Tài liệu Thiên nhiên miền Tây Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam: Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
THIÊN NHIÊN MIỀN TÂY NAM BỘ
TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
NGUYỄN VĂN ĐÔNG*
TÓM TẮT
Nhà văn Sơn Nam đã dành cả đời mình để viết về quê hương của ông, các tỉnh xa xôi
của vùng châu thổ sông Cửu Long. Đó là nơi sông rạch, kênh đào chằng chịt, xinh đẹp, rất
nhiều cá, tôm, rùa Trên vùng đất màu mỡ phù sa này, Sơn Nam đã phác họa sinh hoạt
và cuộc mưu sinh của những người nghèo khó, những người tiên phong đến vùng đất
hoang dã để khai hoang và mở mang bờ cõi xa xưa. Họ được xem như những anh hùng và
tác phẩm của Sơn Nam như pho sử thi về những chiến công và sự chịu đựng tuyệt vời của
họ.
Từ khóa: truyện ngắn Việt Nam hiện đại, nhà văn Sơn Nam, thiên nhiên miền Tây
Nam Bộ Việt Nam.
ABSTRACT
Western Nam Bo nature in Son Nam’s short stories
Son Nam dedicated all his life to write about his homeland, an remote regi...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 770 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thiên nhiên miền Tây Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
THIÊN NHIÊN MIỀN TÂY NAM BỘ
TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
NGUYỄN VĂN ĐÔNG*
TÓM TẮT
Nhà văn Sơn Nam đã dành cả đời mình để viết về quê hương của ông, các tỉnh xa xôi
của vùng châu thổ sông Cửu Long. Đó là nơi sông rạch, kênh đào chằng chịt, xinh đẹp, rất
nhiều cá, tôm, rùa Trên vùng đất màu mỡ phù sa này, Sơn Nam đã phác họa sinh hoạt
và cuộc mưu sinh của những người nghèo khó, những người tiên phong đến vùng đất
hoang dã để khai hoang và mở mang bờ cõi xa xưa. Họ được xem như những anh hùng và
tác phẩm của Sơn Nam như pho sử thi về những chiến công và sự chịu đựng tuyệt vời của
họ.
Từ khóa: truyện ngắn Việt Nam hiện đại, nhà văn Sơn Nam, thiên nhiên miền Tây
Nam Bộ Việt Nam.
ABSTRACT
Western Nam Bo nature in Son Nam’s short stories
Son Nam dedicated all his life to write about his homeland, an remote regions of the
Mekong Delta. There are labyrinths of picturesque rivers and canels in abundance of fish,
shrimps, tortoises, etc. On this fertile and alluvial land, he made a sketch out of acitivities
and the ways of one’s living of poor peasants who were the pioniers coming this wild land
to reclaim and expand the boundery of the nation in the old time. They were considered as
as heroes. Son Nam’s work is an epic of their admirable feats and patience.
Key words: modern Vietnam short stories, Son Nam writer, the nature in West Nam Bo.
Viết về Nam Bộ, trước Sơn Nam có
nhiều tác giả khác như Trịnh Hoài Đức,
Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Vương Hồng
Sển, Bình Nguyên Lộc Đọc những tác
phẩm của các tác giả ấy, người đọc cảm
nhận được cái đẹp của thiên nhiên và con
người vùng đất Nam Bộ hào hiệp, trọng
nghĩa tình, chân chất trên vùng đất mới
phương Nam.
Riêng về Sơn Nam, ông đã dành
suốt đời mình để viết về miền đất cực
Nam của Tổ quốc, cụ thể là miệt Hậu
Giang, quê hương của ông. Nặng tình về
một vùng đất có những con người nghèo
* ThS, Trường Đại học Thủ Dầu Một, Bình Dương
khổ nhưng chất phác và một thiên nhiên
giàu có nhưng cũng đầy khắc nghiệt,
trong hơn sáu mươi năm cầm bút, Sơn
Nam đã để lại cho chúng ta nhiều tác
phẩm, chủ yếu là truyện ngắn và những
công trình biên khảo rất có giá trị về văn
hóa phương Nam đất Việt. Sơn Nam là
nhà văn của buổi đầu mở đất, của những
người bị xô dạt từ miền ngoài vào đây,
của lưu dân vì nhiều lý do phải bỏ xứ,
của những người ưa mạo hiểm muốn tìm
tự do nơi xứ lạ.
Thiên nhiên miền Hậu Giang thời
mới khai phá là một thiên nhiên hoang
sơ, và những lưu dân đi mở cõi đa phần
là những người nghèo khổ tha hương, họ
22
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Văn Đông
_____________________________________________________________________________________________________________
bám đất với bao nỗi nhọc nhằn gian khó,
cố gắng bằng tất cả sức người để dựng
xây một cuộc sống mới.
1. Sơn Nam viết nhiều về thiên nhiên
vùng đất mới chắc không phải để giúp
người đọc thưởng ngoạn cảnh đẹp đồng
quê mà chính là để người đọc hiểu tâm
tình và đời sống dân quê, hiểu vì sao
người xưa đã vượt muôn ngàn gian khổ
để đến nơi này, chịu đựng bao hiểm nguy
khó nhọc mà vẫn bám đất đến cùng,
nhằm gây dựng một cơ đồ để lại cho con
cháu.
