Thị trường bán lẻ hiện đại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Thị trường bán lẻ hiện đại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: 30 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ HIỆN ĐẠI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Minh Đạt* TÓM TẮT Hệ thống phân phối bán buôn bán lẻ hàng hóa và dịch vụ có vai trò ngày càng lớn trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển và nâng cao mức sống dân cư. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, với việc mở cửa thị trường bán lẻ nội địa cho nước ngoài, cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ ở Việt Nam ngày càng sôi động và sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình lưu thông, phân phối hàng hóa. Điều này đòi hỏi việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ phải được đổi mới để phù hợp với tình hình. Bài viết này phân tích những biến động của thị trường bán lẻ hiện đại trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng và đưa ra một số giải pháp khuyến nghị về công tác quản lý nhà nước đối với thị trường bán lẻ. Từ khóa: thị trường bán lẻ hiện đại, hội nhập kinh tế quóc tế, hàng hóa và dịch vụ MODERN ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thị trường bán lẻ hiện đại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
30 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ HIỆN ĐẠI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Minh Đạt* TÓM TẮT Hệ thống phân phối bán buôn bán lẻ hàng hóa và dịch vụ có vai trò ngày càng lớn trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển và nâng cao mức sống dân cư. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, với việc mở cửa thị trường bán lẻ nội địa cho nước ngoài, cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ ở Việt Nam ngày càng sôi động và sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình lưu thông, phân phối hàng hóa. Điều này đòi hỏi việc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ phải được đổi mới để phù hợp với tình hình. Bài viết này phân tích những biến động của thị trường bán lẻ hiện đại trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng và đưa ra một số giải pháp khuyến nghị về công tác quản lý nhà nước đối với thị trường bán lẻ. Từ khóa: thị trường bán lẻ hiện đại, hội nhập kinh tế quóc tế, hàng hóa và dịch vụ MODERN RETAIL MARKET IN THE CONTEXT OF THE INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION ABSTRACT Wholesale and retail service distribution systems have a growing role in promoting economic development and improve living standards. In the context of the international economic integration, with the opening of the domestic retail market to foreign countries, the competitiveness of businesses operation in retail sector in Vietnam are more exciting and will have a significant impact on circulation and distribution of commodity. This requires state management of retail businesses must renovate to suit the situation. This article will analyse the dynamics of modern retail market in Vietnam context of deeper integration and give some solutions and recommendations for the state management of the retail market Keyword:modern retail market, international economic integration, goods and services. * Giảng viên Khoa Quản Trị, trường Đại Học Luật TP. HCM. NCS. Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam 31 Thị trường bán lẻ . . . 1. CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM CHO CÁC ĐỐI TÁC NƯỚC NGOÀI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Từ năm 2001 đến nay, Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế với thế giới bằng cách ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực như Hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ (2000), Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc (2002), FTA ASEAN – Hàn Quốc (2005), gia nhập WTO (2007), FTA ASEAN – Nhật Bản (2008), FTA ASEAN - Ấn Độ (2009), FTA ASEAN – Úc – Niu Di lân (2009), FTA Việt Nam – Chi lê (2011). Việt Nam cũng xúc tiến ký các hiệp định thương mại tầm cao như Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Đặc biệt từ khi là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã cam kết lộ trình mở cửa thị trường bán lẻ trong nước như sau1: y Từ tháng 1/2007, các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép thành lập các công ty liên doanh phân phối hàng hóa, trong đó phía nước ngoài được phép chiếm giữ 49% số vốn. y Từ 01/01/2008: cho phép liên doanh không hạn chế góp vốn từ phía nước ngoài. y Từ 01/01/2009: cho phép thành lập doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài. Việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) chỉ được xem xét tùy theo từng trường hợp cụ thể. y Từ 01/01/2010: các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ bán buôn, bán lẻ tất cả các mặt hàng sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam. 1 dich-vu-phan-phoi y Bắt đầu từ tháng 1/2015, thị trường bán lẻ Việt Nam được mở cửa hoàn toàn. Như vậy, trong khuôn khổ WTO hiện bao gồm 161 nước thành viên, thị trường bán lẻ của Việt Nam đã mở hoàn toàn. Với những FTA đã ký kết hoặc đang đàm phán để ký kết, trong đó có những đối tác đặc biệt mạnh về bán lẻ như Hoa Kỳ, Canada (trong TPP) hay EU (trong FTA Việt Nam - EU), thì dù các FTA này có mức độ tự do hóa rất mạnh trong llĩnh vực dịch vụ thì cam kết mở cửa thị trường bán lẻ cũng không thay đổi gì nhiều so với hiện nay2. 2. NHỮNG BIẾN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ HIỆN ĐẠI Doanh số thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2014 là 2.223,9 nghìn tỷ đồng và năm 2015 là 2.469,9 ngàn tỷ đồng. Năm 2015 so với 2014 doanh số bán lẻ tăng 10,6%, trong đó có một số ngành hàng tăng cao hơn mức bình quân như đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 15%; lương thực, thực phẩm tăng 14.8%; hàng may mặc tăng 13.3%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 12.4%. Tốc độ tăng trưởng doanh số bán lẻ đạt 7,3% bình quân hàng năm trong giai đoạn 2010-2015. Tại thời điểm 31/12/2015, cả nước có 8.568 chợ, 762 siêu thị, 139 trung tâm thương mại3. Theo quy hoạch của Bộ Công thương, đến năm 2020, cả nước có khoảng 1.200 -1.300 siêu thị, tăng 1,7 lần so với hiện nay. Số trung tâm thương mại và trung tâm mua sắm cũng tăng ở mức tương tự. Tỷ trọng bán lẻ qua mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại sẽ chiếm 45% tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội4. Khi Việt Nam tăng cường hội nhập, thị trường bán lẻ hiện đại của Việt Nam biến 2 le-cho-nuoc-ngoai-Viet-Nam-da-cam-ket-nhung-gi.html 3 Niên giám thống kê năm 2014. Trang 501-509. 4 loat-dai-gia-ban-le-nuoc-ngoai-o-at-vao-viet-nam 32 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật động như thế nào? Với quy mô tương đương khoảng trên 100 tỷ USD và tốc độ tăng hàng năm khá cao, thị trường bán lẻ Việt Nam khi được mở cửa trở thành đối tượng hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp thương mại nước ngoài. Đặc biệt là với thị hiếu của tầng lớp khách hàng trung lưu và cao cấp, trong khi hình thức bán hàng cũng như chất lượng sản phẩm đang ở mức thấp như Việt Nam, thì việc sở hữu thị phần bán lẻ còn là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp nước ngoài đưa sản phẩm từ nhà sản xuất nước ngoài tới tay người tiêu dùng Việt Nam. Có thể nói vắn tắt tình hình hiện đang diễn ra: Doanh nghiệp nước ngoài ùa vào chiếm lĩnh thị phần trong thị trường bán lẻ hiện đại trong khi đó doanh nghiệp trong nước có chuẩn bị nhưng ứng phó chậm và năng lực cạnh tranh trong hình thức kinh doanh bán lẻ hiện đại (siêu thị, trung tâm thương mại, các cửa hàng tiện lợi, thương mại điện tử) còn yếu kém. Cuộc cạnh tranh mở rộng thị phần ngày càng gay gắt, sẽ không chỉ là cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước mà còn là sự cạnh tranh ngay cả giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước với nhau để chiếm giữ thị phần. Trong khoảng 10 năm gần đây, nhiều “đại gia” bán lẻ thế giới đã ào ạt tràn vào Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường. Năm 2015, có tổng cộng 525 thương vụ mua bán sáp nhập (M&A) lớn có giá trị trên 4,3 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2014. Những vụ mua bán, sáp nhập đó mở đường cho sự đổ bộ của những tập đoàn lớn ngành bán lẻ nước ngoài đến từ Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Tập đoàn Aeon (Nhật Bản) đã mua 30% cổ phần của Fivimart và 49% của Citimart. Tập đoàn Berli Jucker (Thái Lan) đã mua toàn bộ 19 trung tâm phân phối và danh mục bất động sản có liên quan của Công ty Metro Cash & Carry Việt Nam. Lotte (Hàn Quốc) nắm sở hữu 70% cổ phần Trung