Tài liệu Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa ngành cử nhân Sư phạm Vật lí - Phạm Văn Phú: Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa ngành Cử nhân Sư phạm Vật lí
102
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0010
Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 102-108
This paper is available online at
THIẾT LẬP THANG ĐO ĐÁNH GIÁ KĨ NĂNG DẠY BÀI TẬP
CỦA SINH VIÊN CUỐI KHÓA NGÀNH CỬ NHÂN SƯ PHẠM VẬT LÍ
Phạm Thị Phú1, Nguyễn Văn Tuấn2
1Trường Đại học Vinh, 2Trường Đại học Đồng Nai
Tóm tắt: Kiểm tra đánh giá là khâu có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của quá trình giáo
dục. Để khắc phục tính cảm tính chủ quan trong khâu đánh giá cần xây dựng bộ công cụ đo
lường kết quả giáo dục. Kĩ năng là thành tố trọng yếu của năng lực, xây dựng thang đo đánh
giá kĩ năng là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cấp thiết. Bài báo giới thiệu kết quả
nghiên cứu xây dựng thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập – một kĩ năng chuyên biệt quan
trọng trong cấu trúc năng lực dạy học của Cử nhân sư phạm vật lí. Nghiên cứu này đã đ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 670 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa ngành cử nhân Sư phạm Vật lí - Phạm Văn Phú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa ngành Cử nhân Sư phạm Vật lí
102
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0010
Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 102-108
This paper is available online at
THIẾT LẬP THANG ĐO ĐÁNH GIÁ KĨ NĂNG DẠY BÀI TẬP
CỦA SINH VIÊN CUỐI KHÓA NGÀNH CỬ NHÂN SƯ PHẠM VẬT LÍ
Phạm Thị Phú1, Nguyễn Văn Tuấn2
1Trường Đại học Vinh, 2Trường Đại học Đồng Nai
Tóm tắt: Kiểm tra đánh giá là khâu có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của quá trình giáo
dục. Để khắc phục tính cảm tính chủ quan trong khâu đánh giá cần xây dựng bộ công cụ đo
lường kết quả giáo dục. Kĩ năng là thành tố trọng yếu của năng lực, xây dựng thang đo đánh
giá kĩ năng là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cấp thiết. Bài báo giới thiệu kết quả
nghiên cứu xây dựng thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập – một kĩ năng chuyên biệt quan
trọng trong cấu trúc năng lực dạy học của Cử nhân sư phạm vật lí. Nghiên cứu này đã được
tiến hành tại trường Đại học Vinh năm 2015 với tên đề tài: Đổi mới hoạt động kiểm tra đánh
giá học phần "Phương pháp dạy học bài tập vật lí phổ thông" theo tiếp cận đo lường năng lực
dạy học bài tập của sinh viên cử nhân sư phạm vật lí. Với kết quả nghiên cứu này đã khắc
phục được tính cảm tính chủ quan trong khâu đánh giá, góp phần hiện thực hóa đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
phổ thông.
Từ khóa: Thang đo, đánh giá, kĩ năng, dạy, bài tập vật lí.