Nếu đặc trưng của địa thế miền Bắc
là núi rừng trùng điệp, những đồng bằng
nhỏ hẹp ven triền đê; ở miền Trung là
những dãy núi hùng vĩ, đồng bằng nhỏ
hẹp và bờ biển trải dài với bãi cát trắng
đầy nắng gió, thì ở miền Nam mà nhất là
ở Tây Nam Bộ là cảnh sông nước, kênh
rạch mênh mông. Phần lớn diện tích ở
Nam Bộ là vùng đất thấp có nhiều sông
rạch đan xen nhau chằng chịt. Hằng năm,
phù sa từ thượng nguồn theo dòng chảy
của các con sông lớn đổ về bồi đắp làm
cho đất đai phì nhiêu, cây trái tốt tươi.
Thiên nhiên miền Tây Nam Bộ trong
truyện ngắn Sơn Nam thường đa dạng
đầy sắc màu với cảnh trời nước mênh
mông... Mỗi câu chuyện trong sáng tác
của ông là một bức tranh tả thực về cuộc
sống con người và thiên nhiên làng quê
Nam Bộ.
Trong những năm đầu của thế kỷ
trước, miền Tây còn rất hoang vu, khí
hậu khắc nghiệt, giao thông chưa phát
triển nên đất đai mênh mông mà đa
phần là vô chủ. Nếu ai chịu khó đổ mồ
hôi xuống mảnh đất chưa có dấu chân
người đó, chắc chắn nó sẽ đem lại cuộc
sống sung túc cho người ấy:
“Hồi đó đất chung quanh đều
hoang, chưa có chủ. Một vài dân nghèo
tới đây khai phá thử những khoảng nho
nhỏ, vài chục công một. Đất tốt ít phèn,
lại gặp những năm nước không lớn quá,
mặc dù chuột có phá mà hết mùa, mỗi gia
đình còn dư được ba bốn trăm giạ. Năm
sau, họ khai phá nhiều gấp đôi và người
phương khác cũng dần dần tụ lại. Chỉ
trong bốn năm thành đất thuộc. Nhà nào
cũng thịnh vượng: người đóng ghe, kẻ
tậu trâu, người mua đồng cho vợ đeo,
người xây lẫm để cất lúa”. (3, tr.73)
Hệ thống sông rạch bủa giăng rộng
khắp miền Tây Nam Bộ đã tạo điều kiện
thông thương khá thuận lợi cho dân cư
khắp nơi, biến vùng này thành một ngôi
làng chung. Đây là điểm khác biệt quan
trọng về địa lý của miền Tây Nam Bộ so
với các miền đất khác của đất nước, nơi
mà mỗi ngôi làng được vây bọc bởi
những lũy tre như ngoài Bắc hay bị cách
ngăn bởi đèo núi như ở miền Trung. Đất
miền Tây Nam Bộ màu mỡ, tốt tươi
quanh năm do lượng nước và phù sa của
sông Cửu Long đem lại:
“Sông Tiền và sông Hậu rất rộng
lượng, đôn hậu, ít khi trở chứng, cho rất
nhiều, ít khi lấy lại, nước lụt hàng năm
không gây tai họa nếu con người biết quy
luật. Xử lý khôn khéo, lần hồi ta có lúa,
có cá đồng, cá biển, cây củi, vườn cây
trái hoa màu, gió sẽ mát, nắng bớt oi
bức, mưa bớt lầy lội”. (HMSTN, tr.59)
Nước tràn đồng theo chu kỳ rồi rút
dần ra biển quả thực là một ân huệ lớn
của thiên nhiên ban tặng vùng đất này,
23
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
bởi con nước giúp rửa phèn chua và để
lại phù sa màu mỡ trên đất. Đất đai màu
mỡ, phì nhiêu, người dân lại cần cù nên
chẳng bao lâu hình thành nên những xóm
làng giàu có:
“Thời Pháp thuộc làng Bình An,
tỉnh Rạch Giá được nổi danh là sung túc.
Ruộng đất quá phì nhiêu, chẳng cần bón
phân, mỗi công đất thâu hoạch hơn 20
giạ. Qua tháng Mười một, mãn mùa gặt,
dân chúng còn hưởng thêm mùa dưa hấu
trồng ngay trên ruộng. Nếu trúng mùa
dưa thì rõ ràng là vốn một lời mười. Họ
tha hồ ăn xài suốt tháng Giêng cờ bạc,
đờn ca vọng cổ lai rai đến lúc tháng Ba,
sa mưa”. (HRCM3, tr.7)
Ngoài đất đai là một quà tặng vô
giá của thiên nhiên, lại sẵn có trong thiên
nhiên rất nhiều sản vật mà người dân có
thể thụ hưởng mà không cần gieo trồng,
chăm sóc. Chẳng hạn như lúa trời, đúng
là một loại lúa trời cho, người dân không
cần gieo cấy, đến mùa chỉ cần gặt lấy
đem về:
“Một độc đáo khác thường được
thấy ở Đồng Tháp là những nơi có loại
“lúa trời”. Đây là những vùng đất thấp,
thường ngập nước, có loại lúa mọc từ
lòng đất vươn cao lên khỏi mặt nước,
giống như loại lúa nổi. Dân nghèo dùng
xuồng nhỏ, thấp, len lỏi vô các bưng có
lúa trời, dùng thanh tre dài lùa đập các
cộng lúa để hột lúa rụng rớt vô xuồng. Đi
đập mót lúa trời cũng là một nguồn sinh
sống cho dân cư cùng khổ, không đất
canh tác”. (3, tr. 27)
Có câu nói mà ở miền Tây Nam Bộ
hình như ai cũng biết: “Ở đâu có nước thì
ở đó có cá”. Quả vậy, trên mọi con sông,
suối, kênh, rạch, mương, ao, đầm, vũng,
ở nơi đây dường như chỗ nào cũng có
cá, không nhiều thì ít. Không có cá, thì
cũng là rùa, lươn, ếch Tất cả đều là
những vật phẩm nuôi sống con người.