tâm thương mại Diamond plaza. Central Group (Thái Lan) mua lại Big C Việt Nam từ tay tập đoàn Casino (Pháp) với giá trị hơn một tỷ USD. Cho đến hiện tại, miếng bánh bán lẻ đã bị các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh một phần lớn do họ có lợi thế về vốn, trình độ kỹ thuật, công nghệ, chiến lược bán hàng, quảng cáo, tiếp thị. Số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường bán lẻ đang gia tăng, chiếm 40% trong hơn 700 siêu thị và trung tâm thương mại trên khắp cả nước. Với xu thế như hiện nay thì đến năm 2020 hầu hết thị trường bán lẻ hiện đại Việt Nam sẽ có thể nằm trong tay các doanh nghiệp nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực bán buôn bán lẻ, kể từ sau khi gia nhập WTO và mở cửa thị trường bán lẻ, hệ thống chuỗi bán lẻ của các doanh nghiệp Việt Nam tuy đã phát triển nhưng mang nặng tính tự phát, thiếu ổn định, thiếu quy hoạch cụ thể và chưa bền vững rất dễ bị tổn thương mỗi khi có biến động khách quan bên ngoài. Điều khó khăn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam trong thị trường bán lẻ hiện nay là thiếu vốn đầu tư cho việc mở rộng và phát triển mạng lưới thị trường bán lẻ hiện đại. Các doanh nghiệp thương mại cũng thiếu vốn để có thể tạo lập được mối quan hệ lâu dài giữa cơ sở sản xuất và doanh nghiệp thương mại – điều mà các thương lái tư nhân vẫn có thể làm được khi kết nối giao thương với hàng trăm, hàng nghìn hộ sản xuất nhỏ. Thị trường bán lẻ hiện đại của các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nguy cơ không chỉ mất thị phần phân phối bán lẻ, mà còn mất cơ hội bán hàng Việt, trong khi hàng nước ngoài tràn vào qua các kênh doanh nghiệp thương mại nước ngoài.Hàng hóa của các nhà sản xuất Việt Nam ngày càng giảm 33 Thị trường bán lẻ . . . trên kệ hàng tại các điểm bán lẻ, cơ hội bán được hàng của doanh nghiệp Việt Nam cũng giảm sút. Ngoài ra, trong khi các doanh nghiệp FDI với doanh số rất cao ở thị trường Việt Nam luôn “xây dựng và liên tục củng cố các yếu tố nền tảng” thì đa số các doanh nghiệp trong nước lại luôn tìm cách đảm bảo doanh số ngắn hạn, ít (hoặc không có) đầu tư nguồn lực để xây dựng hoặc nâng cấp hệ thống1. 3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, có 2 luồng ý kiến: 1. Để lĩnh vực bán lẻ hiện đại hoàn toàn do thị trường điều tiết, nhà nước không cần can thiệp để các doanh nghiệp tự “bơi”. Doanh nghiệp nào đủ “sức khỏe” sẽ tồn tại. 2. Cần có bàn tay can thiệp của Nhà nước giúp cho các doanh nghiệp trong nước phát triển. Nhưng nhà nước can thiệp như thế nào để có thể giúp cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều phát triển, đóng góp to lớn cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam lại là một vấn đề đau đầu các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách. Sự kết hợp giữa “bàn tay hữu hình” của Nhà nước và “bàn tay vô hình” của cơ chế thị trường trong việc điều tiết thị trường bán lẻ là rất khó khăn. Hàng hóa và dịch vụ có tính thị trường thông thường nhất, nhưng không thể buông hoàn toàn cho “bàn tay vô hình” của thị trường điều chỉnh. Vẫn cần phải có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước, một mặt để hạn chế các mặt tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường nhằm đảm bảo một số nhu cầu tiêu 1 aspx?pg=News&id=96&name=CUOC-CHIEN-KHOC-LIET- -CANH-TRANH-BAN-LE dùng thiết yếu nhất của dân cư, mặt khác để đảm bảo định hướng của sự phát triển2. Thế nhưng, vai trò của nhà nước trong việc quản lý, điều tiết các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài bán lẻ hiện đại ở Việt Nam hãy còn quá yếu và thiếu, còn có quá nhiều lúng túng khi xảy ra cơn sốt giá. Nhà nước một mặt chưa quản lý tốt thị trường bán lẻ, không có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước giữ và mở rộng thị phần, mặt khác lại đẩy nhanh tiến độ mở cửa thị trường bán lẻ so với cam kết. Làm thế nào để có thể dung hòa thu hút các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường bán lẻ cũng như giúp được các doanh nghiệp Việt Nam trụ vững trên thị trường nước nhà và tất cả các loại hình doanh nghiệp này có thể cùng giúp Việt Nam phát triển và hội nhập sâu hơn là bài toán đau đầu các nhà quản lý. Trước tiên, nhà nước cần có quy hoạch tổng thể, đồng bộ thị trường bán lẻ của Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển. Cần có định