1. Mở đầu
Năng lực dạy học thuộc tiêu chuẩn 3 trong Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học hiện hành
[1], là một thành tố quan trọng của năng lực sư phạm. Năng lực nghề (hay năng lực thực hiện) là
tích hợp tri thức chuyên môn với kĩ năng hành nghề và thái độ tích cực đối với nghề đảm bảo cho
chủ thể hoạt động nghề nghiệp đạt kết quả theo tiêu chuẩn của nghề [2]. Đào tạo nghề theo năng
lực thực hiện là một phương thức đào tạo mới đáp ứng yêu cầu thị trường lao động, khắc phục
tình trạng đào tạo được cho là nặng tính hàn lâm lí thuyết của nhiều trường đại học nước ta. Căn
cứ vào thực tiễn công việc để xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí quy định cho nghề và
đào tạo dựa theo các tiêu chuẩn tiêu chí đó. Theo tiếp cận năng lực thực hiện, nội dung đào tạo là
năng lực giải quyết các vấn đề tại một vị trí việc làm nhất định. Các thành tố của năng lực thực
hiện được xác định bởi công việc mà người lao động phải thực hiện. Theo [1], tiêu chuẩn về năng
lực dạy học, đối với giáo viên Vật lí là năng lực dạy Vật lí; Quan sát hoạt động của người giáo
viên Vật lí trong thực tiễn, căn cứ vào các loại bài học Vật lí, có thể nhận thấy Năng lực dạy Vật
lí được bộc lộ qua việc thực hiện các nhiệm vụ: Dạy lí thuyết Vật lí, Dạy bài tập Vật lí, Dạy thí
nghiệm Vật lí, Đo lường đánh giá kết quả học tập Vật lí, Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp
(hoạt động trải nghiệm sáng tạo, hoạt động nghiên cứu khoa học).
Ngày nhận bài: 28/8/2017. Ngày chỉnh sửa: 25/10/2017. Ngày nhận đăng: 28/10/2017.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Văn Tuấn, e-mail: nguyentuanit@gmail.com
Phạm Thị Phú, Nguyễn Văn Tuấn
103
Như vậy, dạy bài tập là một nhiệm vụ đặc thù mà người giáo viên Vật lí phải thực hiện trong
hoạt động chuyên môn của mình. Trong đào tạo giáo viên, cần phải xác định rèn luyện cho sinh
viên thực hiện nhiệm vụ này đến mức trở thành kĩ năng (KN) của họ. Việc xây dựng được thang
đo để đánh giá kết quả dạy học rèn luyện kĩ năng dạy bài tập là cấp thiết, có ý nghĩa lí luận và
thực tiễn.
2. Nội dung nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu các cơ sở xây dựng thang đo kĩ năng dạy bài tập
Để xây dựng được thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập cần dựa trên các cơ sở: cấu trúc kĩ
năng dạy bài tập, lí thuyết về đo lường đánh giá kĩ năng, thực trạng đo lường đánh giá kĩ năng
nghề của SV sư phạm cuối khóa.
3.1.1. Về cấu trúc kĩ năng dạy bài tập vật lí: dựa trên lí thuyết về kĩ năng dạy học, cơ sở lí luận
về dạy bài tập Vật lí, vị trí của kĩ năng dạy bài tập trong cấu trúc năng lực dạy học của giáo viên
Vật lí phổ thông và thực trạng dạy học bài tập trong môn Vật lí hiện nay, chúng tôi đã đề xuất
một mô hình cấu trúc kĩ năng dạy bài tập dùng cho rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của SV Vật lí (sơ
đồ 1) [4].
Sơ đồ 1. Cấu trúc kĩ năng dạy bài tập Vật lí
KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH DẠY HỌC
KN đánh giá kế hoạch
dạy
KỸ NĂNG ĐÁNH GIÁ, PHẢN HỒI KẾT QUẢ DẠY HỌC
KN đánh giá HĐ dạy
học
KỸ NĂNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH DẠY HỌC
KN giới thiệu
đề bài
KN tổ chức
HĐ HS giải
BT
KN trình bày mẫu KN khái quát
hóa
KN thiết kế
HĐ tích cực
tự lực HS
KN
giải
BTVL
KN phân tích
chức năng
LLDH của BT
KN xác định mục
tiêu, hình thức dạy
Lựa chọn, xây
dựng BT, hệ thống
BT
KN đặt câu
hỏi hướng
dẫn giải
KỸ NĂNG DẠY BÀI TẬP VẬT LÝ
KN điều chỉnh KH
dạy
Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa ngành Cử nhân Sư phạm Vật lí
104
Theo đó, kĩ năng dạy BTVL gồm 3 nhóm KN chính: KN lập kế hoạch dạy, KN thực hiện KH
dạy, KN đánh giá phản hồi kết quả dạy học. Mỗi nhóm KN tương ứng là một hoạt động. Hoạt
động lập kế hoạch dạy lại gồm các hành động (hay KN bộ phận): giải BTVL, xác định mục tiêu
hình thức sử dụng để lựa chọn BT đã có hoặc xây dựng BT mới, xây dựng hệ thống bài tập theo
mục tiêu đề ra, đặt câu hỏi hướng dẫn HS giải, thiết kế hoạt động tích cực tự lực giải BT của HS.