Cá sinh sống và phát triển rất nhanh
trong môi trường thiên nhiên thuận lợi,
không cần phải có sự tác động của con
người. Cá và các loài thuỷ sản nơi đây là
nguồn lợi thiên nhiên mà con người
không phải nhọc công để tìm kiếm. Vào
những năm 40 của thế kỷ trước, nơi đây
cá nhiều không thể tưởng tương
được:
“Vùng đồng chua ở rừng U Minh
Thượng đầy nhúc cá sặt rằn, bởi cớ ấy.
Đến mùa mưa cá sanh sôi nẩy nở, cá con
trở thành cá lớn. Bắt đầu mùa nắng, bao
nhiêu ao vũng, sông rạch nhỏ đều cạn.
Đến mức nào đó, nhìn xuống nước,
chúng ta chỉ nhìn thấy một thứ bùn sền
sệt, đục ngầu trộn lộn với cá sống”. (HQ,
tr.40)
Sông nước là mạng lưới giao thông
thuận lợi, đồng thời còn là nguồn cung
cấp thực phẩm vô tận cho con người. Nếu
như các tộc người bản địa có khuynh
hướng tìm thức ăn từ rừng, thì với người
Việt, lại từ sông nước:
“Nhờ ăn nhiều cá mà ở Hậu Giang,
xưa kia các bậc tiền nhân vui vẻ đóng vai
trò người hùng khai hoang. Đang khi
bịnh rét hòanh hành, các cụ hiên ngang
cầm cày xách phản ra ruộng, dầm mưa,
rồi về nhà, các cụ ăn liên tiếp năm sáu
con cá lóc nướng, uống rượu”. (TLAT,
tr.78)
Ở đây, người dân có thể lợi dụng
đặc điểm của thiên nhiên để hưởng lợi
24
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Văn Đông
_____________________________________________________________________________________________________________
mà không cần phải tốn nhiều công sức,
theo kiểu làm chơi ăn thiệt. Trong truyện
Con cá chết dại, anh Hai Ty hướng dẫn
hai mẹ con Hồng và Huệ cách bắt cá.
Mỗi năm một lần nước mặn tràn vào
rạch, cá lóc quen với nước ngọt sẽ bị say
nước mặn, chết lờ đờ và nổi đầy mặt
nước, chỉ việc canh đúng ngày giờ và nơi
chốn ấy thì tha hồ vớt lên:
“Vào khoảng tám giờ sáng hôm
sau, Hồng và Huệ bơi xuồng ra tới chòi
của Hai Ty. Khoang xuồng đầy cá lóc
chết dại. Cá nổi trắng mặt nước, hai bên
bờ rạch không có nhà cửa, nên mẹ con
Hồng độc quyền nguồn lợi ấy. Người ở
xóm ngọn chưa hay cá đang chết dại vì
nước lớn chưa chảy tới”. (HQ, tr.55)
Vài trăm năm trước, một nguồn lợi
khác của miền Hậu Giang là những sân
chim và Rạch Giá, Hà Tiên nổi danh là
nơi có nhiều sân chim. Đây là của trời đất
dành riêng cho những người dân sống nơi
này. Người dân đến các sân chim này để
bắt chim, nhổ lông bán cho ghe buôn từ
Hải Nam đến, họ mua về để làm quạt.Từ
vàm đến ngọn sông Cái Lớn, bao nhiêu
là sân: sân Cái Nước, sân Thầy Quơn, sân
Thứ Nhứt, Kinh Dài, Chắc Băng, Đầm
Dơi, Cổ Cò Từng vùng rộng chừng
mười ngàn thước vuông, tụ tập hàng vạn
con chim với đủ mọi giống chim lớn nhỏ
cùng nhau tụ về:
“Chỉ thấy chim, cò, trích, cúm núm,
bìm bịp bay lên từng chập, từ mấy đóa
sen bạch nở muộn. Gió chướng thổi hiu
hiu. Loại rong đuôi chồn già nua tan rã,
chìm xuống. Mặt nước lềnh bềnh mấy củ
bông súng tróc gốc nổi lên”. (HQ, tr.81)
Miền Tây Nam Bộ vào những năm
đầu của thế kỷ trước còn có một loại
động vật phát triển nhanh và nhiều không
biết bao nhiêu mà kể: con rùa – một
nguồn thực phẩm thiên nhiên đặc biệt
cho người dân nơi đây. Rùa nhiều quá, ăn
không hết, người dân đi khai hoang nghĩ
đến cách nuôi rùa trong nhà, phòng khi
khó kiếm thức ăn:
“Trong chòi, chú Bảy đã xây cái hồ
to lớn, chứa chấp bao nhiêu là rùa. Đôi
ba trăm con rùa đủ cỡ, đủ loại, đang cỡi
đè lên nhau, chen lấn nghe lộp cộp. Con
thì ngả ngửa, khoe cái yếm vàng lườm,
bốn cẳng ngoe nguẩy bơi trong không
khí. Con khác cố gắng quào vào vách hồ
bằng sậy, lú cổ dài nhằng, miệng há
rộng, thiếu răng giống như mỏ chim.”