hướng phát triển thị trường hàng hóa bán lẻ đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 hòa với định hướng phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Nhà nước cần quy hoạch vùng, quy hoạch nơi kinh doanh của các cơ sở bán lẻ lớn của các doanh nghiệp cả trong nước và nước ngoài; chứ không để phát triển tự phát theo yêu cầu của doanh nghiệp. Chính điều này sẽ có tác dụng tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thích ứng và phát triển; mặt khác làm cho thị trường bán lẻ hiện đại phát triển cân đối và ổn định. Vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức, quản lý hệ thống phân phối bán lẻ của Việt 2 Phương Nam: Nhận diện quy mô thương mại bán lẻ 2012: Những tác động đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2012-2013 34 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Nam còn nhiều hạn chế do thiếu chiến lược và quy hoạch cơ sở hạ tầng, để phát triển hệ thống phân phối bán lẻ. Chậm ban hành hoặc còn thiếu các chính sách và giải pháp để phát triển phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại như: siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, nhượng quyền thương mại. Hiện nay, đối với các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực bán lẻ, Việt Nam chưa có một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh cũng như chưa có các quy định cụ thể và chuyên biệt về quản lý các doanh nghiệp có vốn FDI sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ quản trong quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, nhưng thực sự chưa đủ khả năng theo dõi toàn bộ hoạt động đầu tư mà chỉ theo dõi được trong giai đoạn cấp giấy phép đầu tư. Nhà nước vẫn ôm đồm và can thiệp trực tiếp vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, song lại buông nhẹ những chức năng vô cùng quan trọng như quy hoạch, hỗ trợ, khuyến khích, giám sát và kiểm tra. Việc Nhà nước vẫn chưa tìm được phương thức quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, làm cho hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực thương mại còn yếu. Quản lý của Việt Nam chưa chặt chẽ để cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi dụng kẽ hở và chuyển giá trốn thuế, gây thất thoát tiền thuế nhà nước. Khi doanh nghiệp nước ngoài chuyển giá, về mặt lợi ích quốc gia Việt Nam không được gì cả khi không thu được thuế thu nhập doanh nghiệp. Những nhà quản lý kinh tế luôn hiểu rằng nếu thua lỗ thì không ai có thể liên tục mở rộng sản xuất. Thế nhưng điều vô lý hiện hữu là khi thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên tục khai báo lỗ mà vẫn tiếp tục xin mở rộng kinh doanh, các nhà quản lý vẫn cho phép. Như vậy là quản lý nhà nước không đơn thuần là lỏng lẻo mà dường như còn có những điều phi lý không thể giải thích bằng các nguyên lý kinh tế đơn thuần. Hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước chưa đảm bảo mục đích giữ thị phần bán lẻ cho các doanh nghiệp trong nước trong khuôn khổ thực hiện các cam kết hội nhập đã ký kết. Chẳng hạn theo cam kết WTO, trước khi các doanh nghiệp ngoại mở cơ sở bán lẻ phải xác định nhu cầu kinh tế cần thiết của địa điểm đó, nếu đảm bảo mới cấp phép (quy định ENT). Khi mở điểm kinh doanh mới thì phải căn cứ vào nhu cầu kinh tế của vùng đó (bao nhiêu dân thì cần một điểm bán)1. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có “khung ENT” ở cấp độ toàn quốc và mỗi tỉnh thành lại hướng dẫn áp dụng ENT một kiểu, khiến các nhà bán lẻ trong nước hầu như không được bảo vệ như tinh thần đàm phán WTO. Trường hợp Big C Hoàng Văn Thụ mở sau đã làm ảnh hưởng rất lớn đến Maximart Cộng Hòa là một ví dụ2. Thậm chí nhà đầu tư ngoại núp bóng các trung tâm thương mại nội địa để mở mạng lưới mà không bị bất cứ rào cản nào từ cơ quan nhà nước. Đặc biệt, theo thông tư 34/2013 của Bộ Công thương, các nhà bán lẻ nước ngoài không được phân phối các mặt hàng như gạo, đường mía, thuốc lá, xì gà... Nhưng thực tế hàng loạt siêu thị ngoại như Lotte, Big C, Circle K, Metro... đều đang bày bán công khai các mặt hàng này mà không hề bị nhắc nhở, xử phạt3. 