Trong từng hành động lại gồm các thao tác (KN thành tố); Ví dụ giải BTVL gồm 4 KN thành tố:
tìm hiểu đề bài, phân tích bản chất Vật lí của BT, xây dựng lập luận giải, kiểm tra lời giải biện
luận trả lời. Nhóm KN dạy bài tập \trên lớp bao gồm các hành động: giới thiệu đề bài (đọc, nói,
viết, trình chiếu, vẽ hình,), tổ chức hoạt động HS tích cực tự lực sáng tạo giải BT (hoạt động cá
nhân, nhóm với các phương tiện: câu hỏi, bảng chính/phụ, phiếu học tập, thí nghiệm,.), trình
bày mẫu, khái quát hóa khắc sâu nội dung, phương pháp. Nhóm KN đánh giá phản hồi kết quả
dạy học gồm: đánh giá kế hoạch dạy, đánh giá hoạt động dạy, hoạt động học về việc thực hiện
theo kế hoạch: mức độ đạt được của mục tiêu, sự phù hợp của nội dung BT với mục tiêu, sự phù
hợp của hình thức sử dụng BT, các tình huống nảy sinh và xử lí, điều chỉnh kế hoạch. Sự phân
chia hoạt động, hành động, thao tác mang tính tương đối tùy thuộc vào mức độ thành thạo của
KN. Hành động rèn luyện để thực hiện được thuần thục, đến mức thực hiện không còn sự tham
gia của ý thức thì hành động trở thành thao tác, kĩ xảo.
Việc xác định được cấu trúc của kĩ năng dạy bài tập theo lí thuyết hoạt động như trên là cơ sở
để xây dựng nội dung, phương pháp rèn luyện kĩ năng dạy bài tập và đánh giá kết quả rèn luyện
của giáo sinh.
3.1.2. Lí thuyết về đo lường đánh giá trong giáo dục
Chúng tôi dựa vào lí thuyết phân loại Bloom [7], [8], [9] được xây dựng bởi Benjamin S.
Bloom (Mỹ, 1913-1999) và các cộng sự. Thang phân loại cho lĩnh vực nhận thức do Bloom thiết
lập năm 1956, thang cho lĩnh vực thái độ ra đời 1964; thang phân loại cho lĩnh vực kĩ năng xuất
hiện muộn hơn và do một nhóm nghiên cứu (học trò của Bloom) là R. H. Dave xây dựng công bố
1967, được phát triển bởi Simpson và Harrow công bố 1972.Thang của Dave và Simpson thường
được sử dụng trong lĩnh vực giáo dục và dạy nghề, thang của Harrow thường sử dụng trong lĩnh
vực phát triển kĩ năng vận động. Bảng 1 là thang phân loại của Dave về kĩ năng mà chúng tôi vận
dụng trong nghiên cứu này.
