cà phê cũng cao hơn đất trồng
mía, do đó khả năng sinh trưởng, phát sinh bào tử
nấm trong đất trồng cà phê cao hơn đất trồng mía.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4. 1. Kết luận
- Hiệu lực phòng trừ Ve sầu của nấm Metarhizium
anisopliae đạt khá cao, trong hai năm biến động từ
34,25% đến 61,69% và cao nhất là ở công thức 3 sau
30 ngày phun, năm 2011 (61,69%).
- Năng suất cà phê của các công thức thí nghiệm
tăng so đối chứng, trung bình dao động từ 153 - 478
kg/ha.
- Mật độ bào tử nấm M. anisopliae lưu tồn trong
đất trồng cà phê cao, biến động trong khoảng (5,4 ˟
105 - 6,0 ˟ 105 cfu/g).
- Ảnh hưởng của nấm M. anisopliae đến tỷ lệ
chết của Xén tóc và hiệu lực phòng trừ Xén tóc
chưa rõ ràng.
4.2. Đề nghị
- Khuyến cáo sử dụng chế phẩm nấm Metarhizium
anisopliae với liều lượng từ 2,5 - 3 kg/1000 m2 để
phun phòng trừ Ve sầu hại cà phê trên đồng ruộng.
Tuy nhiên chỉ sử dụng chế phẩm nấm Metarhizium
anisopliae để phòng trừ ve sầu ở những vườn cà phê
bị ve sầu gây hại
- Tiếp tục thử nghiệm chế phẩm nấm Metarhizium
anisopliae phòng trừ Xén tóc hại mía để có cơ sở
khoa học cho những kết luận chính xác hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chi cục BVTV Gia Lai, 2009. Báo cáo tình hình Xén
tóc hại mía trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Báo cáo Sở
Nông nghiệp và PTNT.
Chi cục BVTV Gia Lai, 2011. Thông báo tình hình Ve
sầu hại cà phê và biện pháp khắc phục. Báo cáo Sở
Nông nghiệp và PTNT.
Nguyễn Dương Tuệ và Võ Thị Hoa, 2009. Báo cáo
nghiên cứu “Sử dụng nấm Metarhizium anisopliae
để phòng trừ các loại sâu, bọ cánh cứng tại vùng rau
Đông Vĩnh, Nghi Đức, Nghệ An” .
Phạm Thị Thùy, 2004. Công nghệ sinh học trong bảo vệ
thực vật. NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội.
Phạm Thị Thùy, Lê Văn Kỳ, Thân Thời An, 2003. Báo
cáo khoa học “Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm nấm
Metarhizium anisopliae để phòng trừ bọ hại dừa
(Brontispa sp.) ở Bình Định”.
Công thức Năm
Mật độ bào tử (cfu/g)
qua các lần lấy mẫu
Trước khi
phun
45 ngày
sau phun
Công thức 1 2011 < 10 3,8 ˟ 103
Công thức 2 2011 < 10 4,2 ˟ 103
Công thức 3 2011 < 10 4,4 ˟ 103
Công thức 4 (ĐC) 2011 < 10 < 10
Testing of Metarhizium anisopliae fungus preparation
for Cicada and longhorn beetle control
Nguyen Quang Ngoc, Phan Vo Ngoc Quyen
Abstract
The project “Testing of Metarhizium anisopliae fungus preparation for Cicada and longhorn beetle control in Gia Lai,
Vietnam” was conducted from 2010 to 2011. The results showed that Metarhizium anisopliae gave high effectiveness
from 34.25% to 61.69% for cicada control after two years application. The highest effectiveness was recorded in
treatment 3 (61.69% in 2011) after 30 days of application. Metarhizium anisopliae population remained in coffee
plantation soil was 5.4 - 6.0 ˟ 105CFU/g. The effectiveness was unclear for longhorn beetle control. Furthermore,
Metarhizium anisopliae population remained in sugar cane plantation soil was only 3.8 - 4.4 ˟ 103CFU/g.
Key words: Coffee, sugarcane, cicada, longhorn beetle
Ngày nhận bài: 25/7/2017
Ngày phản biện: 13/8/2017
Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Nhung
Ngày duyệt đăng: 10/9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 148_6355_2153195.pdf