1 Quy tắc Kiểm tra nhu cầu kinh tế - Economic Needs Test (ENT) đối với việc thành lập cơ sở bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2 aspx?pg=News&id=99&name=Viet-Nam-dang-danh-mat-thi- truong-ban-le 3 le-viet-nam-mat-bo-van-chua-lo-lam-chuong 35 Thị trường bán lẻ . . . Nhà nước cần có chính sách tín dụng và các biện pháp tạo điều kiện tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực bán buôn, bán lẻ. Các doanh nghiệp bán lẻ chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động rất hiệu quả. Đối với họ vốn vô cùng quan trọng. Nếu các ngân hàng có các chính sách tín dụng phù hợp sẽ có thể thu được lợi ích cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Luật Cạnh tranh Việt Nam đã được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2005, trong đó có các điều khoản quy định nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Qua 10 năm thực hiện, hiệu lực của Luật này còn hạn chế, bởi vì các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan chưa có đủ hệ thống biện pháp cụ thể. Đơn cử như chúng ta hầu như chưa có những biện pháp thực thi điều luật về việc chống độc quyền trong bán lẻ (chống việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, chống các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp). Trường hợp chủ sở hữu mới của Big C nâng mức chiết khấu thêm 4-5%, gây khó khăn cho các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa Việt có thể bị coi là hành vi lợi dụng vị trí thống lĩnh thị trường áp đặt giá mua bán bất hợp lý, cản trở và hạn chế sự tham gia thị trường của doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý nhà nước không hề nghĩ tới áp dụng Luật cạnh tranh; ngược lại, đại diện Nhà nước, cụ thể là Bộ Công Thương, cho rằng ”việc mua bán, nhập hàng của các doanh nghiệp và đại lý bán lẻ đều theo cơ chế thị trường, Nhà nước không can thiệp. Trừ trường hợp doanh nghiệp có bằng chứng về việc Big C phân biệt đối xử với mặt hàng của mình thì cung cấp để cơ quan quản lý Nhà nước xử lý”1. 4. CỦNG CỐ VỊ TRÍ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ TRONG NƯỚC Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng thế mạnh là hệ thống mạng lưới của mình, sự am hiểu của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường Việt Nam để có thể trụ vững trước ”cơn bão” ào ạt của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên thị trường bán lẻ chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì thế việc các doanh nghiệp liên kết lại với nhau trở thành tập đoàn bán lẻ với quy mô lớn trong cả nước thông qua việc hình thành các chuỗi siêu thị bán lẻ hiện đại, hệ thống các trung tâm thương mại bán lẻ.... Những tập đoàn bán lẻ Việt Nam với quy mô lớn sẽ trở thành những đối trọng với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Bản thân mỗi doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải hoàn thiện hệ thống bán lẻ, mạng lưới phân phối bán lẻ của mình. Mỗi doanh nghiệp cần có tiêu chí phát triển rõ ràng hướng về những chuẩn mực, lối sống, văn hóa của dân tộc, xây dựng niềm tin với khách hàng. Đặc biệt cần liên doanh với các nhà sản xuất trong nước sản xuất các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cần có những biện pháp riêng của mình để nâng cao năng lực nhân viên của doanh nghiệp mình. Cần có những đầu tư thích đáng trong việc hỗ trợ đào tạo, kiện toàn hệ thống nhân viên một cách chuyên nghiệp với phong cách bán hàng hiện đại. Các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể liên kết với các cơ sở đào tạo đào tạo các kiến thức và kỹ năng bán hàng, quản lý chuyên nghiệp. 1 tru-khi-big-c-phan-biet-doi-xu/253714.vgp 36 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Các hiệp hội bán buôn bán lẻ cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu, tư vấn giúp các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO: [1]. Trần An: Nâng cấp hệ thống phân phối bán lẻ để hội nhập, Tạp chí Thương mại, số 23-2006 [2]. Nguyễn Quốc Luật: Thị trường bán lẻ Việt Nam thời hội nhập, Tạp chí Con số và sự kiện, số 1-2/2008. [3]. Phan Tố Uyên: Phát triển chuỗi cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp thương mại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 165, 2011 [4]. Nguyễn Thị Phượng: Phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ ở Việt Nam thích ứng với cam kết hội nhập quốc tế, Tạp chí Giáo dục lý luận, 2012 [5]. Bùi Thanh Tráng: Thương mại bán lẻ Việt Nam: Tiềm năng và hạn chế, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 282, 2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf75_0834_2122325.pdf