(HRCM 2, tr.69)
Ngoài cá là nguồn lợi chính, người
dân còn biết tìm trong thiên nhiên những
nguồn thức ăn có rất nhiều ở khắp nơi
như rắn, lươn:
“Hết mùa cá dại, anh xoay qua bắt
trăn bắt rắn. Toàn là những món của
trời, không vốn liếng”. (BCMT, tr.50)
2. Nam Bộ là vùng đất mới, nhiều thế
kỷ chưa khai phá, nên thiên nhiên còn
nhiều khắc nghiệt. Nhiều thế hệ lưu dân
nối tiếp nhau tìm đến Nam Bộ khai khẩn
rừng hoang, cải tạo các vùng sình lầy để
có đất trồng trọt. Trên vùng đất hoang sơ,
rừng thiêng nước độc, hùm beo, rắn rết
đầy rẫy, một vùng đất vừa khơi dậy một
tiềm năng khai thác dồi dào, vừa thách
thức nghiệt ngã những con người phải
tìm kế mưu sinh.
Đặc biệt, ở thời điểm khai phá,
người Nam Bộ gần như ở bước khởi đầu
25
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
của một xứ sở nguyên thủy, bao quanh là
hiểm nguy, lạ lẫm trước thú dữ, dịch
bệnh, thiên nhiên hòan toàn hoang vu,
chưa hề có dấu chân người đúng như
Châu Đạt Quan, một sứ thần của Trung
Hoa, khi đi qua Nam Bộ, đã viết trong tác
phẩm Chân Lạp phong thổ kí:
“Bắt đầu vào Châu Bồ gần hết cả
vùng đều là bụi rậm của rừng thấp,
những cửa rộng của con sông lớn chảy
dài hàng trăm dặm với bóng mát um tùm
của những cây mây dài, khắp nơi vang
tiếng chim hót và thú kêu. Vào nửa
đường trong sông, thấy những cánh đồng
hoang không có một gốc cây. Xa hút nữa
tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy.”
(7, tr.80)
Thiên nhiên miền Tây Nam Bộ chia
ra hai vùng khác nhau. Bên này sông
Tiền thì tốt tươi, vùng đất hoang đã thay
đổi nhờ công sức của những người đi
trước; còn miệt Hậu Giang phát triển sau
hàng trăm năm nên đến những năm đầu
của thế kỷ XX vẫn còn gian khổ, phần
lớn truyện ngắn của Sơn Nam viết về
vùng đất này:
“So với cả nước, đồng bằng sông
Cửu Long là đất mới. Đã mới nên mang
nhiều nét khác nhau, khó khái quát
chung. Khác nhau vì nơi này thiên nhiên
ưu đãi, giao thông thuận lợi, nơi khác thì
khắc nghiệt, không ai canh tác vì đất
phèn, khó liên lạc với làng lân cận.”
(ĐBSCL, tr.209)
Miền Hậu Giang là vùng đất hoàn
toàn mới, chỉ có những người dân cùng
khổ mới dám mạo hiểm rời bỏ vùng bên
này sông Tiền phiêu lưu sang miệt Hậu
Giang để tìm nguồn sống mới:
“Phía hạ lưu, phần lớn diện tích
bùn lầy, ẩm thấp. Khí hậu khắc nghiệt.
Đất úng lần hồi tạo thêm phèn. Muỗi
mòng nhiều, lăng quăng và lá cây mục
dẫy đầy, tôm cá sinh sôi, cá lớn nuốt cá
bé, chim chóc và rắn ăn cá.” (ĐBSCL,
tr.15)
Nhìn những cánh đồng lúa tốt tươi,
những khu vườn cây xanh mát như hôm
nay, ít người có thể tưởng tượng được
rằng những người khai phá buổi đầu đã
phải vất vả như thế nào với những cánh
đồng còn hoang vu, không có dấu chân
người:
“Thứ đất khô không ra khô, ướt
không ra ướt, tràm mọc vài cụm xơ rơ
Biết chừng nào mới làm ruộng được. Cỏ
mọc cao hơn đầu người.” (HRCM2,
tr.157)
Đất đai ở miền Tây Nam Bộ mênh
mông, nhưng vì là vùng đất bỏ hoang
hàng thế kỷ nên khí hậu vô cùng khắc
nghiệt:
“Đất đai rộng mà khí nóng ẩm; chỗ
cao ráo thì khí nóng nực thường phát tiết,
chỗ bùn lầy thì khí ẩm thấp thường bốc
hun, cho nên nhiều người mắc bệnh
phong thấp.” (NVMN, tr.243)
Đất đai thì đã vậy, khi trồng trọt lại
còn bị nhiều loại thú rừng thi nhau phá
hoại, thu hoạch xong, người nông dân
không còn hưởng được bao nhiêu:
“Làm ruộng trên diện tích nhỏ - đôi
ba héc-ta một gia đình – gọi là “móc
lõm” là chuyện cầu may, có thể năm đầu
chuột bọ, chim chóc chưa hay biết nên để
yên, nhưng đến năm sau thì mùa màng
mất sạch trong một hai đêm (nếu chuột
bầy kéo tới) hoặc trong hai ba buổi sáng
26
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Văn Đông
_____________________________________________________________________________________________________________
khi loài chim lá rụng bay ào ạt đến, đen
trời, bay lên đáp xuống, lúc nắng chưa
lên. Lại còn từng bầy heo rừng ủi phá,
hằng trăm con khỉ kéo tới tuốt lúa hột,
phá chớ không ăn.” (ĐBSCL, tr.33)
Mùa nước nổi lại là nỗi kinh hoàng
cho người dân nơi đây. Nước sông Hậu
tràn vào trên “cánh đồng hoang vu, chạy
dài tới chân trời, lai láng như biển cả,
rộng hàng năm sáu chục cây số nối liền
bờ sông Hậu ra vịnh Xiêm La”. Phía khu
tứ giác Long Xuyên bao la trời biển,
hoang vắng, sóng bủa từng lượn dài.