Bảng 1. Thang phân loại của Dave về lĩnh vực kĩ năng
(RH Dave (1967), EJ Simpson (1972), AJ Harrow (1972), and A Romiszowski) [12]
Cấp
độ
Phạm
trù
Mô tả hành vi
Các ví dụ về hoạt động
được đào tạo, các minh
chứng được đo lường
Các từ khóa (động từ
mô tả hành động
được đào tạo/đánh
giá)
1 Mô
phỏng
Bắt chước một hành
động của người khác,
quan sát và thể hiện
lại/tái tạo lại
Quan sát GV và thực hiện lại
hành động, quy trình hoặc
hoạt động
Bắt chước, làm theo,
thể hiện lại, lặp lại,
Làm theo mẫu
2 Thao
tác
Thực hiện lại hành
động theo hướng dẫn
hoặc trí nhớ
Thực hiện nhiệm vụ theo
hướng dẫn bằng văn bản
hoặc bằng lời nói
Tái tạo lại, xây dựng
lại, thực hiện, triển
khai, tiến hành
Phạm Thị Phú, Nguyễn Văn Tuấn
105
3 Hành
động
thuần
thục
Tự tin thể hiện một kĩ
năng không cần sự hỗ
trợ
Thực hiện một nhiệm vụ/hoạt
động thuần thục, có chất
lượng cao ko cần sự hỗ trợ,
thể hiện hành động trước học
viên khác
Thuyết minh, hoàn
thành, thể hiện, hoàn
thiện, kiểm soát
4 Khớp
nối
(Hoạt
động)
Điều chỉnh và tích hợp
các ý kiến của giới
chuyên môn/thành thạo
để đáp ứng mục tiêu
trên chuẩn
Liên hệ và kết nối các hoạt
động nhằm phát triển PP đáp
ứng các đòi hỏi khác nhau
Xây dựng, giải quyết,
phối hợp, tích hợp,
điều chỉnh, phát triển,
5 Tự
động
hóa
Tự động hóa, nắm bắt
hoạt động và kĩ năng
liên quan một cách vô
thức ở cấp độ chiến
lược
Xác định mục tiêu, cách tiếp
cận, chiến lược sử dụng các
hoạt động nhằm đáp ứng yêu
cầu chiến lược
Thiết kế, cụ thể hóa,
quản lí, phát minh,
quản lí dự án
3.1.3. Thực trạng đo lường đánh giá kĩ năng nghề của SV sư phạm cuối khóa
Hiện nay, đánh giá kĩ năng nghề của SV sư phạm thông qua 2 kênh chính:
- Kênh thứ nhất: kết quả học tập các học phần thuộc khối kiến thức kĩ năng nghề. Đối với
chương trình đào tạo Cử nhân sư phạm Vật lí [10], gồm các học phần:1. Lí luận dạy học Vật lí, 2.
Nghiên cứu chương trình Vật lí THPT, 3. Phương pháp dạy bài tập Vật lí, 4. Thực hành dạy thí
nghiệm Vật lí, 5. Thực hành thiết kế và thi công bài học Vật lí (thực hành dạy học). Ở kênh này,
các học phần đều được đánh giá thường xuyên bằng theo dõi chuyên cần thái độ (hệ số 0,1) và
kiểm tra giữa kỳ (hệ số 0,2) và đánh giá tổng kết bằng thi kết thúc học phần (hệ số 0,7). Trong thi
kết thúc học phần, tùy thuộc vào mục tiêu từng học phần mà yêu cầu đề thi có trọng số khác nhau
cho lĩnh vực nhận thức và kĩ năng (xem bảng 2).
Bảng 2. Tỉ lệ kiến thức/kĩ năng trong yêu cầu thi kết thúc học phần nghiệp vụ dạy Vật lí
TT Học phần
Hình thức đánh giá
tổng kết
Tỷ lệ kiến
thức/kĩ
năng
Phương pháp đánh
giá
1 Lí luận DHVL Thi tự luận 50/50 Chấm bài thi viết
2 Nghiên cứu chương trình
VLPT
Thi tự luận 50/50 Chấm bài thi viết
3 Phương pháp dạy BTVL Thi tự luận 50/50 Chấm bài thi viết
4 Thực hành dạy thí nghiệm
VL
Thithực hành tại
Phòng thí nghiệm
20/80 Quan sát HĐ thực
hành, vấn đáp
5 Thực hành dạy học Thực hành soạn bài và
thực hành dạy trên lớp
học giả định
0/100 Chấm bài soạn
Quan sát HĐ thực
hành dạy
Việc ra đề, chấm thi, quan sát đánh giá kĩ năng của sinh viên nhìn chung nặng về định tính,
việc lượng hóa mức độ đạt được của kĩ năng theo lí thuyết đo lường Bloom hầu như chưa được
vận dụng.
Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa ngành Cử nhân Sư phạm Vật lí
106
- Kênh thứ hai: kết quả thực tập sư phạm cuối khóa. Đánh giá năng lực sư phạm của giáo sinh
nói chung, năng lực dạy học (nói riêng) được giao hoàn toàn cho giáo viên hướng dẫn tại cơ sở
thực tập. Đây là môi trường rèn luyện nghiệp vụ sư phạm lí tưởng nếu cơ sở đào tạo giáo viên
xây dựng được một mạng lưới các trường phổ thông với đội ngũ giáo viên hướng dẫn thực tập
thường xuyên được bồi dưỡng để cập nhật các vấn đề chuyên môn. Tuy nhiên vì nhiều lí do, công
tác hướng dẫn thực tập và đánh giá sinh viên thực tập còn nặng tính chủ quan, chưa căn cứ vào
một bảng tiêu chuẩn được định lượng theo các tiêu chí do các chuyên gia về đo lường đánh giá
trong giáo dụcxây dựng. Tâm lí chung là đánh giá thế nào để sinh viên có hồ sơ đẹp tạo thuận lợi
cho sinh viên sớm tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp. Đối với giáo sinh Vật lí, việc dạy thay
các tiết bài tập khi chưa có sự chuẩn bị chu đáo trong thời gian đi thực tập sư phạm là tương đối
phổ biến. Điều này xuất phát từ tâm lí coi dạy bài tập là “chữa bài tập”: chỉ cần giải được bài tập
là có thể dạy được bài tập đó; chọn bài tập càng khó giáo sinh càng thể hiện được năng lực
chuyên môn của mình. Đây là quan niệm sai lầm, làm chệch hướng các chức năng giáo dưỡng,
giáo dục, phát triển năng lực và giáo dục kĩ thuật tổng hợp của bài tập Vật. Dạy lí thuyết Vật lí,
nội dung dạy đã được trình bày tường minh trong sách giáo khoa, mục tiêu phương pháp phương
tiện đã được gợi ý trong sách giáo viên.
Dạy bài tập Vật lí, giáo sinh phải tự xác định từ mục tiêu, nội dung, đến phương pháp phương
tiện và hình thức tổ chức hoạt động học sinh [10]. Giáo sinh phải tự lựa chọn bài tập hoặc xây
dựng bài tập, hệ thống bài tập theo mục tiêu, việc chọn được bài tập trúng mục tiêu là việc không
dễ, sử dụng bài tập khó là con dao hai lưỡi và trong nhiều trường hợp tạo ra hiệu ứng tiêu cực
hơn là tích cực, bài tập khó cho đối tượng học sinh không phù hợp sẽ làm học sinh mất tự tin vào
bản thân, sợ giải bài tập Vật lí, không yêu thích môn Vật lí.
3.2. Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa
Vận dụng thang đo 5 mức của Dave (bảng 1) cho các kĩ năng thành tố của kĩ năng dạy bài tập
(sơ đồ 1); với đối tượng là sinh viên cuối khóa (đang học việc), chúng tôi xây dựng thang đo kĩ
năng dạy bài tập cho đối tượng này như trình bày tại bảng 3.