Sống là sự khổ sở, chết cũng không được
yên thân. Nhà ngập nước, chẳng may có
người chết thì bó chiếu mà chôn, dằn
thêm cái cối đá cho xác đừng nổi lên.
Hoặc đóng bốn cây cọc như chữ X, gọi là
giá tréo để treo xác người chết nhô lên
mặt nước, diều quạ kêu inh ỏi, lượn lên
đáp xuống, trông càng thảm thương.
3. Những người Nam Bộ của rừng U
Minh không những phải đối đầu với cảnh
rừng thiêng nước độc, nỗi lo âu sinh kế,
mà họ còn phải đối đầu với hiểm nguy
luôn luôn rình rập, sẵn sàng cướp đi
mạng sống của họ, đó là thú dữ. Vùng đất
hoang vu là môi trường lý tưởng cho thú
dữ như: cọp, sấu... trú ngụ. Cuộc sống
của con người ở đây chủ yếu dựa vào
nguồn lợi của rừng và sông, nhưng lên
rừng thì đầy cọp, xuống sông thì sấu nằm
chi chít.
Không như ở miền Đông Nam Bộ,
cọp miền Tây Nam Bộ sống giữa sình lầy
nước mặn, trong bãi bùn nước lợ hay ở
gò đất trồng gừa, kè. Nổi tiếng là cọp U
Minh, cọp Gò Quao Cọp là nỗi ám ảnh
người dân đến độ nghe tới tên cọp là
hoảng hốt:
“Lần đó, cọp tới sân tôi chạy vòng
quanh tìm cách vô nhà. Đứa con tôi ở
một mình. Nghe tiếng động đậy nó chạy
ra sát hàng rào. Cọp ta không phương
thế nào vào trong được nên day lại, thò
đuôi vô kẽ hàng rào.” (HRCM2, tr.193)
Ở Rạch Giá, Cà Mau có nhiều con
rạch, ngã ba, mang tên Đầm Sấu, Lưng
Sấu, Bàu Sấu, hồi xưa lúc còn là đất
hoang, đó là nơi sấu lội nhiều, ẩn chứa
nhiều hiểm nguy giống những địa danh
phá Tam Giang, truông nhà Hồ ngoài
miền Trung.
Cá sấu là nỗi kinh hoàng cho lưu
dân người Việt thời khẩn hoang, chúng
có thể cướp đi mạng sống của con người,
hiểm nguy này thoắt ẩn, thoắt hiện, rất
khó đề phòng:
“Dân làng xúm nhau lên rừng để
nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công
đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy,
dây cóc kèn. Sấu nổi lên, chen vào bức
tranh màu xanh ấy những vệt đen chi
chít: con thì nằm dài như chiếc xuồng
lường, con thì dùng hai chân trước mà
vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như
họng súng thần công đại bác. Biết có loài
người đến quan sát, chúng vẫn điềm
nhiên sưởi nắng, bắt cá.” (HRCM1,
tr.222)
Cá sấu nhiều đến nỗi có người ví
như là trái mù u trong rừng. Có những
con sấu có lẽ sống cả trăm năm là hình
ảnh của những con sấu thần, sấu lửa:
“Và trước mũi của chiếc xuồng
quái dị nọ, hai tia sáng xanh ngời rọi tới
như hai cái đèn “bin”. Nghi ngờ gì nữa!
27
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường
nghe mấy người đóng đáy nói lại. Hồi đó,
chú Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy
tận mắt con sấu thần đó”. (HRCM1,
tr.246)
Không những vậy, có những con
sấu hung dữ và nguy hiểm như một loài
quái vật, gây bao nỗi kinh hoàng cho
người dân:
“Đúng như lời tiên đoán, những
năm sau đến mùa nước nổi là con sấu
năm chân lại xuất hiện lên nhận chìm
bao nhiêu xuồng ghe ăn thịt người”.
(HQ, tr.432)
Ở Cà Mau có con rạch tên Rạch Bù
Mắt. Bù mắt là một loại muỗi nhỏ, cắn
rất ngứa, vải mùng thưa, con bù mắt có
thể chui lọt vào. Ở quê, trẻ con thường bị
nhiều chứng bệnh về mắt là do loại côn
trùng bé tí ti này. Xưa nay, người ta nói
muỗi cắn, ở đây “muỗi ăn thịt ” cho ta
thấy sự kinh hoàng mà loài côn trùng này
gây ra cho con người:
‘Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa
nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi.