Bảng 3. Thang đo kĩ năng dạy bài tập của SV cuối khóa
Mức độ
Kĩ năng
Mức 1
Bắt chước
sai
(Lặp lại sai
mẫu)
<5,0
Yếu
Mức 2
Bắt chước
(Lặp lại
đúng mẫu
hành động
qua quan
sát)
5÷ < 6
Trung bình
Mức 3
Thao tác
(Thực hiện
được KN
theo hướng
dẫn gián
tiếp)
6,0÷<7,0
TB khá
Mức 4
Có kĩ năng
(Tự thực
hiện được
từng KN
riêng rẽ)
7,0÷ <8,0
Khá
Mức 5
Có năng lực
(Khớp nối
được các kĩ
năng)
≥8,0
Giỏi
Giải bài tập Không giải
được bài tập
cũ
Giải được bài
tập cũ
Giải được bài
tập mới có
hướng dẫn
Tự giải được
bài tập mới
Xây dựng và
giải được bài
tập phù hợp
mục tiêu
Phân tích
chức năng
LLDH của
BT
Không phân
tích được BT
cũ
Tái hiện phân
tích BT cũ
Phân tích
được BT mới
có gợi ý
Tự phân tích
được BT mới
theo mẫu
Phân tích BT
mới một cách
sáng tạo
Phạm Thị Phú, Nguyễn Văn Tuấn
107
Lựa chọn bài
tập phù hợp
mục tiêu
Lựa chọn
không phù
hợp
Lặp lại ví dụ
đã biết
Nêu được ví
dụ mới có gợi
ý
Tự nêu được
ví dụ mới
Tự xác định
được mục
tiêu và bài tập
tương ứng
Đặt câu hỏi
hướng dẫn
HS giải
Câu hỏi
không trúng
cho ví dụ đã
biết
Tái hiện được
ví dụ đã biết
Xác định
trúng, câu hỏi
trúng (có
hướng dẫn)
cho bài tập
mới
Tự xác định
trúng, câu hỏi
trúng cho bài
tập mới
Câu hỏi gợi
mở linh hoạt,
sáng tạo
Thiết kế kế
hoạch dạy
Sai mẫu Đúng mẫu Tương tự mẫu Cải tiến mẫu Sáng tạo mẫu
Thực hiện kế
hoạch dạy
Không hoàn
thành kế
hoạch dạy
Rập khuôn
máy móc
(bám giáo án)
Hoàn thành
kế hoạch, phụ
thuộc ít vào
giáo án.
Hoàn thành
kế hoạch,
thoát ly giáo
án
Tự chủ, Linh
hoạt, sáng tạo
Thang đo này đã được thực nghiệm tại trường Đại học Vinh và trường Đại học Đồng Nai từ
năm 2015 đến nay trong việc đổi mới hoạt động kiểm tra đánh giá học phần "Phương pháp dạy
học bài tập vật lí phổ thông" theo tiếp cận đo lường năng lực dạy học bài tập của sinh viên cử
nhân sư phạm vật lí, là cơ sở để thiết kế các bài tập tình huống trong rèn luyện kĩ năng dạy bài
tập, xây dựng đề thi kết thúc học phần Phương pháp dạy bài tập Vật lí, đánh giá bài học thiết kế
và quan sát đánh giá các tiết thực hành dạy bài tập của giáo sinh ở cơ sở đào tạo và ở trường phổ
thông nơi giáo sinh thực tập sư phạm. Với kết quả nghiên cứu này đã khắc phục được tính cảm
tính chủ quan trong khâu đánh giá, góp phần hiện thực hóa đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
3. Kết luận
Đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo là đổi mới tất cả các yếu tố của quá trình giáo dục trong đó
có kiểm tra đánh giá; ở phổ thông đã chọn đổi mới kiểm tra đánh giá là khâu đột phá cho thấy ý
nghĩa tầm quan trọng của khâu này. Để khắc phục tính cảm tính chủ quan trong khâu đánh giá
cần xây dựng bộ công cụ đo lường kết quả giáo dục. Theo tiếp cận năng lực, kĩ năng là bộ phận
trọng yếu của năng lực, là biểu hiện của năng lực, đặc biệt là năng lực nghề (có thể coi năng lực
nghề chính là kĩ năng nghề). Kĩ năng dạy bài tập được xác định là một nhiệm vụ đặc thù của
người giáo viên vật lí, được phân tích theo lí thuyết hoạt động thành các kĩ năng thành tố dùng
làm cơ sở cho việc thiết kế thang đo đánh giá kết quả rèn luyện một kĩ năng chuyên biệt thuộc
năng lực dạy học trong đào tạo Cử nhân sư phạm Vật lí, góp phần hiện thực hóa đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông, Thông tư 30/2009/TT
– Bộ GD&ĐT, Hà Nội.
[2] R.E. Boyatzits, S.S. Cowen, D.A. Klob, 1995. Innovation in Proessional Education: Steps on
Journey from Teaching to Learning, Jossey-Bass, San Francisco, CA., USA.
Thiết lập thang đo đánh giá kĩ năng dạy bài tập của sinh viên cuối khóa ngành Cử nhân Sư phạm Vật lí
108
[3] Nguyễn Công Khanh, 2014. Kiểm tra đánh giá trong giáo dục (dành cho sinh viên tại các
trường, khoa sư phạm). Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[4] Phạm Thị Phú, Nguyễn Văn Tuấn, 2015. Mô hình cấu trúc kĩ năng dạy bài tập dùng cho rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên Vật lí, Tạp chí Khoa học Giáo dục, 123, tr. 17-18,21.
[5] Vũ Trọng Rỹ, Phạm Xuân Quế, 2015. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn vật lí của học
sinh ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực. Tạp chí Khoa học giáo dục, số 123. tr
11-14.
[6] Lâm Quang Thiệp, 2012. Đo lường và đánh giá hoạt động học tập trong nhà trường. Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
[7] Bloom B.S., et al, 1956. Taxonomy of Education Ojectives. Handbook I: The Cognitive
Domain, New York, David Mckay Co.Inc.
[8] Bloom B.S., et al, 1964. Taxonomy of Education Ojectives. Handbook II: The Affective
Domain, New York, David Mckay Co.Inc.
[9] Anderson L., Karthwohl D., et al, 2001. A Taxonomy for Learning, Teaching, and Assessing:
A Rivision of Bloom’s Taxonomy of Education Objectives.
(www.apsna.org/resource/resmgr/2014/apsna_guidelineshowcompletef.pdf).
[10]. Đỗ Hương Trà Đỗ Hương Trà (Chủ biên), Phạm Gia Phách, 2016. Dạy học bài tập vật lí ở
trường phổ thông (phần Cơ học và Nhiệt học), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[11] Trường Đại học Vinh, 2013. Chương trình giáo dục đại học hệ chính quy theo hệ thống tín
chỉ, thực hiện từ khóa tuyển sinh năm 2011, Nghệ An.
[12]. https://en.wikiversity.org/wiki/Instructional_design/Psychomotor_behaviors/Introduction
ABSTRACT
Creating measurements to assess the techniques of teaching exercises
for pedagogical bachelors in Physics
Pham Thi Phu1, Nguyen Van Tuan2
1Vinh University, 2Dong Nai University
Assessment is a meaningful stage and of great importance in the course of education. To
overcome the subjective side of measurements, it is essential to create a tool set to measure the
educational results. Skills are the core elements of ability. Thus, creating measurements to assess
ability is a matter of theoretical and practical importance. The article showed the research results
of creating measurements to assess the techniques of teaching exercises – a distinctive and
important skill in the structure of teaching abilities of Pedagogical bachelors in Physics. This
study, named The renovation of evaluation activities for the module "Methods for teaching
Physics exercises "on the access to capacity measurement of teaching ability for students in
physical education field, was carried out at Vinh University in 2015. This study has overcome the
subjective sentiment in evaluating in order to contribute to the realization of reforming the
curriculum and the content, the methods for training teachers in order to meet the requirements
for reforming the general education.
Keywords: Measurements, assessments, skills, teaching, Physics exercises.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5085_10_pham_thi_phu_nguyen_van_tuan_6363_2123632.pdf