Không đau bịnh rét thì cũng chói nước
lớn bụng mà chết”. (HRCM1, tr.113)
Để chống lại muỗi, dân quê chỉ biết
cách là chui vô mùng:
“Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô
tấn ba phía rồi mời:
- Thầy Hai có vô trong này ngồi nói
chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói
như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong
thếp đèn dầu cá đó.” (HRCM2, tr.176)
Trong các loại thuộc họ bò sát,
đứng đầu về mối đe dọa cho mạng sống
con người là rắn. Miền Tây ẩm ướt, sình
lầy vốn thích hợp với loài vật máu lạnh
này nên là giang sơn nổi danh của chúng:
“Rạch Xẻo Ngát nổi danh là nơi
nhiều rắn độc, so với những con rạch
khác trải song song từ rừng tràm ra bờ
biển vịnh Xiêm La. Khi bơi xuồng dạo
xóm mà bỗng nhiên thấy rắn nó lội ngang
qua rạch, chẳng một ai hốt hoảng hoặc
lo sợ, mặc dầu rắn nọ chặn đầu chiếc
xuồng”. (HRCM2, tr.331)
Người nông dân miền Tây từ lâu
nổi danh với nghề bắt rắn. Rắn nhiều,
người bị rắn cắn ắt nhiên cũng nhiều và
như là quy luật tự nhiên, các thầy thuốc
rắn cũng xuất hiện nhiều hơn ở nơi khác.
Nhà văn Sơn Nam có nhiều truyện như
Cây Huê Xà, Con rắn, Ông thầy rắn
ghi lại hình ảnh của các vị thầy danh
tiếng này.
4. Sông rạch có vai trò quan trọng
trong đời sống ở Nam Bộ. Ở miền Nam,
thiên nhiên phần lớn là có ích cho con
người. Mưa thuận gió hòa, đất đai trù
phú là một trong những yếu tố giúp
miền Nam phát triển mau lẹ. Sông ngòi
Nam Bộ mỗi ngày con nước lên xuống
hai lần. Hiểu được quy luật thủy văn của
kênh rạch nơi đây, mới thấy đời sống của
người dân Nam Bộ gắn bó với sông nước
đến dường nào, mới hiểu tại sao nhiều
làng mạc, phố xá, thị trấn ngoảnh mặt ra
sông, coi mặt sông là mặt tiền, còn đường
bộ chỉ đưa vào mặt hậu, vào ngõ sau.
Ai chế ngự được sông nước, đầm
lầy thì người đó là chủ nhân của vùng đất
mới. Người Việt, vốn là một dân tộc thạo
nghề trồng lúa nước tự ngàn xưa và sành
sỏi việc di chuyển trên sông rạch, giỏi
chịu đựng và sẵn sàng đương đầu chống
28
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Văn Đông
_____________________________________________________________________________________________________________
trả với thú vật hoang dã đã chứng tỏ được
khả năng quý báu đó:
“Cọp sấu trên rừng, cá mập ngoài
biển mình không nao núng, lẽ đâu lại
ngán sóng gió ở con sông nhỏ này”.
(BCMT, tr.258)
Trên vùng đất sông rạch phức tạp,
nhiều chướng ngại, người Nam Bộ biết
tìm cách lợi dụng địa hình để có thể lưu
thông khắp nơi. Trong truyện Một cuộc
biển dâu, khi người cha bị bệnh nằm hấp
hối rồi sau đó tắt thở, thằng bé một mình
với cây dầm chèo ghe giữa vùng ruộng sạ
mênh mông tìm người giúp đỡ việc chôn
cất cha. Để hình dung được hoàn cảnh và
khả năng chèo chống của đứa bé, hãy
nghe Sơn Nam miêu tả cảnh nước trên
đồng ruộng sạ ở miệt Hậu Giang:
“Nước chảy hăng, tràn lan từ bờ
sông Hậu Giang ra vịnh Xiêm La, chảy
mãi về hướng Tây. Nó thắc mắc: nước ở
đâu mà nhiều quá, ngập đồng ruộng, sâu
cỡ hai thước, mênh mông không bờ bến
như biển khơi.” (HRCM1, tr.145)
Phương tiện vận chuyển duy nhất là
tàu thuyền hoặc bơi xuồng qua những
khúc sông sóng gió bất thường, những
con rạch nhỏ nước chảy như cắt. Ứng với
mỗi khúc quanh trên dòng sông, người
chèo xuồng sáng tạo từng kiểu buồm phù
hợp với dòng chảy và hướng gió. Sự linh
động, biến hóa để thích ứng với đặc điểm
riêng của từng vùng sông nước được thể
hiện khá rõ ở miền duyên hải cực Nam
của Tổ quốc:
“Chiếc tam bản lắc nghiêng như
trái dừa khô trên mặt nước đầy sóng gió.
Anh trạo chèo một chèo, nghiêng mình
bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi
tay một chèo mà chèo trên đất khô bên bờ
rạch. Chiếc tam bản lại lướt nhanh trên
dòng nước quá hẹp, vừa đủ lọt bề ngang.
Anh trạo mỉm cười:
- Chèo như vậy đi lẹ hơn. Mọi lần
mùa hạn, nước cạn queo, dưới sông đầy
bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo.
Chiếc tam bản đi như cộ kéo lúa”.
(HRCM1, tr.175)
Giỏi chèo chống, người Nam Bộ lại
có nhiều sáng kiến, biết lợi dụng những
gì có sẵn trong thiên nhiên để lưu thông
trên nước được dễ dàng hơn. Các truyện
Ba kiểu chạy buồm, Vẹt lục bình. Hương
rừng, Ông Bang cà ròncủa Sơn Nam
cho ta thấy sự thông minh của họ để có
thể di chuyển trên sông nước trong những
điều kiện tự nhiên khác nhau, theo đúng
kiểu “nhập giang tùy khúc”.
Khi gặp nước xuôi mà gió ngược,
lão già chèo xuồng nhiều kinh nghiệm
chặt một gốc bần ở ven sông, dùng dây
cột trước mũi xuồng, cây bần trôi, kéo
chiếc xuồng lướt phăng phăng, bất chấp
gió thổi mạnh:
“Ngộ quá, như có con trâu nước
hoặc con sấu, con thuồng luồng lội tới,
kéo xuồng. Gốc bần càng to nhánh nhóc
càng nhiều thì xuồng càng đi lẹ”.
(HRCM3, tr.259)
Đến khi gió thổi xuôi nhưng nước
chảy ngược, ông lại chặt một tàu lá dừa
nước to, cũng mọc sẵn ven bờ, cắm trước
mũi xuồng, có công dụng như một cánh
buồm, nhờ sức gió đẩy tới mà kéo xuồng
đi. Sự lưu thông dễ dàng đã có những tác
động vào dân cư, khuôn đúc nên một nếp
sống chung, một nền văn hóa, thương
29
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
mại, ngôn ngữ chung cho cả một vùng
đất rộng lớn bao la.
Sông nước là chướng ngại đáng sợ
nhưng với những ai làm chủ được nó, thì
đây lại là một nguồn lợi to lớn giúp cho
con người ở nhiều phương diện.
5. Cũng từ sự gắn bó với ghe xuồng,
nhiều điệu hò câu hát thành hình như hò
chèo ghe, hò mái dài, mái cụt... tạo nên
sắc thái riêng cho nền văn minh sông
nước. Truyện ngắn Con Bảy đưa đò là
một chuyện tình lãng mạn, trong đó khắc
họa hình ảnh cuộc đời trên sông nước và
âm thanh của tiếng hò câu hát của thời xưa.
Theo nhà văn Sơn Nam: “thương
hồ” là tiếng để gọi để chỉ những người
buôn bán nhỏ trên sông nước, hoàn toàn
không mang nghĩa “giang hồ”. Qua bao
đời nay, các chợ nổi trên sông đã trở
thành một vùng sinh hoạt văn hóa rất đặc
thù của người dân vùng châu thổ đồng
bằng sông Cửu Long.
Chiếc xuồng, chiếc ghe, con đò còn
phục vụ cho việc buôn bán rồi kết thành
chợ, trao đổi hàng hóa trên sông, hình
thành nên các khu chợ nổi hội tụ đủ
người tứ xứ đến buôn bán, làm ăn. Từ
những người dân bình thường đến những
kẻ tứ cố vô thân, rời bỏ quê hương tha
phương kiếm sống, với một chiếc ghe
đầy hàng hóa, nay ở chỗ này, mai chỗ
khác, len lỏi vào những con kênh, con
rạch đem hàng hóa phục vụ tận những
xóm làng hẻo lánh, xa xôi nhất. Thường
thì các ghe chất đầy ắp hàng nông phẩm
trong khoang xuồng không mui, những
xuồng có mui thì cắm cọc cao treo các
thứ trái cây, hành tỏi, v.v để chào
hàng.
6. Thiên nhiên Nam Bộ là một tặng
vật mà tạo hóa đã ban cho người dân nơi
đây. Thiên nhiên ưu đãi con người từ đất
đai màu mỡ, phì nhiêu đến mưa thuận gió
hòa, rất ít bão lụt, thiên tai Tuy nhiên,
trong quá trình sống, người Nam Bộ nhận
thấy rất cần tác động để thiên nhiên có
thể giúp con người ngày càng tốt hơn.
Không được trang bị súng ống hiện
đại tối tân như thợ săn thời nay, người
xưa tất nhiên phải cậy nhiều vào sức lực
và kinh nghiệm của chính họ, như nhân
vật huyền thoại, ông Năm Hên, chuyên
trị loài cá sấu hung dữ nhất:
“Nhanh như chớp, ông Năm Hên
nhảy lên lưng sấu mà cỡi Ông cúi đầu
xuống, hai tay cựa quậy Sấu day mũi
xuống nước rồi quẹo lên bãi, trở mình,
vật ông. Năm Hên nằm ngửa dưới bãi
Trong phút giây, người và sấu chỉ là một
đống đen thui. Khói từ bó đuốc thổi tạt
ngang mặt tôi Gió thổi hù hù. Ông
Năm Hên hò hét, làm vang động khu
rừng tràm sau hè. Tôi đứng không vững
vì dường như mặt đất rung rinh. Bỗng
dưng ông Năm Hên đứng dậy, chạy bò
càng lên bờ đến bên cạnh tôi rồi quỵ
xuống, thở hổn hển:
- Nó gần chết rồi kìa.
Dưới bãi bùn lấp lánh ánh trăng,
con sấu đen ngòm nằm im”. (HRCM2,
tr.140)
Nếu như truyện ngắn Bắt sấu rừng
U Minh Hạ đượm vẻ huyền bí, ma quái
ghê rợn, thì truyện ngắn Sông Gành Hào
dựng nên một cảnh tượng hùng tráng về
hai cha con chú Tư Đức chiến đấu với
con sấu dữ. Nhờ gan dạ, liều lĩnh, có
sáng kiến độc đáo, hai cha con chú Tư
30
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Nguyễn Văn Đông
_____________________________________________________________________________________________________________
Đức đã quần thảo với con sấu dữ tợn trên
sông và cuối cùng hạ được nó. Việc làm
của họ đã khiến ông quan Tây phải thay
đổi suy nghĩ và thái độ của mình trước
những người nông dân chất phác và có vẻ
khờ khạo này:
“Giỏi quá! Chú Tư giỏi quá! Thằng
nhỏ gan quá! Nó bị bịnh rét mà còn
mạnh quá! Tôi mời hai cha con vô đồn”.
(HRCM3, tr.259)
Đối phó với loài cọp dữ, người dân
dùng nhiều biện pháp khác nhau. Trong
quan niệm của người dân ít được học, họ
thường gọi chúng bằng những danh xưng
tôn kính nhất với hy vọng được chúng tha
cho: ông Năm Chèo (cá sấu trong truyện
Vùng Láng Linh), con Bà Tám (con rùa
khổng lồ có tám cái sọc trên lưng trong
truyện Ngày bổ tróc). Hoặc lập miếu thờ
cúng: “Bố trí một đạo quân đánh cọp
không xong, dân xóm này mới bày đặt cất
miễu thờ cọp”.
Khi những phương cách ấy không
hiệu quả, cọp trở thành mối đe dọa nguy
hiểm thì họ buộc phải đương đầu trực
diện với chúng. Những con người lao vào
chỗ nguy hiểm để đem lại sự bình yên
cho dân lành được ngưỡng mộ như
những anh hùng huyền thoại trong dân
gian. Đó là những người bắt cá sấu, trừ
cọp, heo rừng, chữa bệnh rắn cắn có
quá nhiều những người tài giỏi không thể
kể hết nhưng ít ai còn lưu lại tên tuổi của
mình. Những nhân vật như ông Năm Hên
bắt sấu để trừ họa cho dân làng, để cho
mọi người được yên ổn làm ăn chứ
không phải để mưu cầu danh lợi. Người
dân bao giờ cũng đối lại với ân nhân của
mình bằng một tình cảm chân thành, giàu
nghĩa khí, một ứng xử đẹp của người
nghèo khổ nơi vùng đất tận cùng của Tổ
quốc.
Vùng đất bùn lầy hoang vu của
miền Nam, nơi mà nhiều tộc người có
mặt từ hàng ngàn năm trước bị thiên
nhiên làm nản lòng phải lần lượt bỏ ra đi,
thì với lưu dân, Nam Bộ lại là vùng đất
hứa đầy triển vọng. Họ dám đương đầu
với mọi thách thức của thiên nhiên, với
quyết tâm chinh phục, chấp nhận hy sinh,
từng thế hệ tiếp nối nhau đã âm thầm dệt
nên bức tranh xinh đẹp miền Nam hôm nay.
Sơn Nam được xem là một trong
những nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ, với
những tác phẩm mang đậm dấu ấn con
người và thiên nhiên miền Tây Nam Bộ
thời khẩn hoang, được độc giả nhiều thế
hệ yêu mến. Tác phẩm của ông đã chịu
được sự thử thách của thời gian qua gần
nửa thế kỷ và có lẽ còn sống rất lâu trong
lòng người đọc.
Tình yêu quê hương, làng xóm là
nỗi ám ảnh trong cuộc đời Sơn Nam, như
một món nợ thiêng liêng đối với Tổ quốc
mà ông không thể không trả. Trong tác
phẩm của Sơn Nam, chúng ta thấy hiện
lên những hình ảnh quen thuộc, gần gũi
của miền Nam yêu dấu.
Sơn Nam là người lữ hành đi đến
cùng trời cuối đất của vùng Tây Nam Bộ,
dang rộng tay ôm lấy cái mênh mông vô
tận của miền Hậu Giang, cái thâm u,
hoang dã của vùng U Minh Thượng và U
Minh Hạ Thiên nhiên Nam Bộ trong
truyện ngắn Sơn Nam đã được viết nên
bằng một tình yêu quê hương thiết tha và
sâu nặng.
31
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011
_____________________________________________________________________________________________________________
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TÁC PHẨM SƠN NAM
CHỮ VIẾT TẮT TÁC PHẨM SƠN NAM
NVMN
ĐBSCL
HMSTN
TLAT
HRCM1
HRCM2
HRCM3
BCMT
HQ
Nói về miền Nam, Lá Bối, Sài Gòn, 1967.
Đồng bằng sông Cửu Long: nét sinh hoạt xưa, Nxb TP Hồ Chí
Minh, 1985.
26 truyện ngắn Sơn Nam, Nxb Mũi Cà Mau, 1987.
Tục lệ ăn trộm (Tập truyện ngắn), Nxb Kiên Giang, 1988.
Hương rừng Cà Mau, tập I, Nxb Trẻ, TP HCM, 1998.
Hương rừng Cà Mau, tập II, Nxb Trẻ, TP HCM, 1999.
Hương rừng Cà Mau, tập III, Nxb Trẻ, TP HCM, 2000.
Biển cỏ miền Tây, Nxb Trẻ, TP HCM, 2003.
Hương quê, Nxb Trẻ, TP HCM, 2006.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb ĐH Khoa học Xã hội & Nhân
văn, TP HCM.
2. Nguyễn-Ngu-Í (1966), Sống và viết với, Nxb Ngèi xanh, Sài Gòn.
3. Nguyễn Hiến Lê (2002), Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Nxb Văn hoá - Thông
tin.
4. Sơn Nam (1994), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Văn nghệ, TP HCM.
5. Sơn Nam (1998), Sài Gòn lục tỉnh xưa, Nxb TP Hồ Chí Minh.
6. Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ ký, Bản dịch Lê Hương, Sài Gòn.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa.
8. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb TP Hồ Chí Minh.
9. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh.
10. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Xuân (1969), Khi những lưu dân trở lại, Nxb Thời Mới, Sài Gòn.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 13-5-2011; ngày chấp nhận đăng: 06-6-2011)
32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thien_nhien_mien_tay_nam_bo_trong_truyen_ngan_son_nam_5324_2179163.pdf